Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bếp lửa phân tích cực hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.18 KB, 10 trang )

Bàn về thơ ca, Xuân Diệu từng nói: “Thơ hay, lời thơ chín đỏ trong cảm xúc".
Thơ phải được kết tinh từ những tình cảm chân thành, mãnh liệt bật ra từ trái
tim của người nghệ sĩ. Thứ xúc cảm ấy không thể hời hợt, vô vị được, mà phải
được thể hiện một cách nồng nàn, sơi nổi, “chín đỏ” như cây trái đã thấm đượm
đủ hương vị đắng cay ngọt bùi và cả nắng gió. Ắt hẳn phải có một tình yêu quê
hương, đất nước sâu nặng, tha thiết thì Tế Hanh mới viết nên những vần thơ
nặng tình về miền quê chài lưới của mình trong thi phẩm “Q hương". Và cũng
phải có một hồn thơ phóng khống, ngang tàng thì Phạm Tiến Duật mới ghi lại
những hình ảnh đặc sắc của nơi Trường Sơn khói lửa qua sáng tác “Bài thơ về
tiểu đội xe khơng kính”. Và cũng như thế, ở “Bếp lửa", có lẽ Bằng Việt đã “kết”
nên những vần thơ thật xúc động về người bà của mình trong dịng cảm xúc dạt
dào, trào dâng. Xun suốt cả bài thơ là một dịng kí ức tuyệt đẹp về hình ảnh
bếp lửa bập bùng gợi lên những kỉ niệm về bà với tình yêu thương trìu mến
dành cho đứa cháu.

Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, nhưng
dường như Bằng Việt đã chọn một lối đi riêng khơng góc cạnh, khơng ác liệt
như những gì người ta vẫn thường nghĩ về chiến tranh. Thơ ông nhẹ nhàng, hồn
nhiên, sâu lắng với xúc cảm tinh tế và giọng điệu thủ thỉ tâm tình, trầm ấm
nhưng cũng giàu triết lí. Giữa những năm tháng chiến tranh ác liệt, tiếng thơ
của người thổi hồn cho “Cát sáng” vẫn giữ trọn nét tự nhiên, trẻ trung, để tìm
về những kỉ niệm thời thơ ấu. Tiêu biểu cho dịng kí ức tuyệt đẹp và trong sáng
ấy chính là thi phẩm “Bếp lửa" - một phần tuổi thơ đáng nhớ đã “nâng bước”
tác giả “trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời”. Bài thơ được sáng tác vào
năm 1963, khi Bằng Việt đang là du học sinh ngành Luật ở Liên Xô. Trong
khoảng thời gian xa nhà đó, khơng ít lần chàng sinh viên trẻ nhớ lại những dòng
kỉ niệm đẹp đẽ như một thước phim quay chậm về quá khứ hồn nhiên, tươi đẹp.
Cuộn phim chiếu lại những tháng ngày sống bên bà, cùng bà nhóm bếp, từ đó
gợi cho anh những suy ngẫm về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà bà ấp ủ suốt
cuộc đời. Cuối cùng đứa cháu phương xa muốn được gửi gắm niềm nhớ mong
khôn nguôi về người bà của mình.



Một trong những khâu quan trọng trước khi đưa tác phẩm của mình dấn thân
vào khi đàn văn học là việc trăn trở tìm kiếm cho nó một danh xưng. Tên thi
phẩm chính là cửa sổ nhìn thế giới do nghệ sĩ mở ra, là “chìa khố nghệ thuật”
giúp người đọc mở ra cánh cửa chìm của tác phẩm. Vâng! Chỉ vỏn vẹn với hai
từ “Bếp lửa” nhưng ẩn chứa những ý nghĩa sâu xa. Bếp lửa khơng chỉ là hình
ảnh quen thuộc đối với mỗi người nông dân Việt Nam dùng để đun nấu, sưởi ấm
mà còn là sự chi chút và tảo tần của bà, là tình cảm của người bà dành cho
cháu, cũng như tình cảm của cháu dành cho người bà.

“Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không
đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng. Thơ ca chân chính phải là nguồn
thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện
tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại” ( Phương Lựu). Chính vì thơ ca là tiếng
nói của tình cảm, cảm xúc nên ta có thể thấy trong cả bài Bếp lửa tràn ngập sự
yêu thương, nhớ nhung với người bà. Bài thơ là nơi tác giả gửi gắm tâm tư, tình
cảm của mình về sự hy sinh của bà và những kỉ niệm thời thơ ấu.

