Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Đề tài giải quyết tranh chấp thương mại thông qua trọng tài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.17 KB, 27 trang )

lOMoARcPSD|27827034

ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH TẾ, LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI

ĐỀ TÀI: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI THÔNG QUA TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM

Họ và tên: Cao Lê Yến Vy
Lớp: LA002
MSSV: 31201024362
Giảng viên hướng dẫn: Trần Huỳnh Thanh Nghị

TP. Hồ Chí Minh, 2022

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

MỤC LỤC

Đặt vấn đề 2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG

MẠI THÔNG QUA TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM 4

1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp thương mại 4

1.1.1. Khái niệm về tranh chấp thương mại 4

1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại 5

1.2. Khái quát về Trọng tài thương mại 6

1.2.1. Khái niệm về Trọng tài thương mại 6

1.2.2. Đặc điểm của Trọng tài thương mại 6

1.2.3 Các hình thức Trọng tài thương mại 7

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

THƯƠNG MẠI THÔNG QUA TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM 10

2.1 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài 10

2.1.1 Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài 10

2.1.2 Nguyên tắc Trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy

định của pháp luật 11


2.1.3 Nguyên tắc Trọng tài viên căn cứ vào pháp luật 12

2.1.4 Nguyên tắc Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa

thuận đó khơng vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội 12

2.1.5 Nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm 12

2.3 Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài 16

2.3.1 Đơn kiện và thụ lý đơn kiện 16

2.3.2 Bản tự bảo vệ của bị đơn 16

2.3.3 Thành lập Hội đồng trọng tài 16

2.3.4. Chuẩn bị giải quyết vụ việc 17

2.3.5. Hòa giải 17

2.3.6. Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và phán quyết trọng tài 17

CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI

THÔNG QUA TRỌNG TÀI VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 20

3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài 20

3.1.1. Hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng


1

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

tài 20

3.1.2. Những bất cập trong việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua

Trọng tài 21

3.2. Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh

chấp thương mại thông qua Trọng tài 23

3.2.1. Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về Trọng tài 23

3.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về Trọng tài 23

Kết luận 24

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 25

2

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, tình hình kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Song song
đó là nhu cầu giao dịch giữa các chủ thể trong thương mại ngày càng phổ biến và đa
dạng hơn bao giờ hết. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc
xảy ra các tranh chấp giữa các bên trong quan hệ thương mại khi cán cân cân bằng
giữa lợi ích của các bên bị mất cân đối do sự xâm phạm vơ ý hoặc cố ý của một trong
các bên. Vì vậy, việc các bên dự trù các phương án giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hoạt động thương mại là vô cùng cần thiết. Bên cạnh phương thức giải quyết tranh
chấp tại Tòa án, các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngồi Tịa án đang
được các bên trong tranh chấp thương mại ưa chuộng. Một trong những phương thức
giải quyết tranh chấp ngồi Tịa án khá thơng dụng và phổ biến trong quốc tế là
phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài. Tuy nhiên, tại Việt Nam,
phương thức này không được ưu tiên sử dụng khi các tranh chấp thương mại xảy ra.
Nguyên nhân có thể là vì các thương nhân Việt Nam chưa có thói quen sử dụng các
phương thức giải quyết tranh chấp ngoài Tịa án như Trọng tài cũng như việc Chính
phủ Việt Nam chưa chú trọng phổ biến và phát triển phương thức này tại Việt Nam.
Nhằm tìm hiểu kỹ hơn về phương thức này và đưa ra những bất cập trong thực tiễn
của việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài tại Việt Nam, từ đó
đưa ra một số khuyến nghị để phát triển phương thức đầy tiềm năng này.

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG
MẠI THÔNG QUA TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp thương mại

1.1.1. Khái niệm về tranh chấp thương mại

Hiện tại, các văn bản pháp luật tại Việt Nam chưa đưa ra định nghĩa thống nhất về
khái niệm “tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại” hay “tranh chấp thương
mại” (sau đây gọi là “tranh chấp thương mại”). Mỗi văn bản pháp luật có sự giải
thích khác nhau đối với thuật ngữ này nhưng nhìn chung đều tiếp cận dưới góc độ liệt
kê các tranh chấp. Theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015, thuật ngữ “tranh chấp thương
mại” được liệt kê dưới dạng “những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án” bao gồm: “(i) Các tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với
nhau và đều có mục đích lợi nhuận, (ii) Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ,
chuyển giao cơng nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận,
(iii) Các tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên cơng ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với cơng ty, thành viên công ty, (iv) Các tranh chấp
giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản
lý trong Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc,
Tổng giám đốc trong Công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao
tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty và (v) Các tranh chấp
khác về kinh doanh, thương mại”1. Đối với Luật thương mại 2005, thuật ngữ này
khơng được đưa ra khái niệm cụ thể, nhưng có các quy định liên quan đến việc giải
quyết các tranh chấp trong thương mại và một trong những hình thức giải quyết các
tranh chấp đó là thơng qua Trọng tài. Thủ tục giải quyết các tranh chấp trong thương
mại tại Trọng tài được quy định trong Luật Trọng tài thương mại 2010. Theo đó, thẩm
quyền của Trọng tài là giải quyết các tranh chấp mà pháp luật có quy định giải quyết
bằng Trọng tài khi có thỏa thuận chọn Trọng tài hợp pháp của các bên trong tranh
chấp, trong đó có các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Mà khái niệm về
“hoạt động thương mại” được định nghĩa trong Luật thương mại 2005 rất rộng, mang
tính bao trùm tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Điều này dẫn đến việc các
tranh chấp trong thương mại khơng nhất thiết là các tranh chấp có thể đưa ra Trọng tài
giải quyết như quy định tại Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại 2010 mà nó còn

được hiểu theo nghĩa mở rộng ra là “các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực

1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

hiện các hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các chủ thể thực hiện các hoạt động
đó”2.

