Tải bản đầy đủ (.pdf) (279 trang)

Đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 279 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

<b>HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI </b>

<b>NGUYỄN THỊ KIM LIÊN </b>

<b>ĐỐI CHIẾU CỤM DANH TỪ TIẾNG ĐỨC VỚI TIẾNG VIỆT </b>

<b><small> Ngành: Ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu Mã số : 9.22.20.24 </small></b>

<b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC </b>

<b><small>Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HỮU HOÀNH </small></b>

<b><small>HÀ NỘI - 2024</small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

Tôi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác. Nội dung luận án có tham khảo và sử dụng ngữ liệu được trích dẫn từ các tài liệu Việt Nam và Đức theo phụ lục luận án. Nếu sai tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

<b> </b>

<b> Tác giả luận án </b>

<b> Nguyễn Thị Kim Liên </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CẢM ƠN </b>

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến PGS. TS. Nguyễn Hữu Hoành - thầy đã hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong q trình thực thiện và hồn thành luận án này.

Tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn chân thành tới các thầy, cơ giáo của Học viện Khoa học xã hội đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận án.

Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các đồng nghiệp, các anh chị em, bạn bè đã động viên, giúp đỡ và chia sẻ với tôi về mọi mặt trong q trình tơi thực hiện luận án này.

Cuối cùng, tôi xin đặc biệt gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới bố mẹ, chồng và các con, cùng tồn thể đại gia đình - những người luôn thương yêu, chia sẻ, ủng hộ và sát cánh bên tôi trên từng bước đường nghiên cứu và phấn đấu.

<i>Hà Nội, tháng 4 năm 2024 </i>

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Kim Liên

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b><small>MỤC LỤC </small></b>

<b><small>MỞ ĐẦU ... 1 </small></b>

<b><small>CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI ... 1 </small></b>

<i><small>1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu... 1 </small></i>

<small>1.1.1. Tình hình nghiên cứu về cụm danh từ trên thế giới ... 1 </small>

<small>1.1.2. Tình hình nghiên cứu đối chiếu cụm danh từ ... 13 </small>

<i><small>1.2. Cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài ... 17 </small></i>

<small>1.2.1. Lý thuyết về cụm từ trong ngôn ngữ học ... 18 </small>

<small>1.2.2. Lý thuyết về cụm danh từ ... 21 </small>

<small>1.2.3. Một số vấn đề về ngôn ngữ học đối chiếu ... 24 </small>

<small>1.2.4. Một số vấn đề lý luận về dịch thuật ... 27 </small>

<b><small>CHƯƠNG 2 ĐỐI CHIẾU CỤM DANH TỪ TRONG TIẾNG ĐỨC VỚI TIẾNG VIỆT TRÊN BÌNH DIỆN CẤU TRÚC ... 34 </small></b>

<i><small>2.1. Mơ hình cấu trúc cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt ... 34 </small></i>

<small>2.1.1. Mơ hình cấu trúc khái qt cụm danh từ tiếng Đức: ... 34 </small>

<small>2.1.2. Mơ hình cấu trúc khái qt cụm danh từ tiếng Việt ... 37 </small>

<small>2.1.3. Những tương đồng và khác biệt về mơ hình khái qt ... 40 </small>

<i><small>2.2. Thành tố trung tâm của cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt ... 41 </small></i>

<small>2.2.1. Thành tố trung tâm của cụm danh từ tiếng Đức qua các cơng trình nghiên cứu ... 41 </small>

<small>2.2.2. Kết quả khảo sát cụ thể thành tố trung tâm trong cụm danh từ tiếng Đức ... 43 </small>

<small>2.2.3. Thành tố trung tâm trong cụm danh từ tiếng Việt ... 45 </small>

<small>2.2.3. Những điểm tương đồng và khác biệt ... 51 </small>

<i><small>2.3. Thành tố phụ của cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt ... 52 </small></i>

<small>2.3.1. Thành tố phụ của cụm danh từ tiếng Đức ... 52 </small>

<small>2.3.2. Thành tố phụ của cụm danh từ tiếng Việt ... 67 </small>

<small>2.3.3. Những điểm tương đồng và khác biệt của các thành tố phụ trong CDT tiếng Đức và tiếng Việt ... 72 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i><small>2.4. Đặc điểm hình thái của cụm danh từ tiếng Đức: ... 75 </small></i>

<b><small>CHƯƠNG 3 ĐỐI CHIẾU CỤM DANH TỪ TIẾNG ĐỨC VỚI TIẾNG VIỆT TRÊN BÌNH DIỆN CHỨC NĂNG NGỮ NGHĨA ... 80 </small></b>

<i><small>3.1. Chức năng ngữ nghĩa của các thành tố phụ trong cụm danh từ tiếng Đức ... 80 </small></i>

<small>3.1.1. Đặc điểm ngữ nghĩa của cụm danh từ tiếng Đức ... 80 </small>

<small>3.1.2. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa khu biệt tính xác định hoặc không xác định, chỉ định, chỉ thị: ... 82 </small>

<small>3.1.3 Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa số lượng xác định, số thứ tự, chỉ tổng lượng, hạn định và phủ định ... 84 </small>

<small>3.1.4. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa chất lượng, đặc tính: ... 88 </small>

<small>3.1.5. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa sở hữu, đối tượng thực hiện hành động: ... 91 </small>

<small>3.1.6. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa giải thích khái niệm và nêu đồ vật chứa đựng: ... 92 </small>

<small>3.1.7. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa địa điểm, thời gian: ... 92 </small>

<small>3.1.8. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa hạn định và bổ sung thông tin ... 93 </small>

<i><small>3.2. Chức năng ngữ nghĩa của các định ngữ trong cụm danh từ tiếng Việt ... 96 </small></i>

<small>3.2.2. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa nghĩa chỉ loại: ... 98 </small>

<small>3.2.3. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa nghĩa đặc chỉ ... 98 </small>

<small>3.2.4. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa nghĩa số lượng ... 98 </small>

<small>3.2.5. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa nghĩa tổng lượng ... 101 </small>

<small>3.2.6. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa nghĩa phân loại ... 101 </small>

<small>3.2.7. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa nghĩa chỉ thị (hạn định) ... 102 </small>

<small>3.2.8. Thành tố phụ biểu thị ý nghĩa nghĩa nghi vấn hay phiếm chỉ ... 105 </small>

<i><small>3.3. Những điểm tương đồng và khác biệt của cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt trên bình diện chức năng ngữ nghĩa ... 106 </small></i>

<small>3.3.1. Những điểm tương đồng ... 109 </small>

<small>3.3.2. Những điểm khác biệt ... 110 </small>

<b><small>CHƯƠNG 4 CỤM DANH TỪ TIẾNG ĐỨC TRONG CÁC BẢN DỊCH TIẾNG VIỆT: KHẢO SÁT TRƯỜNG HỢP ... 114 </small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i><small>4.2. Kết quả khảo sát ... 116 </small></i>