Nhà thơ Puskin từng nói rằng: “Thơ được tạo ra từ cơn động kinh của tâm hồn.
Đó là cú đại địa chấn được dồn ứ từ những biến cố, những kỉ niệm, có khi là nỗi

nhớ quặn lòng.” Và phải chăng khi “kỉ niệm” và “cảm xúc” đã đong đầy trong
nỗi nhớ cũng là lúc mà hồn thơ Bằng Việt bật lên những trang viết thiết tha:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách
chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và
toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa

của cuộc đời bà đã trải qua biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ, từ đó. hình ảnh
người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt
vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và
khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lịng nhà thơ lại trào dâng
một tình u thương bà vơ hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một
dịng sơng với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này
chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh
sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả toàn bài thơ. Từ đó đánh
thức dịng hồi tưởng nhớ thương của người cháu về người bà – người nhóm lửa
trong mỗi buổi sớm mai:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi tả sự cần cù, chịu khó, vất vả, giàu đức hi sinh
của người bà. “Thương” là tình cảm chân thành, xuất phát từ trái tim giàu tình
yêu thương, sự sẻ chia vả bao hảm cả sự kính trọng, niềm biết ơn sâu sắc, cùng
nỗi nhớ khôn nguôi của người cháu dành cho bà của mình. Nàng Kiều ở lầu
Ngưng Bích cũng đã nhớ đến sự vất vả của cha mẹ, lo lắng ai sẽ là người chăm
sóc cho cha mẹ để cho thấy được chữ hiếu của nàng Kiều :

“Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ơm?”

Nhắc đến tuổi thơ, có lẽ trong mỗi chúng ta luôn thường trực nghĩ tới những
năm tháng hồn nhiên, tinh khôi, trong trẻo khi được sống trong sự đủ đầy cả về
vật chất và tình cảm yêu thương của cha mẹ, người thân. Nhưng với những thế
hệ như lớp nhà thơ Bằng Việt thì điều đó làm sao có được khi họ phải sống
trong những năm tháng bom rơi đạn lạc chiến tranh, sự sống và cái chết chỉ
trong gâng tấc. Vì thế, khi nhớ về thời ấu thơ, những kỉ niệm trong kí ức như
một thước phim quay chậm lần lượt hiện về trong tâm trí của Bằng Việt với biết

bao nhiêu là sự thiệt thòi, gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Kỉ niệm đầu tiên ấy
là khi lên bốn tuổi:

“ Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đén giờ sống mũi cịn cay!”

Thành ngữ “đói mịn đói mỏi” để miêu tả một hiện thực đau thương trong lịch
sử năm 1945 do chính sách cai trị hà khắc của phát xít Nhật và thực dân Pháp
đã khiến cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói. Câu thơ chữ xuống khiến cho

lòng người như nao nao, nghẹn ngào khi nghĩ về kí ức tuổi thơ ấy. Cái đói đã
khiến cho ngựa cũng trở nên gầy rạc, hình ảnh người bố đánh xe chắc chắn
cũng khơ héo, tiều tụy, xanh xao. Đó là những hình ảnh đạm chất hiện thực để
nói đến sự sơ xác, tiều tụy của những con người trong cuộc sống mưu sinh. Khi
viết về nạn đói năm 1945 trong chính những trang thơ của Bằng Việt ơng cũng
đã từng viết:

“Con đói là ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi!”

Khi ấy, cháu ở cùng bà và đã cùng bà nhóm lửa, khói bếp tỏa ra đã làm cho
nhèm mắt, “nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Làn khói đã in đậm, in sâu
trong tâm trí của người cháu hay đó chính là nỗi cơ cực, vất vả của cái nghèo,
cái đói, của chiến tranh loạn lạc trong tuổi ấu thơ của người cháu. Những câu
thơ được viết lên bằng những tình cảm chân thực nên chan chứa nước mắt và

dày đặc làn khói. Giọng thơ trầm xuống thấm thía một nỗi buồn cơ cực đến xót
xa khi dịng hồi niệm tuổi thơ dâng đầy trong lịng thi sĩ khiến “sống mũi cịn
cay”. Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng
chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng
năm có trơi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lịng đứa
cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt
người người cháu hay chính là tấm lịng của người bà làm đứa cháu khơng cầm
được nước mắt?