1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại
Nhìn chung, những tranh chấp thương mại được liệt kê trong văn bản pháp luật Việt
Nam đều có chung các đặc điểm sau:
Thứ nhất, nguồn gốc phát sinh các tranh chấp thường phát sinh từ các hoạt động
thương mại. Căn cứ phát sinh tranh chấp này là các hành vi vi phạm hợp đồng hoặc
trái pháp luật của các bên có quyền và nghĩa vụ trong quan hệ thương mại. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp, mặc dù một bên có hành vi xâm phạm đến quyền và nghĩa
vụ của bên còn lại nhưng khơng dẫn đến tranh chấp giữa các bên. Ngồi ra, vì phát
sinh từ các hoạt động thương mại nên các tranh chấp này chịu ảnh hưởng bởi một số
yếu tố chi phối các hoạt động này.
Thứ hai, các tranh chấp này thường phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh mà đại đa
số là các tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp với nhau. Ngoài ra, các tranh
chấp mà có ít nhất một bên tham gia hoạt động thương mại thì cũng được xem là tranh
chấp thương mại và các tranh chấp này có thể giải quyết thơng qua con đường Trọng
tài theo Luật Trọng tài thương mại 2010. Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 có
đề cập đến một trường hợp cũng được xem như là tranh chấp thương mại, đó là
“tranh chấp trong nội bộ công ty liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của cơng ty, chuyển đổi hình thức tổ
chức của công ty”. Việc pháp luật Việt Nam xem việc tranh chấp trong nội bộ công ty

là tranh chấp thương mại bởi vì định nghĩa về hoạt động thương mại rất rộng, mang
tính bao trùm cao (trong đó bao gồm hoạt động đầu tư). Vì vậy, tranh chấp trong nội
bộ của công ty sẽ được xem là tranh chấp thương mại nếu nó có liên quan đến hoạt
động đầu tư.
Thứ ba, tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại có thể được giải quyết bằng
nhiều phương thức khác nhau, bao gồm giải quyết thơng qua Tịa án và giải quyết
bằng các con đường khác ngồi Tịa án. Tại Việt Nam, pháp luật hiện hành quy định
ngoài việc giải quyết tranh chấp thơng qua Tịa án, các chủ thể cịn có thể giải quyết
thơng qua hồ giải, thương lượng hoặc Trọng tài. Việc lựa chọn Trọng tài để giải
quyết tranh chấp tại Việt Nam sẽ được điều chỉnh bởi Luật Trọng tài thương mại
2010. Tuy nhiên phương thức này chưa được sử dụng phổ biến. Hầu hết các bên khi
xảy ra tranh chấp thường chọn giải quyết thơng qua Tịa hơn. Mặc dù, so với Tịa,
phương thức Trọng tài mang tính bảo mật cao hơn và tiết kiệm hơn nhưng có thể do

2 Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.

5

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

xuất phát từ thói quen cũng như việc Luật Trọng tài thương mại Việt Nam chưa có
nhiều đổi mới để phù hợp với sự phát triển của xã hội dẫn đến các bên trong tranh
chấp e ngại khi phải lựa chọn phương thức này để giải quyết tranh chấp.

1.2. Khái quát về Trọng tài thương mại

1.2.1. Khái niệm về Trọng tài thương mại

Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài là được xem là
phương thức ngày một phổ biến trong cộng đồng thương nhân quốc tế hiện nay. Hiện
nay, trên thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong việc đưa ra định nghĩa về
khái niệm Trọng tài thương mại nhưng nhìn chung đều tiếp cận khái niệm này dưới
dạng một phương thức giải quyết tranh chấp:
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp
bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và
họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi
hành”.
Từ điển Black’s Law định nghĩa: “Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp theo đó
bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) ra phán quyết sau khi tất cả các bên tranh chấp
đã trình bày ý kiến, quan điểm của mình về vụ việc. Trong trường hợp trọng tài tự
nguyện, các bên tranh chấp là người chọn lựa Trọng tài viên và Trọng tài viên này là
người có quyền ra phán quyết. Phán quyết có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các
bên tranh chấp.”
Tại Việt Nam, theo quy định của khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm
2010: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa
thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này.”
Tóm lại, hiện nay, pháp luật của đại đa số quốc gia trên thế giới đều nhìn nhận về khái
niệm Trọng tài thương mại theo hai phương diện: (i) Trọng tài thương mại là một cơ
quan giải quyết tranh chấp và (ii) Trọng tài thương mại là một phương pháp giải
quyết tranh chấp.

1.2.2. Đặc điểm của Trọng tài thương mại
Hình thức giải quyết tranh chấp thơng qua Trọng tài có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại chỉ xuất hiện
trong một tranh chấp cụ thể nào đó khi các bên tranh chấp tự nguyện lựa chọn Trọng
tài để giải quyết. Nghĩa là, nếu một bên trong các bên không đồng ý phương thức giải
quyết này thì Trọng tài thương mại sẽ khơng có thẩm quyền giải quyết. Tuy nhiên, nếu


Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

các bên đã có thỏa thuận hợp pháp từ trước rằng sẽ lựa chọn Trọng tài làm phương
thức giải quyết khi có tranh chấp phát sinh thì việc áp dụng Trọng tài để giải quyết lại
là yêu cầu bắt buộc. Lúc này, Tòa án sẽ khơng có thẩm quyền để giải quyết tranh chấp
đó.
Thứ hai, Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ
ba khách quan để giúp các bên giải quyết tranh chấp. Khác với hòa giải và tương tự
như Tòa án, các tổ chức (hoặc cá nhân) là bên thứ ba tham gia vào quá trình giải quyết
tranh chấp của các bên có quyền đưa ra quyết định giải quyết tranh chấp có tính chất
ràng buộc các bên. Quyết định này của Trọng tài viên hoặc Hội đồng trọng tài là
chung thẩm và có tính chất pháp lý ràng buộc các bên trong tranh chấp.
Thứ ba, Trọng tài là phương thức giải quyết khơng có sự can thiệp của Chính phủ.
Tuy nhiên, vì quyết định của Trọng tài là chung thẩm và mang tính pháp lý ràng buộc
nên phương thức này vẫn phải được chịu điều chỉnh bởi các quy định pháp luật cụ thể
bởi các quốc gia sở tại.
Thứ tư, tố tụng trọng tài được đánh giá là linh hoạt, mềm dẻo hơn so với tố tụng tại
Tòa. Các bên tranh chấp được quyền lựa chọn trọng tài quyền, được quyền lựa chọn
ngôn ngữ, địa điểm và thời gian diễn ra xét xử.