<small>4.2.1. Kết quả khảo sát về mơ hình CDT tiếng Đức ... 116 4.2.2 Kết quả đối chiếu việc chủn dịch mơ hình cụm danh từ tiếng Đức sang tiếng </small> <b><small>TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 147 TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT ... 147 </small></b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b><small>DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT </small></b>

<small>[số…] Nguồn tài liệu tham khảo: Số tài liệu trích dẫn. Nội dung tham khảo được viết tóm lược lại dựa vào các nội dung của tài liệu. </small>

<small>PT: thành phần phụ phía trước thành tố trung tâm PS: thành phần phụ phía sau thành tố trung tâm </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRUYỆN, TÀI LIỆU ĐƯỢC SỬ DỤNG LÀM </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>13 Loan Từ cuộc đời của một con chim đại bàng Phạm Ngọc Mai </small>

<small>Nguyễn Thị Kim Nhung Lê Thị Hồng Phượng </small>

<small>AM1 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>DANH MỤC BẢNG BIỂU </b>

<small>Bảng 1.1: Sơ đồ cụm danh từ của Emeneau ... 7 </small>

<small>Bảng 1.2: Mơ hình cụm danh từ của Hồ Lê [43] ... 7 </small>

<small>Bảng 1.3: Sơ đồ cụm danh từ của Nguyễn Tài Cẩn [7] ... 8 </small>

<small>Bảng 1.4: Sơ đồ cụm danh từ của Nguyễn Tài Cẩn [7] ... 9 </small>

<small>Bảng 1.5: Sơ đồ Cụm danh từ của Diệp Quang Ban [6] ... 10 </small>

<small>Bảng 1.6: Sơ đồ Cụm danh từ của Đinh Văn Đức (2010) [19, tr. 78] ... 11 </small>

<small>Bảng 1.7: Mơ hình danh ngữ của Hồng Dũng - Nguyễn Thị Ly Kha (2004) ... 11 </small>

<small>Bảng 2.1: Bảng cấu trúc cụm danh từ tiếng Đức ... 35 </small>

<small>Bảng 2.2: Bảng khảo sát mơ hình cụm danh từ tiếng Đức ... 36 </small>

<small>Bảng 2.3: Lược đồ cấu trúc cụm danh từ tiếng Việt ... 38 </small>

<small>Bảng 2.4: Bảng khảo sát mơ hình cụm danh từ tiếng Việt ... 39 </small>

<small>Bảng 2.5: Bảng đối chiếu cấu trúc khái quát của CDT trong tiếng Đức và tiếng Việt ... 40 </small>

<small>Bảng 2.6: Thành tố trung tâm của cụm danh từ tiếng Đức ... 43 </small>

<small>Bảng 2.7: Bảng danh mục tiểu loại danh từ của Diệp Quang Ban (2013) ... 47 </small>

<small>Bảng 2.8: Bảng mơ hình CDT của Diệp Quang Ban (2013) ... 48 </small>

<small>Bảng 2.9: Cấu trúc cơ bản của cụm danh từ mở rộng ... 53 </small>

<small>Bảng 2.10: Kết quả khảo sát số lượng các mạo từ trong nhóm mạo từ ... 59 </small>

<small>Bảng 2.11: Số lượng định ngữ cách 2 và định ngữ tính từ ở phần phụ trước ... 60 </small>

<small>Bảng 2.12: Số lượng định ngữ ở phần phụ sau ... 61 </small>

<small>Bảng 2.13: Bảng biến đổi danh từ số nhiều ở tiếng Đức ... 66 </small>

<small>Bảng 2.14: Bảng mơ hình cụm danh từ của Cao Xuân Hạo ... 69 </small>

<small>Bảng 2.15: Số lượng định ngữ trong CDT ngữ liệu tiếng Việt ... 70 </small>

<small>Bảng 2.16: Bảng các thành tố phụ của CDT tiếng Việt theo Hoàng Dũng & Nguyễn </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>Bảng 2.20: Bảng liệt kê dấu hiệu hình thái của CDT tiếng Đức... 74 </small>

<small>Bảng 3.1: Bảng liệt kê các định ngữ của Duden ... 81 </small>

<small>Bảng 3.2: Bảng mô tả chức năng ngữ nghĩa của các ĐN trong CDT tiếng Đức ... 96 </small>

<small>Bảng 3.3: Bảng cấu trúc nghĩa chung của cụm danh từ tiếng Việt ... 97 </small>

<small>Bảng 3.4: Bảng minh hoạ phạm trù xác định/phiếm định và phạm trù số của các danh từ tiếng Việt [6, tr. 428] ... 98 </small>

<small>Bảng 3.5: Bảng đối chiếu chức năng ngữ nghĩa của các ĐN trong CDT tiếng Đức và tiếng Việt ... 106 </small>

<small>Bảng 4.1: Bảng phân loại biến đổi cấp độ theo Catford (2000) [104, 141-143] .... 114 </small>

<small>Bảng 4.2: Bảng phân loại biến đổi phạm trù theo Catford (2000) [104, 141-143] 115 Bảng 4.3: Danh sách các tài liệu là sách song ngữ Đức-Việt hoặc sách Tiếng Đức có bản dịch đã xuất bản ... 116 </small>

<small>Bảng 4.4: Bảng liệt kê mơ hình CDT tiếng Đức ... 117 </small>

<small>Bảng 4.5: Bảng mơ hình chủn dịch cụm danh từ tiếng Đức sang tiếng Việt ... 137 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>

Cụm danh từ (còn gọi là danh ngữ), một trong hai loại cụm từ phổ biến nhất trong các ngôn ngữ, là đối tượng nghiên cứu của nhiều lý thuyết ngữ pháp khác nhau (như ngữ pháp Truyền thống, ngữ pháp Cấu trúc, ngữ pháp Tạo sinh - Cải biến, ngữ pháp Chức năng...) trên cả hai hướng nội ngôn và liên ngôn, trong đó hướng liên ngơn được tiếp cận trên cả hướng so sánh loại hình và so sánh đối chiếu. Cụm danh từ hoạt động như một đơn vị trong câu, có thể đảm nhận chức năng chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ trong câu. Cụm danh từ giúp các ngôn ngữ diễn đạt phong phú và chính xác hơn các ý nghĩa biểu đạt trong câu. Vì vậy, việc nghiên cứu cụm danh từ trên bình diện cấu trúc, ngữ nghĩa sẽ giúp làm sáng tỏ các đặc điểm hình thái của một ngôn ngữ. Tuy nhiên, nhiều đặc điểm của loại cụm từ này, đặc biệt là những tương đồng và khác biệt về cấu trúc và ngữ nghĩa của chúng giữa các ngơn ngữ cụ thể, trong đó có tiếng Đức và tiếng Việt vẫn chưa được giới nghiên cứu quan tâm.