Có lẽ ở nơi đất khách quê người, tâm hồn ai cũng đều có những khoảng lặng để
nhớ về quê hương, và chàng sinh viên giàu yêu thương như Bằng Việt càng
không phải là ngoại lệ. Nhà thơ từng tâm sự: “Những năm đầu theo học luật tại
đây, tôi nhớ nhà kinh khủng." Anh nhớ da diết một buổi sớm se lạnh, một bếp
lửa bập bùng quen thuộc, một người bà “lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ
khoai củ sắn". Chính nỗi nhớ quê nhà ở hiện tại đã giúp tâm trí thi sĩ lội ngược
dịng về quá khứ. Và thêm nữa, giản dị nhưng nồng ấm, hình ảnh bếp lửa thân
quen đã khơi dịng hồi tưởng về bà. Cũng chính hình ảnh thân thương ấy đã
đánh thức bao kỉ niệm về những năm tháng tuổi thơ cùng bà mà khơn lớn. Từ
bếp lửa, mùi khói bếp, những ngày “đói mịn đói mỏi" năm xưa với tiếng chim
tu hú đã khơi lên trong lịng cháu những kí ức về một thời kháng chiến:

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà cịn nhớ khơng bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

“Tám năm ròng" đối với cuộc đời tưởng chừng như nhỏ bé, nhưng tám năm cực
nhọc giữa chiến tranh lại là một khoảng thời gian dài vơ tận. Trong suốt chặng
đường ấy, cuộc sống đói nghèo, lam lũ luôn kề cận bên hai bà cháu, nhưng có

lẽ ngọn lửa nồng đượm của bếp than đã dập tắt đi cái lạnh giá của mùa đông
và nỗi đói khổ giữa cuộc chiến.Tiếng tu hú làm lại 4 lần cất lên như tiếng sóng
trong lịng cuộn trào đưa cho ta trở về những ngày tháng tuổi thơ ngọt ngào,

ấm áp của hai bà cháu. Tiếng chim tu hú cất trên những cánh đồng xa , đó là
âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi độ hè về như đang rực rỡ mùa lúa chín,
người dân sẽ bớt được một phần của cái đói, cái nghèo tiếng tu hú như xua đi
và làm dịu bớt cái đói ghê rợn năm 1945 mà hai bà cháu phải gánh chịu. “Khi
tu hú kêu bà cịn nhớ khơng bà” tiếng chim tu hú một lần nữa cất lên nhưng
đó được coi là một chiếc đồng hồ của đứa cháu nhắc bà rằng: “ Bà ơi ! đến giờ
bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy” . Bà không kể chuyện nàng tiên cô tấm
diệu hiền mà bà kể chuyện những ngày ở Huế, những ngày chiến tranh đổ máu
bà như búa đắp và thổi hồn vào cháu về tình yêu quê hương đất nước. Từ “tu
hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm
cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức
của tác giả. Tiếng tu hú lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng
lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm
của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ
thương.

Trong tâm trí của cháu, tiếng chim tu hú như đang vọng về những kỉ niệm khi
có bà ở bên, nhận được sự chăm sóc tận tình, chu đáo của bà bởi cha mẹ vắng
nhà. Tuổi thơ của cháu trở nên trọn vẹn hơn vì được sống trong tình yêu thương,
đùm bọc của bà:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về,

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,


Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư,
bố mẹ phải đi cơng tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy,
nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vơ bờ.
Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ
mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo
của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ
cùa con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài
lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh
chim, là một cành hoa của riêng ơng. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng
liêng va quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà
không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu
tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên.
Khơng chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm
người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của
cháu. Ngựời bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa
vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây
giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai
sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùag bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở
Huế... Thi sĩ bỗng tự hỏi lịng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?” Một lời
than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ
trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên

hình ảnh hai bà cháu sóng đơi, gắn bó, quấn quýt không rời. Bà vừa là bà, vừa
là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy. Như vậy, có thể nói
người bà trong bếp lửa đã đi qua cái đói, cái khát và chiến tranh. Đã cho Con đi
kháng chiến vì đất nước, đã âm thầm ni đứa cháu khơn lớn và trưởng thành
bà chính là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam kiên cường- bất khuất- trung

hậu- đảm đang. Bà chính là một bức tượng đài sống, một bức tường vĩnh cửu .
Trong bài “ Đơi dịng tiễn đưa bà nội” của Bằng Việt ông đã từng viết:

“Đôi mắt càng già, càng thấm thía yêu thương,

Dù da dẻ khơ đi, tấm lịng khơng hẹp lại,

Giàu kiên nhẫn, bà còn hy vọng mãi

Chỉ mỗi ngày dắn lại, ít lời thêm.”