1.2.3 Các hình thức Trọng tài thương mại
Trên thế giới cũng như tại Việt Nam, Trọng tài thương mại tồn tại dưới dạng hai hình
thức: Trọng tài quy chế (Trọng tài thường trực; Trọng tài thường xuyên) và Trọng tài
tài vụ việc (Trọng tài ad-hoc).
1.2.3.1 Trọng tài quy chế
Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài hoạt động thường xuyên dưới dạng các Trung
tâm trọng tài như Tòa án trọng tài quốc tế (IAC), Hiệp hội trọng tài Mỹ (AAA), Trọng
tài quốc tế Singapore, Trọng tài quốc tế Hồng Kông, Trọng tài quốc tế Việt Nam –

VIAC,... Các Trung tâm trọng tài được thành lập và tổ chức hoạt động tuân thủ các quy
định pháp luật của quốc gia mà nó thành lập và hoạt động. Nó có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, Trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân và hoạt động độc lập với nhau.
Giữa các Trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phân cách hành chính theo cả
chiều ngang và chiều dọc.
Thứ hai, Trung tâm trọng tài chỉ chịu sự quản lý của nhà nước và phải tự chủ về kinh
phí. Nó được hình thành bởi các Trọng tài viên và được nhà nước cấp phép cho hoạt
động. Các trung tâm này phải tự trang trải các kinh phí hoạt động thơng qua nguồn thu
từ việc giải quyết tranh chấp. Nhà nước không hỗ trợ kinh phí cho các Trung tâm
trọng tài mà chỉ quản lý nó bằng việc tạo ra những hành lang pháp lý cho việc tổ chức

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

và hoạt động của Trung tâm trọng tài như cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy
phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài,...
Thứ ba, Trung tâm trọng tài có mơ hình bộ máy đơn giản bao gồm chủ tịch, một hoặc
các Phó Chủ tịch Trung tâm trọng tài và Tổng thư ký Trung tâm trọng tài do Chủ tịch
của Trung tâm đề cử.
Thứ tư, Trung tâm trọng tài được tự quyết định về hiệu lực và quy tắc tố tụng riêng.
Các trung tâm này sẽ dựa trên một số bản quy tắc về trọng tài hoặc một số cơng ước
có liên quan để xây dựng nên quy tắc tố tụng riêng của mình. Ngồi ra, bởi vì Trung
tâm trọng tài có tư cách pháp nhân nên khi giải quyết tranh chấp các Trọng tài viên
phải tuân thủ điều lệ riêng, quy tắc tố tụng và không vi phạm pháp luật hiện hành, đạo
đức xã hội. Bên cạnh đó các Trung tâm có quyền chọn một lĩnh vực hoạt động dựa
trên thế mạnh của các Trọng tài viên của Trung tâm và có quyền thay đổi khi có nhu
cầu.
Cuối cùng, các Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài là chủ thể tiến hành quá trình
giải quyết tranh chấp. Các bên trong quan hệ tranh chấp khi lựa chọn phương thức

giải quyết bằng Trọng tài tại một Trung tâm trọng tài có quyền được tự quyết định
Trọng tài viên nhưng chỉ trong khuôn khổ các Trọng tài viên của trung tâm đó.
Dựa trên các đặc điểm trên, có thể nhận thấy ưu điểm lớn nhất khi lựa chọn hình thức
Trọng tài này là tính chất thường xun, ổn định trong hoạt động, có quy tắc tố tụng
riêng với danh sách các Trọng tài viên cố định. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức
này là phí trọng tài thường cao do phải chi trả cho việc duy trì hoạt động của trung
tâm và thời gian có thể kéo dài hơn trọng tài do các bên tự thành lập do phải tuân thủ
theo quy chế tố tụng riêng của mình.
Tại Việt Nam, theo khoản 6 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010, Trọng tài quy
chế “là hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của
Luật này và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó”. Chương IV của Luật này
quy định về chức năng, điều kiện và thủ tục thành lập Trung tâm trọng tài và các
quyền và nghĩa vụ cơ bản khác của Trọng tài quy chế.
1.2.3.2 Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc (Trọng tài ad-hoc): là hình thức trọng tài khơng có cơ quan thường
trực, do các bên tranh chấp lập ra để giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của các bên
này3. Hình thức này có một số đặc điểm sau:

3 Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

Thứ nhất, trong hình thức này, Trọng tài chỉ được các bên thỏa thuận thành lập khi có
tranh chấp xảy ra và tự giải thể khi xong việc.
Thứ hai, hình thức này khơng có cơ quan thường trực hay nói cách khác là khơng có
bộ máy điều hành chính thức nên khơng có danh sách Trọng tài viên và trụ sở chính
thức. Các Trọng tài viên tham gia thực hiện quá trình tiến hành giải quyết tranh chấp

sẽ do các bên tự thỏa thuận lựa chọn từ các Trung tâm trọng tài.
Thứ ba, hình thức này khơng có quy tắc tố tụng của riêng mình mà phụ thuộc vào sự
thỏa thuận của các bên tranh chấp. Các bên đó có thể lựa chọn những quy trình giải
quyết tranh chấp của những tổ chức uy tín trong nước hoặc trên thế giới để Trọng tài
vụ việc áp dụng và đưa ra phán quyết. Vậy nên, mặc dù khơng có quy tắc tố tụng nào
để lệ thuộc vào nhưng Trọng tài viên vẫn phải đảm bảo những nguyên tắc chung như
khách quan, không trái luật và đạo đức xã hội khi tiến hành xét xử.
Tại Việt Nam, theo khoản 7 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010: “Trọng tài vụ
việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật này và trình tự, thủ tục
do các bên thỏa thuận”. So với hình thức trọng tài quy chế, hình thức này có một số
ưu điểm nổi bật hơn như: (i) Quyền tự quyết định của các bên sẽ được mở rộng hơn
do các bên tranh chấp phải tự thỏa thuận lựa chọn một bộ quy tắc tố tụng riêng từ
các trung tâm trọng tài hoặc tự xây dựng bộ quy tắc tố tụng riêng của mình, (ii) Chi
phí sẽ thấp hơn do khơng phải chi trả cho các hoạt động duy trì bộ máy hoạt động,
(iii) Thời gian giải quyết tranh chấp sẽ được rút gọn hơn do các bên trong tranh chấp
có thể tự thỏa thuận lựa chọn linh hoạt quy tắc tố tụng riêng cho vụ việc tranh chấp
của họ.
Tuy nhiên, hình thức trọng tài này cũng tồn tại một số khuyết điểm như: (i) Vì khơng
có quy tắc tố tụng riêng từ trước, nếu một trong hai bên thiếu thiện chí khi có tranh
chấp xảy ra thì việc giải quyết tranh chấp sẽ gặp khó khăn, (ii) Các bên sẽ gặp khó
khăn trong việc lựa chọn và chỉ định Trọng tài viên khi khơng sẵn có các danh sách
Trọng tài viên, hoặc khi một bên trong tranh chấp không hợp tác hoặc không tán
thành Trọng tài viên do bên kia lựa chọn và (iii) Việc công nhận và thi hành phán
quyết của Trọng tài vụ việc ở nước ngoài sẽ có thể gặp khó khăn vì Tịa án trong thực
tiễn thường dễ dàng công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài quy chế đến
từ các Trung tâm trọng tài uy tín. Vì những lý do này mà hình thức Trọng tài ad-hoc
chỉ phù hợp để giải quyết các tranh chấp nhỏ thay vì các tranh chấp lớn mang tính
quốc tế.

Downloaded by Do Thuy Trang ()


lOMoARcPSD|27827034

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI THÔNG QUA TRỌNG TÀI TẠI VIỆT NAM

2.1 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài thương mại ngày càng
được lựa chọn phổ biến, kèm theo đó các Trọng tài viên phải luôn tuân thủ các nguyên
tắc khi thụ lý và giải quyết các tranh chấp. Trường hợp nếu vi phạm nguyên tắc này,
việc giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài sẽ trái với pháp luật, khơng
được nhà nước bảo hộ và khơng có hiệu lực đối với các chủ thể tham gia.
Công bằng, đúng pháp luật và nhanh chóng, kịp thời, tránh kéo dài ảnh hưởng nhiều
đến các hoạt động sản xuất kinh doanh là những yêu cầu hàng đầu đối với giải quyết
tranh chấp thương mại. Để đáp ứng được những yêu cầu này, việc giải quyết tranh
chấp thông qua Trọng tài thương mại phải được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc
nhất định.

2.1.1 Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
Sự đồng thuận là điều “không thể thiếu trong tất cả các loại hình giải quyết tranh
chấp ngồi tịa án”4 và là ngun tắc cơ bản của tố tụng trọng tài. Thoả thuận Trọng
tài là sự thỏa thuận thống nhất giữa các bên về việc lựa chọn Trọng tài làm cơ quan có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong quan hệ kinh doanh thương mại “có thể
phát sinh hoặc đã phát sinh”5. Điều kiện để thoả thuận Trọng tài có hiệu lực khi thỏa
thuận trọng tài được thể hiện bằng các điều khoản hợp đồng thương mại hoặc thỏa
thuận riêng giữa các bên tranh chấp và phải được lập thành văn bản. Từ những cơ sở
đó, cơ quan trọng tài mới có đủ thẩm quyền để giải quyết tranh chấp và phán quyết
mới có hiệu lực. Khi một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực sẽ thể hiện nguyện vọng, ý
chí và quyền tự do của các bên trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại phát
sinh.

Khi thỏa thuận về việc lựa chọn Trọng tài của các bên được lập thành văn bản, hoặc
một số hình thức khác có giá trị tương đương văn bản thì được gọi là thỏa thuận trọng
tài. Những quy định này không chỉ được công nhận trong Luật Trọng tài thương mại
năm 2010 của Việt Nam (khoản 2 Điều 16), mà cịn được cơng nhận trong Luật Trọng
tài của các nước (Điều 7(2) Luật mẫu; Điều 5 Luật Trọng tài Anh năm 1996; Điều
1443 Luật Trọng tài Pháp; Điều 178 Luật Trọng tài Thụy Sỹ; Điều 1031 Luật Trọng

4 Nigel Blackbaby, Constantine Partasides, Alan Redfern, Martin Hunter, Trung tâm Trọng tài Quốc tế
Việt Nam - Trọng tài Quốc tế (ấn bản lần thứ 6), International Finance Corporation, World Bank
Group, Oxford.
5 ThS. Nguyễn Thị Khế (2008), Giáo trình Luật Thương mại tập II, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.
Công an Nhân dân, tr.471.