Trong Tiếng Đức, cụm danh từ được sử dụng với mật độ lớn so với các cụm từ khác. Chúng có cấu trúc phức tạp, mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố đa dạng và phong phú. Vì vậy, đối với người nước ngoài, việc sử dụng cụm danh từ gặp khơng ít khó khăn. Nhìn thấy rào cản này, cụm danh từ trong tiếng Đức đã trở thành đối tượng dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học Đức cũng như giới ngơn ngữ học trên thế giới. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về hiện tượng ngơn ngữ này, trong đó có những cơng trình tập trung vào đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với cụm danh từ của các tiếng khác như tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung Quốc… Tuy nhiên, các công trình này thường chỉ tập trung giới hạn ở một vài tiêu chí cụ thể. Các cơng trình nghiên cứu thực hiện so sánh, đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với cụm danh

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

từ của một ngơn ngữ khác (trong đó có tiếng Việt) trên đầy đủ các mặt thành tố, cấu trúc, ngữ nghĩa thì vẫn cịn khiêm tốn.

Ở Việt Nam, thực tiễn giảng dạy ngoại ngữ ở các trường có đào tạo hệ cử nhân ngoại ngữ cũng đặt ra nhu cầu nghiên cứu, đối chiếu các ngôn ngữ được đưa vào giảng dạy với bản ngữ để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ cho sinh viên. Việc giảng dạy tiếng Đức cũng nằm trong xu thế đó. Tiếng Đức và tiếng Việt thuộc hai loại hình ngơn ngữ khác nhau, vì vậy giữa chúng có rất nhiều điểm khác biệt. Trong quá trình học tiếng Đức, sinh viên Việt Nam thường gặp khơng ít khó khăn với các cấu trúc ngữ pháp, đặc biệt là trong việc phân tích câu và các thành phần câu như các cụm từ, các cụm danh từ. Điều này đặc biệt quan trọng khi các sinh viên học chuyên ngành Biên-Phiên Dịch phải phân tích văn bản gốc để có thể đảm bảo được nội dung và chất lượng của bản dịch. Thực tế giảng dạy tiếng Đức cũng như vấn đề cải tiến chất lượng giảng dạy của giảng viên và học tập của sinh viên đã cho thấy tầm quan trọng và tính cấp thiết của các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này.

<i><b>Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với tiếng Việt” làm đối tượng nghiên cứu của luận án. </b></i>

<b>2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu </b>

Việt, luận án cố gắng chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt trên các bình diện cấu trúc, ngữ nghĩa của cụm danh từ trong hai ngôn ngữ; đối chiếu việc chủn dịch mơ hình cụm danh từ tiếng Đức sang tiếng Việt, đóng góp thêm vào cơ sở lí luận, góp phần vào việc cải tiến chất lượng giảng dạy và học tập tiếng Đức, tiếng Việt cũng như công tác dịch thuật và

<b>nghiên cứu ngôn ngữ Đức tại Việt Nam. </b>

<b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được chúng tôi đặt ra là:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu về cụm danh từ trong tiếng Đức và tiếng Việt.

- Xác lập cơ sở lý thuyết về cụm từ, cụm danh từ làm cơ sở cho việc đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với tiếng Việt.

- Miêu tả và đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với tiếng Việt trên các bình diện cấu trúc, ngữ nghĩa.

- Khảo sát và đối chiếu việc chuyển dịch mơ hình cụm danh từ tiếng Đức sang tiếng Việt thông qua ngữ liệu song ngữ.

<b>3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và ngữ liệu khảo sát 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

Đối tượng nghiên cứu là cụm danh từ trong tiếng Đức và tiếng Việt. Trong đó tiếng Đức là ngôn ngữ cơ sở (ngôn ngữ nguồn), tiếng Việt là ngơn ngữ đối chiếu (ngơn ngữ đích).

Việc nghiên cứu đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với cụm danh từ tiếng Việt được thực hiện trên cơ sở đồng đại. Các phương diện được thực hiện đối chiếu là cấu trúc và ngữ nghĩa.

<b>3.2. Ngữ liệu khảo sát </b>

Chúng tôi đã thu thập được hai nhóm ngữ liệu:

Nhóm 1: 450 CDT tiếng Đức thu thập từ 09 tờ báo tiếng Đức Tagesspiegel và 350 CDT tiếng Việt từ nguồn báo Vietnamnet online được lựa chọn ngẫu nhiên trong nhiều mục chủ đề (kinh tế, văn hố, thể thao, y tế, chính trị… ) của các số báo trong khoảng thời gian từ năm 2022 đến năm 2023;

Ngữ liệu nhóm 1 được chúng tơi sử dụng làm cơ sở phân tích và đối chiếu ở chương 2 và chương 3 của luận án. Ngoài ra, luận án sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu của các nhà Việt ngữ học; sử dụng một số ngữ liệu từ các

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

nguồn tài liệu tiếng Việt là sách ngữ pháp, chuyên khảo khi đối chiếu CDT tiếng Đức với tiếng Việt.

Nhóm 2: 600 CDT từ 06 tài liệu tiếng Đức và 600 bản dịch tương đương của từ các tài liệu đã được xuất bản bởi các tổ chức và các nhà xuất bản uy tín như Bộ ngoại giao CHLB Đức, Cơ quan trao đổi hàn lâm Đức DAAD, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Quốc hội bang Hessen CHLB Đức, Uỷ ban Pháp luật Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, Bộ tư pháp, Hội nhập và Châu Âu bang Hessen, CHLB Đức, nhà xuất bản Hồng Đức, nhà xuất bản Hà Nội, nhà xuất bản Cocietätssverlag và nhà xuất bản Trẻ. Các văn bản bản này ở các thể loại và lĩnh vực khác nhau: tiểu thuyết, văn bản luật, chuyên san, tài liệu giới thiệu kiến thức… và do những dịch giả giàu kinh nghiệm biên dịch. Vì vậy, có thể nói đây là nguồn ngữ liệu đáng tin cậy để chúng tôi thu thập và căn cứ vào đó phân tích vấn đề nghiên cứu trong chương bốn của luận án là khảo sát việc chủn dịch mơ hình cụm danh từ từ tiếng Đức sang tiếng Việt.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu </b>

Trong q trình thực hiện luận án, chúng tơi sử dụng các phương pháp,

<b>thủ pháp nghiên cứu sau: </b>

<b>4.1. Phương pháp miêu tả </b>

Một trong các phương pháp nghiên cứu chủ đạo, xuyên suốt luận án là phương pháp miêu tả. Phương pháp này được áp dụng nhằm mô tả đặc điểm về thành tố, cấu trúc, ngữ nghĩa và chức năng của cụm danh từ trong tiếng Đức và tiếng Việt.