Nghĩ về ngọn lửa hồng bập bùng của bếp lửa, nghĩ về tiếng tu hú gọi bầy ngoài
đồng xa, người cháu gọi tha thiết như đang trách mắng bầy chim “kêu chi hồi"
mà khơng đến ở cùng bà, để giúp bà vơi bớt đi sự cô đơn, hiu quạnh. Đến đây,
cảm xúc cứ trào dâng mạnh mẽ:

“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”

Nếu mỗi nhà thơ đều là một người thợ ngơn từ điêu luyện, thì có lẽ trong những
bài thơ viết về bà như “Bếp lửa", Bằng Việt đã “thốt vai" người thợ đó để nói
về bà, với tâm tình xúc động nhất. Bằng lời thơ trầm buồn, lắng sâu của cảm
xúc, người cháu nhỏ to với những chú chim tu hú ngoài kia bằng một giọng điệu
tha thiết như đang trách thầm chúng tại sao “chẳng đến ở cùng bà" để được bà
yêu thương, chở che, và cũng để giúp bà vơi đi phần nào nỗi vất vả, cô quạnh
khi đứa cháu phải xa nhà. Hoặc từ một góc nhìn khác, có lẽ tác giả đang mượn
thanh âm da diết ấy để tự trách bản thân mình khi chẳng thể tiếp tục ở bên bà
nữa. Đứa cháu cảm thấy ngậm ngùi, xót xa vơ cùng trước sự buồn tủi và gian
lao của bà lúc này. Dường như lòng cháu cứ nặng trĩu bởi nỗi lo lắng, nhớ

thương bà, cứ day dứt, hổ thẹn mãi vì khơng thể ở bên đỡ đần, an ủi bà khi bà
đã già yếu. Cách nói kín đáo, tế nhị đầy ý nghĩa ấy đã thể hiện tình cảm yêu
thương và lòng hiếu thảo của người cháu đối với nỗi vất vả, gian khó của bà.
Cũng viết về sự biết ơn, hiểu thấu cho những nhọc nhằn của người bà, nhà thơ
Nguyễn Duy từng bộc bạch:

“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

( Đò lèn - Nguyễn Duy)

Ở vị trí của những người cháu nhỏ, Nguyễn Duy và Bằng Việt đều gặp gỡ nhau
bởi sự trải lịng về tình u thương dành cho bà của mình. Thế nhưng, nét độc
đáo làm nên thơ của Bằng Việt, chính là những tình cảm của người bà mà
khơng biết tiếng thơ nào cũng "bắt" được.

Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vơ
cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà, gia đình bị chia cắt, nhà bị
giặc đốt cháy rụi. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân
của chiến tranh:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”


Nỗi khổ sở, đau đớn khi giặc giã kéo về làng tàn phá, thiêu hủy nhà cửa, xóm
làng, bà vẫn âm thầm chịu đựng, tự gắng gượng đứng lên chống đỡ nhờ sự đùm
bọc, giúp đỡ của dân làng. Bà không muốn người con ở chiến khu biết được việc
ở nhà mà ảnh hưởng đến cơng việc trong qn ngũ. Đó phải chẳng là phẩm
chất cao quí của những người mẹ Việt Nam anh hùng trong chiến tranh. Ta đọc
ở đây sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của người bà, người mẹ ở hậu
phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất nước để đánh đuổi giặc
giã xâm lăng, đem lại bầu trời tụ do cho dân tộc. Lời dặn dò của người bà vẫn
được cháu “đinh ninh” nhớ mãi trong lịng, được trích ngun văn được nhắc lại
trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng q biết
bao của người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn
của người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có
được thắng lợi ấy khơng chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên
mặt trận tiền tuyến mà cịn có cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ
ở hậu phương.

Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình,
người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh
bếp lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lịng bà ln ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”

Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát.
Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản
chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành
biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ
“một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của

ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho
cháu. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống
phi thường của người bà. Vì thế, bà khơng chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn
là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự
sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.