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

tài Đức). Nếu thỏa thuận trọng tài được thực hiện trước khi tranh chấp phát sinh, nó
có thể là một điều khoản được quy định trong hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, chấm
dứt hay hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm
mất hiệu lực của thỏa thuận trọng tài6 (Điều 19 Luật Trọng tài thương mại năm 2010,
Điều 7 Luật Trọng tài Anh năm 1996; Điều 178(3) Luật Trọng tài Thụy Sĩ), trừ khi sự
vô hiệu của hợp đồng cũng là nguyên nhân dẫn đến sự vơ hiệu trong thỏa thuận trọng
tài. Vì điều khoản trọng tài là điều khoản về tố tụng, do vậy mang tính độc lập với hợp
đồng nên đây được xem là một trường hợp được quy định khá đặc biệt. Nếu thỏa
thuận được thực hiện sau khi tranh chấp phát sinh, nó sẽ được đưa ra như là một thỏa
thuận riêng, thông thường là văn bản phụ lục hợp đồng, đính kèm và phát sinh hiệu
lực cùng với giá trị của hợp đồng chính. Như vậy, dù được thực hiện trước hoặc sau
khi phát sinh tranh chấp xảy ra thì thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực và giá trị trao
quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên cho trọng tài, đồng thời trọng tài phải tôn

trọng thỏa thuận mà các bên đã lựa chọn.

2.1.2 Nguyên tắc Trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định
của pháp luật

Cơ quan trọng tài hoạt động như một bên thứ ba để phân xử và đưa ra phán quyết. Để
đảm bảo tính cơng bằng của một phán quyết, sự độc lập của Trọng tài viên đối với các
bên trong tranh chấp là một tiêu chí quan trọng hàng đầu. Khi giải quyết tranh chấp,
Trọng tài viên không được có bất kỳ lợi ích nào liên quan đến vụ việc, có nghĩa vụ
hành động một cách vơ tư, khách quan và thông báo kịp thời về bất kỳ sự việc nào có
thể ảnh hưởng đến sự vơ tư và khách quan của mình. Với nguyên tắc này, các điều
kiện về trình độ, năng lực, kinh nghiệm và phẩm chất đạo đức, Trọng tài viên phải đáp
ứng được.

Những nguyên tắc này được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013 (khoản 2 Điều 103),
Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 (khoản 1 Điều 9), Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 (Điều 12): “Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử vụ án dân sự, Thẩm
phán giải quyết việc dân sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đây là ngun tắc
đảm bảo tính khách quan, vơ tư, đúng pháp luật của phán quyết trọng tài; đồng thời là
cơ sở quan trọng cho việc lập những phán quyết, bản án, quyết định bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Điều này không chỉ được ghi nhận ở Luật
Trọng tài thương mại năm 2010 hiện hành, mà đã được ghi nhận từ những văn bản
pháp luật trước đây về Trọng tài (Điều 6 Nghị định số 116/CP ngày 05/9/1994 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Trọng tài kinh tế; Điều 9 Điều lệ tổ chức
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 204/TTg
ngày

6 Điều 19 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Điều 7 Luật Trọng tài Anh năm 1996; Điều 178(3)
Luật Trọng tài Thụy Sĩ


Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

28/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt
Nam; khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003). Chính nguyên tắc
này đã giúp cho các chủ thể kinh doanh niềm tin để quyết định lựa chọn thỏa thuận
trọng tài hay Tòa án là cơ quan giải quyết cho mình khi phát sinh tranh chấp.
Bên cạnh đó, theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010, các Trọng tài viên phải là
những người có đủ năng lực hành vi dân sự; có trình độ đại học và kinh nghiệm thực
tế cơng tác từ 05 năm trở lên hoặc là những chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong
giải quyết tranh chấp trong thực tiễn.7

2.1.3 Nguyên tắc Trọng tài viên căn cứ vào pháp luật
Phương thức Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp ngồi Tịa án, tuy nhiên
việc giải quyết tranh chấp thông qua phương thức này không được phép vượt quá giới
hạn các quy định pháp luật. Trọng tài viên không chỉ cần xem xét các tình tiết, chứng
cứ trong vụ việc mà cịn phải đưa ra quyết định một cách công bằng nhất, hợp lý nhất
dựa trên các căn cứ pháp luật. Các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài nếu có dấu
hiệu cho thấy Trọng tài viên khơng căn cứ vào các quy định pháp luật hoặc vi phạm
đạo đức nghề nghiệp trong quá trình giải quyết tranh chấp và Trọng tài viên vi phạm
các quy định pháp luật có thể phải chịu những trách nhiệm pháp lý nhất định.

2.1.4 Nguyên tắc Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa
thuận đó khơng vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội
Trong quá trình Trọng tài viên xem xét và giải quyết vụ việc, quyền tự định đoạt của
các bên tranh chấp vẫn được đảm bảo. Trên cơ sở thỏa thuận, các bên có thể quyết
định lựa chọn Trung tâm trọng tài, Trọng tài viên, thời gian, địa điểm giải quyết tranh
chấp, có quyền thỏa thuận để giải quyết tranh chấp và được trọng tài công nhận sự
thỏa thuận đó. Như vậy, trong tố tụng trọng tài các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận

để quyết định thủ tục tiến hành và cơ quan trọng tài có nghĩa vụ phải tơn trọng và tn
theo những quyết định đó.

2.1.5 Nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm
Thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản hơn rất nhiều so với tịa án. Vì vậy, việc giải quyết
tranh chấp thông qua Trọng tài diễn ra rất nhanh chóng và dứt điểm. Ngồi ra, Trọng
tài là một tổ chức độc lập, không chịu sự kiểm soát, chỉ đạo của bất kỳ cơ quan nào và
không tổ chức theo cấp xét xử như Tịa án. Phán quyết này có giá trị ràng buộc, các
bên có trách nhiệm tơn trọng và thực thi. Nếu một bên khơng tự nguyện, bên cịn lại
có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế thi hành.