<b>4.2 . Phương pháp phân tích đối chiếu </b>

Phương pháp đối chiếu là một phương pháp nghiên cứu quan trọng trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Phương pháp đối chiếu là sự so sánh hai hay nhiều hơn hai ngôn ngữ bất kỳ để xác định những điểm giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ đó. Việc phân tích đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt sẽ

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

giúp tìm ra những tương đồng và khác biệt về cấu trúc, ngữ nghĩa. Cụ thể, trong chương 2 và chương 3, luận án sử dụng phương thức đối chiếu một chiều nhằm mục đích so sánh những điểm tương đồng và khác biệt trong cấu trúc và chức năng ngữ nghĩa của cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt. Với phương pháp này, sự tương đồng hay khác biệt của các cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt được bộc lộ rõ nét.

<b>4.3. Thủ pháp phân tích thành tố </b>

Thủ pháp phân tích thành tố được sử dụng nhằm phân tích cấu trúc của cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt.

<b>4.4. Thủ pháp mơ hình hố </b>

Thủ pháp này được áp dụng khi thực hiện thao tác xây dựng mơ hình

<b>cấu trúc cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt. </b>

<b>4.5. Thủ pháp thống kê, phân loại </b>

Thủ pháp này được sử dụng để phân loại, thống kê nguồn ngữ liệu thu thập được trong q trình khảo sát.

<b>5. Đóng góp mới của luận án </b>

Luận án đã nghiên cứu, đối chiếu một cách có hệ thống đặc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa cụm danh từ trong tiếng Đức với tiếng Việt. Những đóng góp mới của luận án được thể hiện trên các mặt cụ thể dưới đây:

Miêu tả, đối chiếu và chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt từ các phương diện cấu trúc, ngữ nghĩa giữa cụm danh từ tiếng Đức với tiếng Việt.

Thông qua các biểu hiện cụ thể của cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt, luận án góp phần làm sáng tỏ hơn đặc trưng loại hình của tiếng Đức và tiếng Việt.

Trên cơ sở thực tế đối chiếu chuyển dịch cụm danh từ tiếng Đức sang tiếng Việt, luận án bước đầu đưa ra được mơ hình chủn dịch cấu trúc CDT từ tiếng Đức sang tiếng Việt phục vụ việc giảng dạy, học tập định hướng Biên-Phiên dịch và phục vụ mục đích nghiên cứu, biên dịch Đức-Việt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<b>6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án </b>

<i>Về mặt lý luận: Luận án là nguồn ngữ liệu quý góp phần vào việc nghiên </i>

cứu đặc trưng loại hình của tiếng Đức và tiếng Việt thông qua những biểu hiện cụ thể của cụm danh từ. Kết quả của luận án cũng góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý thuyết liên quan đến cụm từ nói chung, cụm danh từ và cấu trúc cú pháp trong tiếng Đức và tiếng Việt nói riêng.

<i>Về mặt thực tiễn, luận án có thể trở thành nguồn tài liệu tham khảo hữu </i>

ích trong cơng tác giảng dạy tiếng Đức cho người Việt và tiếng Việt cho người Đức như một ngoại ngữ; đóng góp vào việc nghiên cứu và biên soạn giáo trình giảng dạy tiếng Đức; ứng dụng trong hoạt động biên – phiên dịch Đức - Việt.

<b>7. Cấu trúc luận án </b>

Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 4 chương với các nội dung chính như sau:

<b>Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết </b>

Ở chương này, ngoài phần tổng quan tình hình nghiên cứu ngồi nước và trong nước liên quan đến đề tài, luận án tập trung trình bày và thảo luận một số vấn đề có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu, làm rõ các khái niệm then chốt, đồng thời đưa ra quan điểm lựa chọn làm cơ sở cho luận án.

<b>Chương 2: Đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với tiếng Việt trên bình diện cấu trúc </b>

Trong chương 2, luận án trình bày về kết quả khảo sát cấu trúc của cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt và kết quả đối chiếu cấu trúc cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt.

<b>Chương 3: Đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với tiếng Việt trên bình diện chức năng ngữ nghĩa </b>

Chương ba đề cập cụ thể những điểm tương đồng và khác biệt của cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt xét theo phương diện ngữ nghĩa

<b>Chương 4: Cụm danh từ tiếng Đức trong các bản dịch tiếng Việt: khảo sát trường hợp </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Chương 4 được triển khai theo cách thức khảo sát việc chủn dịch mơ hình các cụm danh từ trong ngữ liệu của luận án. Từ các kết quả khảo sát, luận án có thể kiểm chứng lại những kết quả nghiên cứu đã thu được ở chương 2 và chương 3, đưa ra mơ hình và thảo luận về các vấn đề khi chuyển dịch CDT tiếng Đức sang tiếng Việt.

Ngoài ra, luận án cịn có phần Phụ lục là danh mục các tài liệu nguồn của các cụm danh từ được sử dụng làm ngữ liệu khảo sát và được sử dụng để phân tích trong luận án.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>CHƯƠNG 1 </b>

<b>TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI </b>

<b>1.1 Tổng quan về tình hình nghiên cứu </b>

<i><b>1.1.1 Tình hình nghiên cứu về cụm danh từ trên thế giới </b></i>

Nghiên cứu cụm danh từ và so sánh đối chiếu cụm danh từ ở các cặp ngôn ngữ hay trong nhiều ngôn ngữ đã trở thành đối tượng của nhiều nghiên cứu ngơn ngữ học... Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến cụm từ nói chung và cụm danh từ nói riêng. Trong những năm đầu phát triển của ngành ngôn ngữ học, những nghiên cứu về cụm danh từ tập trung chủ yếu về nghiên cứu cụm danh từ trong tiếng Anh. Các nghiên cứu chia làm hai khuynh hướng: các nghiên cứu theo đường hướng lý thuyết và các nghiên cứu theo hướng ứng dụng. Từ góc độ ngữ pháp truyền thống, vào cuối thế kỷ 19, Nesfield (1898) [119] đã đề cập đến cấu trúc và chức năng cú pháp của cụm danh từ trong tác

<i>phẩm “A manual of English Grammar and Composition” (Sổ tay ngữ pháp và </i>

đặt câu tiếng Anh). Khác với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ đương thời, khái niệm “Noun group” được Kruisinga (1932) [115] sử dụng năm 1932 để chỉ cụm danh từ (Noun phrase). Kruisinga (1932) [115] cho rằng: Noun group là nhóm danh từ bao gồm một danh từ chính đi kèm với những thành phần sau đây: danh từ sở hữu, tính từ, đại từ, số từ, phó từ, giới từ và động từ có dạng đi -ing.