Goethe từng băn khoăn tự vấn: “Nhà văn có ích gì nếu chỉ nhắc lại như những
nhà viết sử?” Thơ ca là cái nhụy của cuộc sống. Người nghệ sĩ tựa con tằm, con
ong, cần mẫn và mê say, chắt chiu từng giọt sống gieo vào đầu ngọn bút, lưu
lại những mùa hoa cuộc đời. Là một nhà thơ mang trong mình con tim rung
cảm, Bằng Việt cũng khơng nằm ngoài quy luật ấy. Tiếng thơ đi ra từ những kỉ
niệm ban sơ, vụn vặt nhưng ấm áp tình người bên bà và bếp lửa trong những
tháng năm cơ cực đầu đời, để rồi vút lên trong ngổn ngang hồi ức là tình bà
cháu nghĩa nặng, thiêng liêng:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”

Bà đã khổ vì nhiều nỗi miên man. Vì lũ giặc ngày đêm gieo rắc bao niềm đau vơ
đáy. Vì lo lắng, mong ngóng những đứa con xa nhà. Vì nỗi nhớ thương cứ xâm
chiếm hồn bà trong những ngày tu hú vang xa. Và cũng vì thương xót cho đứa
cháu thơ ngây sớm vắng bóng cha mẹ trong quãng trời tuổi nhỏ. Bao nhiêu giọt
nước mắt bà rơi vì con, vì cháu là bấy nhiêu trân trọng, biết ơn của cháu dành
cho bà:

“Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

Tuổi thơ ấy nồng nặc mùi khói bom, ầm ầm tiếng đạn bom dày xéo, tang tóc
trong những ngày đói đến nao lịng. Nhưng Bằng Việt may mắn hơn lồi chim tu

hú không biết làm tổ kia khi bên cạnh cháu vẫn cịn có bà. Từ những ngày bần
hàn, khốn khó năm xưa cho tới cuộc sống sung túc, đủ đầy hôm nay; bà vẫn
thế, ngày ngày cặm cụi sớm chiều nhóm lên bếp lửa thân thuộc với tất cả chi
chút thương u của lịng mình. Dẫu bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945
có đe dọa lấn át ra sao, dẫu nỗi cô đơn hiu quạnh khi lắng nghe tiếng chim tu
hú khắc khoải có làm bà buồn tủi đến nhường nào, dẫu cho ngôi làng kỉ niệm
bà tha thiết thương yêu bị đốt cháy đến hoang tàn, điêu linh, và dù rằng có đơi
lúc tưởng chừng gục ngã bởi khó khăn qy kín cuộc đời; bà vẫn lặng lẽ mím
mơi, nắm chặt lấy đơi tay bé nhỏ của cháu mà can trường vượt qua tất cả. Để
rồi mỗi sớm mỗi chiều, ngọn lửa nơi góc bếp vẫn tí tách reo, lung linh trong đáy
mắt trẻ thơ, sưởi ấm những tháng ngày tuổi nhỏ:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”

Một lần nữa hình ảnh bếp lửa ấp iu nồng đượm đã được lần nữa nhắc lại ở bài
thơ , một lần nữa khẳng định lại tình cảm sâu sắc của bà dành cho cháu và sự
biết ơn của cháu dành cho bà.

“Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”

Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương
những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những
năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với
nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ
mì. Nhóm nồi xơi gạo mới sẻ chung vui. Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui của bà
hay là lời răn dạy cháu ln phải mở lịng ra với mọi người xung quanh, phải
gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.

“Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”


Bà khơng chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm
cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có
trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức
tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu
như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, ta có thể bắt
gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:

“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”

Hôm nay cháu cầm súng, hôm nay cháu hy sinh nơi chiến trường nhưng cháu
luôn mạnh mẽ kiên cường vì trong lịng cháu có bà, bên cạnh tình yêu đất nước
là tình yêu gia đình, yêu xóm làng thân thuộc. Đúng như I-li-a Ê-ren-bua đã viết:
“Lịng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất… Lịng u
nhà, u làng xóm, u miền q trở nên lòng yêu tổ quốc.”