7 Điều 20 Luật Trọng tài thương mại 2010

12

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

Nguyên tắc xét xử một lần là nguyên tắc mang nét đặc trưng của tố tụng trọng tài,
khác với nguyên tắc bảo đảm xét xử sơ thẩm, phúc thẩm8 (Điều 6 Luật tổ chức Tồ án
nhân dân 2014) của tố tụng tịa án. Xét xử một lần được hiểu là khi Trọng tài viên đã
đưa ra phán quyết, phán quyết sẽ có giá trị cuối cùng và có hiệu lực thi hành ngay lập
tức mà khơng có kháng cáo, kháng nghị. Điều này giúp cho việc giải quyết các tranh
chấp kết thúc nhanh chóng, tránh tốn nhiều thời gian. Vì vậy, việc giải quyết tranh
chấp thông qua Trọng tài đáp ứng tốt yêu cầu khi đưa tranh chấp của các bên ra Trọng
tài và làm cho Trọng tài trở thành phương thức nhận được nhiều lựa chọn khi có tranh
chấp. Điều này cũng thể hiện và địi hỏi trình độ chun mơn của các Trọng tài viên.
2.2 Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của Trọng tài


Thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là giới hạn những vụ việc mà pháp
luật cho phép Trọng tài được giải quyết.9 Dựa trên bản chất tự nguyện của Trọng tài
mà theo đó ý chí của các bên được tôn trọng, một Hội đồng trọng tài chỉ có thẩm
quyền giải quyết hợp pháp các tranh chấp mà các bên đồng ý giải quyết.10 Khoản 1
Điều 5 Luật Trọng tài thương mại 2010 cũng thể hiện rõ điều này khi quy định:
“Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài”.
Nghĩa là, điều kiện cần để Trọng tài có thẩm quyền giải quyết một vụ tranh chấp là
các bên đều đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp phát sinh bằng phương thức
Trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng
tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.11 Thỏa thuận trọng tài được
quy định cụ thể là một điều khoản trong hợp đồng quy định rõ việc giải quyết tranh
chấp của hợp đồng sẽ bằng trọng tài thương mại. Đối với hình thức là thỏa thuận
riêng, các bên sẽ ghi nhận thỏa thuận trọng tài trong một văn bản tách biệt với hợp
đồng ký kết. Hợp đồng không ghi nhận việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại thành một điều khoản của hợp đồng.12
Pháp luật Việt Nam, cụ thể là Điều 2 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định về các
trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại của Trọng tài theo
hướng liệt kê, bao gồm:
(i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại

Đối với trường hợp này, các bên trong tranh chấp đều phải là các chủ thể tiến hành
hoạt động thương mại. Khái niệm “hoạt động thương mại” không được quy định tại

8 Điều 6 Luật tổ chức Toà án nhân dân 2014
9 Đoàn Trung Kiên, Nguyễn Thị Vân Anh, ‘Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại
tại Việt Nam’, Tạp chí nghề Luật số 06/2020, />10 Nigel Blackaby, Constantine Partasides QC và các tác giả, Redfern & Hunter Trọng tài quốc tế,
tr.454.
11 Khoản 1 Điều 16 Luật Thương mại quốc tế 2010
12 Hình thức của thỏa thuận trọng tài, stac.com.vn, />
Downloaded by Do Thuy Trang ()


lOMoARcPSD|27827034

Luật Trọng tài thương mại 2010. Tuy nhiên, Luật Thương mại 2005 định nghĩa:
“Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”. Do đó, có thể hiểu trong trường hợp này, các bên thực hiện hoạt động
thương mại là thực hiện hoạt động nhằm mục đích sinh lợi.
Các bên thực hiện hoạt động thương mại ở đây phổ biến nhất là thương nhân13, bao
gồm thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Luật Trọng tài thương mại
2010 không quy định về giới hạn thẩm quyền của Trọng tài trong việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại được thực hiện trên lãnh thổ Việt
Nam.14 Do đó, đối với tranh chấp thương mại xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam hoặc
ngoài lãnh thổ Việt Nam, các bên có thể thỏa thuận chọn Trọng tài làm phương thức
giải quyết tranh chấp theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010. Bên cạnh đó,
các bên cịn có thể là cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên
mà không phải đăng ký kinh doanh. Đây cũng là chủ thể thực hiện hoạt động thương
mại theo Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 nhưng không được gọi là
“thương nhân”.
(ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại
Trước khi Luật Trọng tài thương mại 2010 được ban hành, Pháp lệnh Trọng tài
thương mại 2003 quy định Trọng tài khơng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát
sinh giữa một bên là thương nhân và bên kia khơng phải là thương nhân. Theo đó, chỉ
có tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại thực hiện bởi tổ chức, cá nhân kinh
doanh mới được áp dụng Trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp. Hiện tại,
theo Luật Trọng tài thương mại 2010, chỉ cần ít nhất một bên có hoạt động thương
mại và bên cịn lại không phải là thương nhân hoặc cá nhân thực hiện hoạt động
thương mại, khi có tranh chấp xảy ra, Trọng tài vẫn sẽ có thẩm quyền giải quyết.
Như đã phân tích, một bên có hoạt động thương mại có thể là thương nhân hoặc cá

nhân thực hiện hoạt động thương mại. Bên còn lại là các cá nhân, tổ chức khơng kinh
doanh, trong đó có thể bao gồm các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của
Nhà nước. Ví dụ, người tiêu dùng có thể là một bên trong quan hệ với bên có hoạt

13 Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được
thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký
kinh doanh.”. Thương nhân là một chủ thể thực hiện hoạt động thương mại.
14 Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại, Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

động thương mại.15 Trên thực tế, đã có một số vụ việc tranh chấp giữa người tiêu dùng
và thương nhân được giải quyết bằng phương thức Trọng tài.