Dưới quan điểm ngữ pháp truyền thống cải biên, Quirk, R. S. (1985) [120] đã phân chia cấu trúc của cụm danh từ tiếng Anh thành ba phần bao gồm danh từ chính (head), bổ ngữ trước (Premodifier) và bổ ngữ sau (Postmodifier). Theo Quirk (1985) [120], cụm danh từ có thể đảm nhận các chức năng cú pháp là chủ ngữ, tân ngữ trực tiếp, tân ngữ gián tiếp, bổ ngữ của chủ ngữ, bổ ngữ của tân ngữ, bổ ngữ của giới từ, bổ ngữ của tính từ, đồng vị ngữ và trạng ngữ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

Xét theo khía cạnh ngữ pháp Tạo sinh-Cải biến và Ngữ pháp chức năng hệ thống, cụm danh từ cũng được phân tích ở nhiều góc độ khác nhau. Trong đó phải kể đến nghiên cứu “Syntactic Structures” và “Aspects of the Theory of Syntax” của Chomsky (1957) [107] miêu tả cấu trúc của cụm danh từ một cách đơn giản:

Cụm danh từ {từ hạn định + tính từ + danh từ} Hay Cụm danh từ {từ hạn định + danh từ} Cụm danh từ {tính từ + danh từ}

(dẫn theo Trần Hữu Mạnh (2006) [45, tr. 23])

Từ góc độ của Ngôn ngữ học chức năng hệ thống, Halliday (2006) [111] xem xét cụm danh từ trong mối quan hệ tổng thể về ngữ nghĩa (chức năng) và cấu trúc.

Trong suốt thời gian dài vừa qua, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu cũng như các cuốn sách chuyên ngành ngôn ngữ học Tiếng Đức viết về cụm danh từ trong tiếng Đức như Bußman (1990) [63], Duden (2006) [64], Eisenberg (1999) [66], v.v…

Khi phân loại cụm danh từ, các nhà nghiên cứu có nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại. Delahunty và Garvey (1994) [108] đã phân chia cụm danh từ thành hai loại là cụm danh từ đơn (simple noun phrase) và cụm danh từ phức (complex noun phrase). Jacobs (1995) [112] đã chia cụm danh từ thành 4 loại:

- Cụm danh từ đầy đủ là loại có chính tố là danh từ chung hoặc danh từ riêng;

- Cụm danh từ bao gồm đại-danh từ (she, her, their);

- Cụm danh từ gồm đại-danh từ là chính tố nhưng có những điều kiện khác nhau để xác định tiền ngữ.

- Cụm danh từ không hiển hiện, nằm ở vị trí rỗng trong câu (dẫn theo Đặng Ngọc Hướng (2009) [36, tr. 56]).

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Cùng với sự phát triển của ngành ngôn ngữ học, việc nghiên cứu cụm danh từ ngày càng được quan tâm dựa và được tiếp cận dựa trên nhiều phân ngành ngơn ngữ học khác nhau.

<i>1.1.1.1 Tình hình nghiên cứu cụm danh từ trong tiếng Đức </i>

Trong tiếng Đức, cụm danh từ được quan tâm nghiên cứu theo hướng lý thuyết và hướng ứng dụng. Cụm danh từ được đề cập rất nhiều trong các cuốn sách ngữ pháp Admoni (1973) [60], Teubert (1979) [94], Weber (1971) [99] …). Nhiều nhà ngôn ngữ học Đức như Engel (1994) [67, tr. 116], Heringer (2001) [75, tr. 92], Weber (1992) [100, tr. 32]… nghiên cứu cụm danh từ theo lý thuyết phụ thuộc dựa trên trường phi lý thuyết của Tesniere (1959) [51]. Quan điểm thống nhất của các tác giả này là danh từ hoặc đại từ là trung tâm của cụm danh từ. Theo Tesniere (1959) [51], người khởi xướng lý thuyết kết trị, quan hệ cú pháp xác lập giữa các mối quan hệ phụ thuộc. Mỗi quan hệ thống nhất với một vài yếu tố đứng trên (yếu tố chi phối) với yếu tố đứng dưới (yếu tố phụ thuộc).

<i>(1) Alfred parle (Alfred nói), parle (nói) là yếu tố chính, cịn Alfred là yếu tố </i>

phụ thuộc. Trong câu, một từ có thể đồng thời vừa là yếu tố chi phối (yếu tố chính) vừa là yếu tố phụ thuộc.

<i>(2) Mon ami parle (Bạn tơi nói), từ ami vừa phụ thuộc vào từ parle (nói) vừa chi phối từ mon (tôi). Cứ như vậy, các từ đi vào thành phần câu lập thành </i>

tôn ti (thứ bậc) của mối quan hệ cú pháp. Về nguyên tắc, không một yếu tố phụ thuộc nào có thể phụ thuộc vào hơn một yếu tố chính. Ngược lại, theo Gưtze (1989) [70, tr. 25] yếu tố chính có thể chi phối một vài yếu tố phụ thuộc. Theo quan niệm của Tesniere (1959) [51], mỗi yếu tố chính mà ở nó

<i>có một hay một vài yếu tố phụ lập thành cái ông gọi là nút (tiếng Pháp </i>

<i>noeut). Nút được Tesniere (1959) [51] xác định là “tập hợp bao gồm từ </i>

chính và tất cả các từ trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào nó [51, tr. 25].

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

các từ của câu gọi là nút trung tâm. Nút này đảm bảo sự thống nhất cấu trúc của câu bởi nó gắn tất cả các yếu tố của câu thành chuỗi thống nhất. Trong ý nghĩa nhất định, nó đồng nhất với cả câu [51, tr. 26]. Nút trung tâm thường được cấu tạo bởi động từ nhưng cũng có thể là danh từ, tính từ, trạng từ. Về nguyên tắc, chỉ các thực từ mới có khả năng tạo nút. Phù hợp với các loại thực từ, Tesniere (1959) [51] phân biệt bốn kiểu nút: nút động từ, nút danh từ, nút tính từ và nút trạng từ.

Nút động từ là nút mà trung tâm của nó là động từ: (3) Alfred frappe Bernard (Anphret đánh Becna).

Nút danh từ là nút mà trung tâm của nó là danh từ, ví dụ: six forts chevaux (sáu con ngựa khỏe). Nút tính từ là nút có tính từ làm trung tâm, ví dụ: extremement jeune (cực kì trẻ trung). Nút trạng từ là nút có trạng từ làm trung tâm, ví dụ: relativement vite (tương đối nhanh).