Giống Xuân Quỳnh, đối với Bằng Việt, tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình yêu
bếp lửa, yêu người bà tần tảo sớm hôm nuôi cháu nên người. Từ những dòng
thơ đầu khơi gợi cảm xúc, cảm hứng thơ trơi theo dịng ký ức, những kỷ niệm
về một thời vất vả lam lũ bên bà, về những năm tháng kháng chiến gian lao mà
oanh liệt của dân tộc ta. Giọng thơ như trầm xuống theo dòng cảm xúc, để lại
trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc về hình ảnh người bà – chỗ dựa tinh thần
cho cháu trong suốt quãng đời thơ ấu và có lẽ cũng đến tận cuối đời. Cùng với
xúc cảm ấy là hình ảnh bếp lửa, vừa là đối tượng để gợi nhớ, vừa là biểu tượng
của tình cảm gia đình. Tình u gia đình hịa quyện với tình u quê hương đất
nước để rồi cuối cùng kết tinh lại trong câu thốt lên đầy nghẹn ngào:

“Ơi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”


Thán từ “ơi” như dồn lên biết bao nhiêu cảm xúc nó được tốt lên từ sự trân
trọng biết ơn,sâu sắc. Một vật tưởng chừng như giản dị và đơn sơ nhưng bếp lửa
ấy lại vơ cùng có ý nghĩa vơ cùng kỳ lạ và thiêng liêng. Kỳ lạ là bởi vì khơng có
gì có thể dập tắt được bếp lửa, bếp lửa vẫn cháy lên trong mọi hoàn cảnh.
Thiêng liêng là bởi bếp lửa là tổ ấm lội nguồn của mỗi gia đình, là cội nguồn của
quê hương,đất nước. Bếp Lửa và bà là hình ảnh quen thuộc của quê hương yêu
dấu , ngọn lửa ấy đã sưởi ấm tâm hồn của nhà thơ trong những ngày xa quê
hương. Bếp Lửa được bà nhen lên không phải là những nguyên liệu bình thường
bên ngồi mà cịn chính là ngọn lửa trong lòng Bà ngọn lửa của sự sống ngọn
lửa của niềm tin, bà vừa là người nhóm lửa vừa là người giữ lửa và là người
truyền lửa

Ngọn lửa ấy, bếp lửa bà nhen đã sưởi ấm tâm hồn cháu từ thuở bé đã đi theo
cháu trong mỗi bước chân trên con đường trưởng thành :

“Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”

Khổ thơ thể hiện nỗi nhớ bà, nỗi nhớ quê hương khôn nguôi da diết. Điệp từ
“trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều kỳ diệu, mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi
xa vào quá vãng, cháu giờ đây đã trưởng thành, cất cánh bay cao, bay xa trên

bầu trời cao rộng. Dù vậy nhưng trong tâm thức cháu vẫn ln hướng về hình
ảnh bếp lửa bà nhen mỗi sớm ban mai nơi làng quê nghèo khó nhưng chất chứa
biết bao kỷ niệm tuổi thơ. Ở đây, bà khơng chỉ là người nhóm lửa mà cịn là
người truyền lửa – ngọn lửa của tình yêu quê hương đất nước, u gia đình, u
làng xóm, ngọn lửa của niềm tin bất diệt, của sức sống con người.


Câu hỏi tu từ dường như là hoài niệm. Thơ hoài niệm thường thấm đẫm nỗi
buồn bởi đó là kỷ niệm chập chờn hiện lên trong ký ức, trong niềm nhớ thương
quá khứ. Ta lại bất giác nhớ đến những vần thơ xao xác buồn của Lưu Trọng Lư:

“Mỗi lần nắng mới hắt bên sông
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không.”

Với Bằng Việt cũng thế, cũng thơ hoài niệm, cũng đượm buồn, cũng man mác.
Đặc biệt câu hỏi tu từ cuối bài như càng khắc khoải da diết, càng day dứt khôn
nguôi. Nếu bếp lửa là nơi ấm áp nhất trong ngôi nhà bình n thì trong tâm hồn
bà cũng ln có một ngọn lửa nồng đượm của tình u thương khơng bao giờ
vơi cạn. Và dù người cháu có trưởng thành, có biết thêm “ngọn khói trăm tàu”,
“lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” thì hình ảnh để lại ấn tượng sâu đậm nhất
trong tâm hồn người cháu vẫn luôn là ánh lửa bập bùng của bà nơi quê hương
yêu dấu. Cháu chẳng thể qn được vì đó là cội nguồn, là nơi cháu sinh ra, là
nơi thổi vào tâm hồn cháu sự sống. “Ngọn khói trăm tàu” cũng chẳng bằng
ngọn khói đã hun nhèm mắt cháu, ánh “lửa trăm nhà” cũng không thể sánh với
ngọn lửa bà thắp lên trong quãng đời ấu thơ của cháu. Bởi bên bếp lửa ấy có
bà, có kỉ niệm về một thời tuổi thơ gian khổ mà vẫn ấm tình người, tất cả trở
thành một mảnh ghép quan trọng trong cuộc đời của cháu, trở thành một tín
ngưỡng cao q cháu ln nâng niu, trân trọng