Cụ thể là tranh chấp giữa công ty Samsung ViNa với chị P (Hà Nội) phát sinh về hợp
đồng mua bán Tivi Samsung LCD có điều khoản thỏa thuận “nếu hai bên không đạt
được thỏa thuận dàn xếp tranh chấp sẽ do Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam bên
cạnh phịng thương mại và cơng nghiệp Việt Nam ở 33 phố Bà Triệu – Hà Nội giải
quyết. Quyết định của Trung tâm Trọng tài sẽ là cuối cùng và hai bên có nghĩa vụ
tuân theo”. Sau khi mua hàng, chị P phát hiện lỗi màn hình của chiếc Tivi nhưng công
ty Samsung Vina từ chối bảo hành. Trên cơ sở đã thỏa thuận tại Hợp đồng, hai bên
đưa tranh chấp lên Trung tâm Trọng tài thương mại để giải quyết. Trung tâm Trọng tài
thương mại đã giải quyết vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật, yêu cầu công ty
Samsung ViNa bảo hành chiếc tivi Samsung LCD cho chị P do xét thấy lỗi màn hình
của chiếc Tivi xuất phát từ lỗi linh kiện điện tử của công ty. Quyết định này được các
hai bên nhất trí và tự nguyện thi hành.
Hoặc các cơ quan, tổ chức giao dịch với bên có hoạt động thương mại nhằm phục vụ

cho nhiệm vụ của mình cũng là một chủ thể khơng có hoạt động thương mại, ví dụ
một bệnh viện công ủy thác cho một thương nhân nhập khẩu cho bệnh viện đó thiết bị
y tế thuộc trường hợp này.16

(iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài

Bên cạnh hai trường hợp cụ thể được liệt kê mà Trọng tài có thẩm quyền giải quyết
khi phát sinh tranh chấp, Luật Trọng tài thương mại 2010 đưa ra một quy định mở,
theo đó cho phép Trọng tài giải quyết những tranh chấp mà pháp luật cho phép được
giải quyết. Ví dụ, các tranh chấp trong nội bộ doanh nghiệp có thể được giải quyết
bằng Trọng tài theo Điều 151 Luật Doanh nghiệp 2020. Một trong những ưu điểm của
việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức Trọng tài thương mại là tính bảo mật
thơng tin. Việc cho phép các tranh chấp nội bộ của doanh nghiệp được giải quyết bởi
Trọng tài giúp doanh nghiệp đảm bảo bí mật thơng tin, như bí quyết cơng nghệ thơng
tin, bí quyết kinh doanh, các tài liệu quan trọng cần thiết bảo mật… Vì vậy, mặc dù
không thuộc hai trường hợp được liệt kê, nếu quy định pháp luật cho phép các trường
hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài, Trọng tài sẽ có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đó nếu các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.

15 Theo Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, trọng tài là một trong các phương thức giải quyết
tranh chấp phát sinh nếu có thỏa thuận trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài giữa người
tiêu dùng với thương nhân được quy định từ Điều 38 đến Điều 40 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng năm 2010.
16 Giáo trình Pháp luật về cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại, Trường Đại học Luật TP.
Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam.

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034


2.3 Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại thông qua Trọng tài

2.3.1 Đơn kiện và thụ lý đơn kiện
Để tiến hành giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài, nguyên đơn phải gửi đơn kiện
đến Trung tâm Trọng tài nếu thuộc trường hợp thỏa thuận giải quyết bằng Trung tâm
Trọng tài hoặc gửi đơn kiện cho bị đơn nếu trong trường hợp giải quyết bằng Trọng tài
vụ việc.
Đơn khởi kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 30
Luật Trọng tài thương mại 2010. Một trong những phần quan trọng của đơn khởi kiện
là nguyên đơn đưa ra thông tin cụ thể về Trọng tài viên mà nguyên đơn lựa chọn.
Đồng thời, các chủ thể cần nộp theo bản thỏa thuận trọng tài để Trung tâm Trọng tài
xem xét xem vụ việc có được thụ lý hay không. Theo tố tụng trọng tài, thời hiệu khởi
kiện là hai năm, kể từ khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.

2.3.2 Bản tự bảo vệ của bị đơn
Căn cứ theo Điều 35 Luật Trọng tài thương mại 2010, bị đơn phải gửi bản tự bảo vệ
cho Trung tâm Trọng tài trong thời hạn luật định (đối với tranh chấp giải quyết tại
trung tâm trọng tài)17. Đối với các tranh chấp giải quyết thơng qua Trọng tài, trong
vịng 30 ngày kể từ khi nhận được đơn kiện và các tài liệu kèm theo, nếu các bên
khơng có thỏa thuận khác, bị đơn phải gửi cho Trung tâm Trọng tài (đối với vụ tranh
chấp được giải quyết bằng Trung tâm Trọng tài) hoặc nguyên đơn và Trọng tài viên
(đối với vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc) bản tự bảo vệ.

2.3.3 Thành lập Hội đồng trọng tài
Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định khá chi tiết việc thành lập Hội đồng trọng
tài, theo đó: “1. Thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng
tài viên theo sự thỏa thuận của các bên. 2. Trường hợp các bên khơng có thoả thuận
về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba Trọng tài viên.”18
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, bị đơn phải chọn ra

Trọng tài viên. Hết thời hạn này mà phía bị đơn khơng chỉ định Trọng tài viên cho
mình thì “Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn” (đối với
vụ việc giải quyết tại Trung tâm Trọng tài) và “nguyên đơn có quyền yêu cầu Tịa án
có thẩm quyền chỉ định Trọng tài viên cho bị đơn” (đối với vụ việc giải quyết bằng
Trọng tài vụ việc). Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được chọn hoặc chỉ định,, các
Trọng tài viên bầu một Trọng tài viên là Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Hết thời hạn này,

17 Điều 35 Luật Trọng tài thương mại 2010
18 Điều 39 Luật Trọng tài thương mại 2010

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

nếu vẫn chưa bầu được chức danh này thì Chủ tịch Trung tâm trọng tài chỉ định hoặc
các bên yêu cầu Tòa án chỉ định.19