Lý thuyết kết trị của Tesniere (1959) [51] đề xuất đã nhanh chóng được phổ biến và được rất nhiều nhà ngơn ngữ học trong đó có các nhà ngơn ngữ học Đức áp dụng vào việc phân tích ngữ pháp như Engel (1994) [67], Helbig (1999) [73], Heringer (2001) [75], Eroms (2000) [68], Trawinski (2000) [95]…

Các tài liệu nghiên cứu về cụm danh từ phần lớn xuất hiện trong một chương lớn hoặc là một mục trong một chương của cuốn sách, trong đó, cụm danh từ được đề cập dưới hình thức mô tả cấu trúc, giới hạn cụm từ trong câu, hay liệt kê các định ngữ thuộc cấu trúc cụm danh từ. Bên cạnh vấn đề sử dụng định ngữ, nhiều tác giả cũng đã đề cập đến chức năng cú pháp của cụm danh từ như là một thành phần câu (chủ ngữ, tân ngữ cách bốn…) và ở vấn đề này, các tác giả cho thấy sự thống nhất. Tuy nhiên, có nhiều tác giả đã đi sâu nghiên cứu các khía cạnh nhất định của cụm danh từ. Weber (1992) [100] cũng phân tích định ngữ tính từ và định ngữ động từ mở rộng theo hướng ngôn ngữ học lịch đại (diachron) để tìm ra các nguyên nhân mang tính nội tại ngơn ngữ tạo ra sự xuất hiện của các định ngữ này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Admoni (1982) [61] đã đề cập đến phân tích cấu trúc của cụm danh từ theo phương diện phân tích các loại định ngữ khác nhau, các định ngữ được cấu tạo từ động từ và các định ngữ tính từ gắn liền với vị trí của chúng trong cụm danh từ. Admoni (1982) [61] nhấn mạnh rằng các cụm danh từ mở rộng thường được dùng thường xuyên hơn và thường có chức năng của chủ ngữ và tân ngữ.

Từ hướng nghiên cứu lý thuyết phụ thuộc (dependenzieller Ansatz), Teubert (1979) [94] đã đưa ra được mơ hình miêu tả cụm danh từ và có thể phân biệt được các định ngữ phụ thuộc vào ngữ trị hoặc không phụ thuộc vào ngữ trị. Teubert (1979) [94] đã phân tích cấu trúc của 17 nhóm định ngữ phụ thuộc vào ngữ trị và 9 nhóm khơng phụ thuộc vào ngữ trị, một vài nhóm cịn được phân tích thành nhiều nhóm nhỏ. Đặc biệt là, trong mơ hình phân tích của mình, Teubert (1979) [94] đã cho thấy ngữ trị liên quan đến danh từ được coi như một vấn đề của chính bản thân nó (sui genesis). Cũng chính điểm này đã tạo sự khác biệt giữa nghiên cứu của Teubert (1979) [94] và các hướng nghiên cứu khác (ví dụ như nghiên cứu của Sommerfeldt (1977) [92] và Helbig (2001) [74] đã cho thấy sự phụ thuộc của ngữ trị danh từ vào ngữ trị của động từ).

Trong thời gian sau này, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu cũng như các cuốn sách chuyên ngành ngôn ngữ học viết về cụm danh từ trong tiếng Đức như Duden (2006) [64], Eisenberg (1999) [66], Vuillaume (1993) [98], …

Ngoài ra, tác giả Eisenberg (1999) [66] đã tập trung phân tích rất kỹ các định tố trong cụm danh từ (định tố là tính từ, định tố sở hữu Genitiv, đồng vị ngữ (Apposition), đại từ quan hệ và câu là định ngữ.

Cuốn Duden-Grammatik (2006) [64] cũng đã đưa ra một bảng liệt kê các định tố của cụm danh từ. Ngoài ra, phần mở rộng của cụm danh từ trong tiếng Đức cịn có thể là các câu quan hệ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Boettcher (2014) [62] đã miêu tả cấu trúc của cụm danh từ theo tầng bậc phụ thuộc của các định ngữ và được miêu tả theo các bậc từ thấp đến cao (kiểu sơ đồ hình cây) và được cụ thể hoá bằng các con số.

Đi theo hướng lý thuyết tạo sinh, đặc biệt là theo quan điểm lý thuyết Lí thuyết Chi phối và Ràng buộc (Government and Binding Theory)<small>, </small>Olsen (1991) [86], Vater (1998) [97] coi quán từ là thành tố mang tính quyết định đối với cụm danh từ (funktionaler Kopf). Theo hướng nghiên cứu này, sẽ rất khó khăn khi trên thực tế có nhiều câu khơng có qn từ.

Cũng giống như ở các ngôn ngữ khác, cụm danh từ tiếng Đức còn là đối tượng nghiên cứu trong khá nhiều cơng trình khoa học của các nhà nghiên cứu nước ngồi. Trong đó phải kể đến các nghiên cứu mang tính ứng dụng với ví dụ là nghiên cứu của Applegate (1960) [103].

Trong lĩnh vực dịch thuật, Joseph R. Applegate [103] nghiên cứu cụm danh từ liên quan đến các bản dịch bằng máy tính. Nghiên cứu tập trung vào các cụm danh từ ở Cách 1 (Nominativ) trong khi đó còn các trường hợp cụm danh từ ở cách 2, cách 3 và cách 4 không được đề cập đến và cũng khơng phân tích, đề cập đến cụm danh từ đứng sau giới từ. Theo định nghĩa của tác giả, cụm danh từ là thành tố cùng với cụm động từ cấu tạo nên câu. Mô hình được chọn cho mơ tả là mơ hình do Chomsky (1957) [107] phác thảo trong Cấu trúc cú pháp. Các câu của một ngơn ngữ có thể được mô tả dưới dạng các bộ quy tắc và nhờ đó có thể mơ tả chi tiết các câu của một ngôn ngữ theo các thuật ngữ khá chính xác. Mơ hình ngữ pháp thuộc loại này đặc biệt hữu ích cho việc dịch thuật cơ học, vì nó cung cấp cơ sở khơng chỉ để chuẩn bị một quy trình xây dựng các câu trong ngơn ngữ đích mà cịn để chuẩn bị quy trình nhận dạng câu trong ngơn ngữ nguồn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i>1.1.1.2 Tình hình nghiên cứu cụm danh từ trong tiếng Việt </i>

Cụm danh từ đã được giới Việt ngữ học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, cả trên bình diện cấu tạo cú pháp lẫn chức năng ngữ nghĩa của các yếu tố nội