Gót chân đã xa, lịng lại ngược chiều thương nhớ. Về bên bà. Về với gian nhà
nhỏ. Về nghe mắt cay nhèm vì khói, vì thương nhớ những điều xa xăm. Để rồi,
tiếng còi tàu réo gọi, lòng cứ mãi chùng chình một nỗi gì khắc khoải:

“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”


Bếp lửa là quê hương và bà cũng là cội nguồn trong cháu. Tình yêu quê hương
cháu chở nặng trên những chuyến tha phương được gieo mầm từ chính những
gì thân sơ, gần gũi nhất. Bởi Tổ quốc là gì, quê hương là gì nếu khơng phải là
cha, là mẹ, là con ngõ dài cõng gió trên lưng, là góc sân nhỏ trải con nắng vàng
tênh những trưa hè oi ả? Như Xuân Quỳnh đã từng thổn thức với chất thơ từ tổ
ấm:

“Em thương chị bao lâu rồi vất vả

Đêm soạn bài, ngôi trường gió hoang sơ

Giữa tiếng bom thù và dưới những báo mưa

Cơn sốt cháu võ vàng đôi mắt chị”

Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa”
gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể
hiện lịng kính u trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là
đối với gia đình, quê hương đất nước.

Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.
Thành cơng của bài thơ cịn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình
ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và
tình bà cháu.

Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt khép lại nhưng lại để lại trong mỗi chúng ta
những suy tư. Em thêm hiểu về đời sống khổ cực của nhân dân ta trong chiến
tranh đói khổ, hiểu thêm về lòng yêu của người cháu với bà, với bếp lửa. Cuộc
sống của ngày hôm nay hiện đại vô cùng, nhưng những tiện nghi thì mãi khơng

bao giờ có thể thay thế những giá trị đẹp và sống mãi trong lịng người. Em học
được và thêm thấu hiểu về tình cảm gia đình, tình yêu thương và biết được bản
thân mình cần có ý thức, trách nhiệm gìn giữ những tình cảm cao đẹp. ĐỒng
thời, chúng ta cũng phải nỗ lực học tập để dựng xây quê hương, đất nước và
khơng vì tiện nghi, vật chất mà qn đi đời sống nghĩa tình.

“Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”. Thật xứng đáng với tư từ “thơ hay"
ấy, khi “Bếp lửa” khơng chỉ có cái "bên trong" trong sáng, tràn đầy yêu thương,
mà còn đạt được cả sự đẹp đẽ, tinh tế ở hình thức “bề ngồi". Bằng thể thơ tám
chữ (có đan xen bảy chữ) cùng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với
miêu tả, tự sự và bình luận, Bằng Việt đã dẫn độc giả đến với dịng hồi ức tuyệt
đẹp của mình về tuổi thơ sống bên bà. Thi phẩm không chỉ mang sự dạt dào
của cảm xúc tự nhiên, mà còn ghi dấu thành cơng bởi hình ảnh thơ độc đáo. Tác
giả đã khéo léo dựng xây nên hình ảnh bếp lửa cội nguồn của những xúc cảm,
kỉ niệm và nỗi nhớ gắn liền với hình ảnh người bà tần tảo sớm khuya, chăm lo
chu đáo cho đứa cháu nhỏ của mình. Khơng chỉ vậy, ơng cịn tinh tế sử dụng
các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, phép điệp ngữ, cấu trúc song hành và cách
gieo vần, luyến láy đã giúp lời thơ thêm giàu âm điệu và cả ý nghĩa. Qua đó mà
đọc giả cảm nhận được rõ nét nỗi nhớ nhung da diết với quê hương và tấm lòng
biết ơn, hiếu thảo của đứa cháu nơi phương xa dành cho người bà yêu dấu.


×