2.3.4. Chuẩn bị giải quyết vụ việc
Sau khi Hội đồng trọng tài được thành lập, việc chuẩn bị giải quyết tranh chấp vụ việc
sẽ được tiến hành nhằm phục vụ cho phiên họp giải quyết tranh chấp. Nhìn chung, quá
trình này bao gồm các công việc như xem xét nội dung vụ tranh chấp, thu thập chứng
cứ, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và một số công việc liên quan khác.
Theo Điều 43 Luật Trọng tài thương mại 2010, trước khi xem xét nội dung vụ tranh
chấp, Hội đồng trọng tài phải xem xét thẩm quyền của mình, hiệu lực của thỏa thuận
trọng tài và liệu thỏa thuận trọng tài có thể thực hiện được hay khơng. Nếu vụ tranh
chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng trọng tài đó thì tiếp tục tiến hành giải
quyết tranh chấp. Trong trường hợp vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Hội đồng trọng tài, thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa thuận trọng tài không
thể thực hiện được thì Hội đồng trọng tài sẽ đình chỉ giải quyết vụ việc và thông báo
đến các bên.

Để phục vụ cho phiên họp giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài có quyền thực
hiện những cơng việc như xác minh sự việc (Điều 45 Luật Trọng tài thương mại
2010), thu thập chứng cứ (Điều 46 Luật Trọng tài thương mại 2010), áp dụng một
hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các bên tranh chấp (Điều 49 Luật
Trọng tài thương mại 2010)... Luật Trọng tài thương mại quy định khá rõ thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài đối với các khâu chuẩn bị này.

2.3.5. Hòa giải
Trong phương thức giải quyết tranh chấp là Trọng tài, hịa giải khơng phải là một thủ
tục tố tụng bắt buộc. Tuy nhiên, nếu các bên có yêu cầu, Hội đồng trọng tài cần tiến
hành hòa giải để các bên thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Nếu các bên hòa giải thành
và đạt được thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp thì Hội đồng trọng tài sẽ lập biên
bản hòa giải thành. Lúc này, Hội đồng ra quyết định cơng nhận hịa giải thành cho các
bên và quyết định này được xem là chung thẩm, có giá trị như phán quyết trọng tài.20

2.3.6. Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và phán quyết trọng tài
Sau khi hoàn tất khâu chuẩn bị giải quyết vụ việc, Hội đồng trọng tài tổ chức phiên
họp giải quyết tranh chấp. Thời gian và địa điểm tiến hành giải quyết tranh chấp sẽ do
các bên thỏa thuận. Trường hợp không do các bên thỏa thuận hoặc quy tắc tố tụng của

19 Điều 40, 41 Luật Trọng tài thương mại 2010
20 Điều 58 Luật Trọng tài thương mại 2010

17

Downloaded by Do Thuy Trang ()

lOMoARcPSD|27827034

Trung tâm trọng tài khơng có quy định khác thì Hội đồng trọng tài quyết định thời

gian và địa điểm mở phiên họp và “phải gửi giấy triệu tập cho các bên đương sự tham
gia phiên họp chậm nhất là 30 ngày trước ngày mở phiên họp”.21

Theo khoản 1 Điều 55 Luật Trọng tài thương mại 2010, “Phiên họp giải quyết tranh
chấp không được tiến hành cơng khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Các bên có thể trực tiếp tham dự phiên họp hoặc uỷ quyền cho người một người đại
diện, đồng thời có quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình cùng tham gia.22 Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng
trọng tài có thể cho phép những người khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp.
Điều này đảm bảo nguyên tắc xét xử không công khai hay xét xử “kín”, một ưu điểm
của tố tụng trọng tài vì có thể bảo đảm được bí mật, uy tín của các bên. Khoản 4 Điều
55 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải
quyết tranh chấp sẽ được quy định bởi quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài. Các
vấn đề liên quan đến xử lý khi các bên vắng mặt, hỗn phiên họp giải quyết tranh chấp
hoặc đình chỉ giải quyết tranh chấp được quy định khá rõ tại Luật Trọng tài thương
mại 2010.23
Hội đồng trọng tài phải đưa ra phán quyết trọng tài khi kết thúc quá trình giải quyết
tranh chấp. Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài được đưa ra
nhằm giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài.24 Phán
quyết trọng tài được biểu quyết theo nguyên tắc đa số, trong trường hợp không đạt
được đa số thì sẽ được lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Phán quyết
trọng tài là chung thẩm, có tính ràng buộc với các bên và có hiệu lực kể từ ngày ban
hành. Đặc điểm này khác với tố tụng tài Tòa án, khi một tranh chấp có thể được xét xử
nhiều lần (theo cấp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm). Từ đó, các bên
khi đã lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết tranh chấp thì được xem như là
từ bỏ quyền kháng cáo của mình. Bên cạnh đó, nếu một bên không tham dự hoặc từ
chối tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài đưa ra phán quyết
với một bên vắng mặt. Khi đó, các bên có thể đưa ra phản đối phán quyết và thời hạn
phản đối phán quyết được tính kể từ ngày phán quyết được ban hành.
Mặc dù mang tính chung thẩm, phán quyết trọng tài vẫn có thể bị hủy theo quy định

của pháp luật. Trong trường hợp không đồng ý với phán quyết trọng tài, một bên có
thể gửi đơn yêu cầu Tòa án xem xét việc hủy phán quyết trọng tài và Tòa án sẽ hủy

21 Điều 54 Luật Trọng tài thương mại 2010
22 Khoản 2 Điều 55 Luật Trọng tài thương mại 2010
23 Điều 56, 57, 59 Luật Trọng tài thương mại 2010
24 Vũ Trọng Khang, Giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức Trọng tài Thương mại –
Phán quyết trọng tài thương mại (Kỳ 4), Trung tâm Trọng tài thương mại TP.HCM Tracent
/>
Downloaded by Do Thuy Trang ()


×