<small>(danh từ không phân biệt loại) </small>

Emeneau (1951) [110] đã đưa loại từ đứng ở vị trí trước danh từ biệt loại. Sau này, Hồ Lê (1983) [43] đã nêu quan điểm về mơ hình này và cho rằng “loại từ trong mơ hình của Emeneau cịn rất mơ hồ. Sự mơ hồ không phải ở chỗ không thể tìm ra hết được loại từ mà là ở chỗ sau khi tìm ra những loại từ thì có thể nhận thấy: 1) có những từ khơng đồng nhất về ngữ pháp và về chức năng ngữ nghĩa; 2) có khơng ít từ trong đó có thể đứng giữa số từ và danh từ không biệt loại. Chỉ riêng điểm này đã có thể phá vỡ mơ hình của Emeneau (1951) [110, tr. 36]”. Hồ Lê (1983) đã đưa ra mơ hình mang tính tồn vẹn của cụm danh từ tiếng Việt [43, tr. 45]:

<b> Bảng 1.2: Mơ hình cụm danh từ của Hồ Lê [43] </b>

<small>Số từ Vị trí tùy ý “cái” </small>

<small>Danh từ không biệt loại Thuộc ngữ Từ chỉ định Danh từ cá thể hoặc danh </small>

<small>từ phi cá thể (vị trí bắt </small>

Cuốn Ngữ pháp Tiếng Việt của Trung tâm khoa học xã hội (2002) [56]

<i>và nhân văn quốc gia đã dành chương III miêu tả Cấu tạo ngữ, danh ngữ với </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

ngữ mà danh từ làm chính tố có phần phụ trước và phần phụ sau bao gồm các phụ tố.

Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] đã phân tích và đưa ra 02 sơ đồ cụm danh từ với vị trí trung tâm như sau:

Sơ đồ có một trung tâm:

<b>Bảng 1.3: Sơ đồ cụm danh từ của Nguyễn Tài Cẩn [7] </b>

Ở sơ đồ này, Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] đã coi trung tâm của cụm danh từ là từ “mèo”. Tuy nhiên, sau đó ơng đã khẳng định lại: “chính loại từ mới là trung tâm của cụm danh từ” trong phụ lục 2 của cuốn sách trên. Đây là một lập luận “khá xa lạ với ngữ pháp truyền thống” và mang tính đột phá trong giới ngôn ngữ học lúc bấy giờ. Sau này, Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] đã đưa ra cách giải quyết mang tính trung hồ hơn, ơng cho rằng trung tâm của cụm danh từ là một bộ phận được ghép từ hai trung tâm T<small>1 </small>và T<small>2. </small>Bộ phận ghép này có thể xuất hiện dưới 3 dạng như sau [10]:

- Dạng đầy đủ T<small>1</small> T<small>2</small> ví dụ: con chim (này) - Dạng thiếu T<small>1: --</small> T<small>2 </small>ví dụ: -- chim (này) - Dạng thiếu T<small>2: --</small> T<small>1 </small>ví dụ: con -- (này)

Mơ hình cụm danh từ theo quan điểm mới của Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] có thể được trình bày như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<b>Bảng 1.4: Sơ đồ cụm danh từ của Nguyễn Tài Cẩn [7] </b>

Mơ hình cấu trúc đoản ngữ danh từ trong tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] được xây dựng trên cơ sở từ chủ nghĩa cấu trúc (chủ nghĩa hình thức Nga). Nhận định của Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] hoàn toàn mới đối với giới Việt ngữ học lúc bấy giờ và là một cái nhìn mới về cụm danh từ trong tiếng Việt. Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều nhưng không thể phủ nhận được những đóng góp rất lớn của Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] trong nghiên cứu cụm danh từ của tiếng Việt.

Trong cuốn “Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa”, Cao Xuân Hạo (2017) [29] đã bàn về cấu trúc của danh ngữ trong tiếng Việt và vấn đề xác định trung tâm của danh ngữ là danh từ, danh từ có thể tự mình thay thế cho cả danh ngữ và do đó cũng là từ duy nhất khơng thể lược bỏ được. Tác giả Cao Xuân Hạo (2017) [29] có quan điểm đồng thuận với tác giả Nguyễn Tài Cẩn (1975) [8] khi công nhận loại từ là trung tâm của cụm danh từ. Ơng có cách lý giải khác với tác giả Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] khi đặt nghi ngờ về độ tin cậy của tiêu chuẩn phân bố, một tiêu chuẩn mà các nhà nghiên cứu Việt ngữ vẫn thường sử dụng khi phân tích cấu trúc cụm danh từ tiếng Việt và ông cũng đặt vấn đề xem xét lại khái niệm loại từ “người nghiên cứu không chú ý đến việc ứng dụng nghiêm ngặt những tiêu chuẩn thực sự ngôn ngữ học để phân tích cấu trúc của danh ngữ tiếng Việt và phát hiện những thuộc tính cú pháp

<i>của các từ tương tự như cái và của các từ tương tự như áo.” [7. tr. 432] Theo </i>

Cao Xuân Hạo (2017) [29] từ đó nảy sinh ra những khái niệm như “loại từ” hay “từ chỉ loại”, “danh từ biệt loại” và “danh từ khơng biệt loại”. Ơng cho rằng

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

chỉ có hai loại danh từ là danh từ đơn vị và danh từ khối. Danh từ đơn vị là trung tâm cho những cụm danh từ có có sở chỉ trong phát ngơn, dùng để biểu thị tính phân lập trong khơng gian, thời gian… Còn danh từ khối là những danh từ mà sở biểu là một tập hợp những thuộc tính chủng loại hay chất liệu, làm định ngữ cho danh từ chỉ loại. Các danh từ đơn vị được chỉ số (đơn hay phức) một cách bắt buộc (một lần, từng cái, con mèo-lượng từ zero), các danh từ khối

<i>thì khơng thể được chỉ số (bị trong bị ăn lúa có thể chỉ một hay nhiều con bò). </i>

So với đại đa số các nhà nghiên cứu Việt ngữ học lúc đó, quan điểm này của Cao Xuân Hạo (2017) [29] được cho là rất mới mẻ.

Khi nghiên cứu về cấu trúc của cụm danh từ, cụ thể là liên quan đến vấn đề trung tâm của cụm danh từ, Diệp Quang Ban (2013) [6] đã phân biệt hai trường hợp là trung tâm của cụm danh từ không chứa phần phụ trước và trung tâm của cụm danh từ có chức phần phụ trước. Cách xây dựng mơ hình cụm danh từ của Diệp Quang Ban (2013) [6] có phần tương đồng với Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] ở thời kỳ đầu nhưng chi tiết hơn.

<b>Bảng 1.5: Sơ đồ Cụm danh từ của Diệp Quang Ban [6] </b>

<small>tất cả những cái con mèo đen xinh </small>

<small>đẹp </small> <sup>dễ </sup><small>thương </small> <sup>ấy </sup> <sup>của nhà </sup><small>Giáp </small>

Tác giả Diệp Quang Ban (2013) [6] dành sự chú ý đặc biệt tới phần phụ trước của cụm danh từ (vị trí số 2 ở sơ đồ trên) và cho rằng “có những danh từ tự mình kết hợp được với từ chỉ số lượng thông qua danh từ chỉ loại bao gồm cả loại từ”.

Tác giả Đinh Văn Đức (2010) [19] dùng khái niệm “ngữ đoạn của danh từ” hay “danh ngữ” và định nghĩa danh ngữ là một kết cấu ngữ pháp, một tổ hợp tự do có một trung tâm, do danh từ làm nịng cốt, tập hợp chung quanh nó thành những thành tố phụ thường xuyên và lâm thời. Giống như quan điểm của tác giả

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Diệp Quang Ban (2013) [6], ông cũng chia phần phụ trước của cụm danh từ thành 4 vị trí cơ bản và cho rằng biên giới cuối cùng của cụm danh từ (ở phần phụ sau) là vị trí của các từ chỉ định (Ý kiến này của tác giả Đinh Văn Đức (2010) [19] trùng với ý kiến của rất nhiều nhà nghiên cứu khác):

<b>Bảng 1.6: Sơ đồ Cụm danh từ của Đinh Văn Đức (2010) [19, tr. 78] </b>

<b><small>tất cả những cái cuốn sách mới ấy </small></b>

Mơ hình danh ngữ của Hồng Dũng - Nguyễn Thị Ly Kha (2004) [14] có nét khác biệt là chính tố là loại từ chứ khơng phải danh từ và hai nhà nghiên cứu đã sắp xếp vị trí các yếu tố làm thành tố phụ sau cho từ trung tâm trong danh ngữ tiếng Việt như sau:

<b>Bảng 1.7: Mơ hình danh ngữ của Hồng Dũng - Nguyễn Thị Ly Kha </b> <small>tất cả những cái lũ người buôn </small>

<small>người </small> <sup>đông </sup><small>đúc </small> <sup>bạc </sup><small>ác </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

LNTT: lượng ngữ chỉ toàn thể; LNSL: lượng ngữ chỉ số lượng; TCT: từ chỉ xuất; TCĐV: từ chỉ đơn vị; ĐN: định ngữ; ĐNPS: định ngữ hàm ý phức số; ĐNTT: định ngữ trang trí; ĐNCX: định ngữ chỉ xuất; ĐNTC: định ngữ trực chỉ; ĐNSH: định ngữ sở hữu; ĐNVT định ngữ chỉ vị trí; ĐNTC: định ngữ là một tiểu cú; ST: số từ; PTCL; phụ từ chỉ lượng ; QT: quán từ; DK: danh từ khối; VT: vị từ, ngữ vị từ; DN: danh ngữ; GN: giới ngữ, TC: tiểu cú

<i>Ngoài ra, với ví dụ: “cái máy tính ấy của nhà tớ” hai tác giả đã chứng </i>

minh rằng, từ chỉ định không phải là biên giới cuối cùng của cụm danh từ. Từ

<i>chỉ định ấy không nằm ở biên giới của cụm danh từ mà là cụm từ sở hữu “của </i>

<i>nhà tớ”. Đây chính là nhận định mang tính mới mẻ về cấu trúc và các thành tố </i>

trong cụm danh từ tiếng Việt.

Liên quan đến nghiên cứu cấu trúc cụm danh từ, cịn có các nghiên cứu về vị trí thành phần phụ sau của các tác giả Nguyễn Hoàng Anh (2003) [2], Nguyễn Thị Nhung (2009) [48], Hoàng Dũng - Nguyễn Thị Ly Kha (2004) [14].

Ngoài những nghiên cứu ở diện đồng đại như đã nêu, mặc dù rất hiếm nhưng cụm danh từ tiếng Việt cũng đã được quan tâm từ phương diện lịch đại. Luận án tiến sĩ của Võ Thị Minh Hà (2016) [23], (2021) [24] “Cấu trúc danh ngữ, động ngữ tiếng Việt thế kỷ XVII” là cơng trình như vậy. Cơng trình này đi sâu nghiên cứu và làm sáng tỏ về đặc điểm cấu trúc của cụm danh từ, cụm động từ tiếng Việt thế kỷ XVII dựa trên các tài liệu được viết bằng chữ quốc ngữ.

Nhìn một cách tổng qt, có thể nói, khi xem xét cụm danh từ trong tiếng Việt, hầu hết các nhà Việt ngữ học đều thống nhất ở chỗ coi cấu trúc của cụm danh từ trong tiếng Việt gồm có ba phần: phần trung tâm, phần phụ trước và phần phụ sau. Sự khác nhau giữa các nhà nghiên cứu chủ yếu được thể hiện ở việc sử dụng thuật ngữ, xác định thành tố trung tâm, xác định số lượng, vị trí các thành phần phụ phía sau của thành tố trung tâm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<i><b>1.1.2 Tình hình nghiên cứu đối chiếu cụm danh từ </b></i>

<i>1.1.2.1 Tình hình nghiên cứu, đối chiếu cụm danh từ trong tiếng Đức </i>

Bên cạnh các nghiên cứu nội ngôn, nhiều nghiên cứu đã tiếp cận cụm danh từ tiếng Đức đặt trong sự so sánh, đối chiếu với các ngôn ngữ khác. Schnabel-Le Corre (2014) [121] đã thực hiện một phân tích đối lập giữa ba ngôn ngữ tiếng Đức, tiếng Anh và Thuỵ Điển nhằm làm rõ các đặc điểm cụ thể của danh từ và cụm danh từ làm bổ ngữ trong các ngôn ngữ này. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh tính đa dạng của phụ ngữ trong các ngôn ngữ đối chiếu. Cụ thể, bên cạnh tính từ, phụ ngữ có thể là một danh từ - chung hoặc riêng như:

<i>Sandberg, Karlstadt (Tiếng Đức), Sandhurst, Charlestown (Tiếng Anh), Sandhamn, Karlstad (Tiếng Thụy Điển). Chúng cũng có thể là các cụm danh </i>

từ có độ phức tạp khác nhau với các biến thể về tần suất và cách sử dụng theo

<i>ngơn ngữ. Ví dụ, cụm danh từ đơn giản có các từ bổ sung ý nghĩa như: Wüste </i>

<i>Gobi (Tiếng Đức), River Thames (Tiếng Anh); cụm giới từ: Wyk auf Föhr </i>

<i>(Tiếng Đức), Hay-on-Wye (Tiếng Anh), tuy nhiên cụm giới từ ít xuất hiện trong </i>

tiếng Thụy Điển. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng làm rõ nhiều điểm tương đồng giữa các ngôn ngữ, trước hết là trong các tổ hợp từ, chúng có thể là các tổ hợp gần gũi, dùng gạch nối hoặc tổ hợp mang tính chất mở. Trong tiếng Đức và Thụy Điển, sự hình thành các tổ hợp gần tỏ ra rất hiệu quả, trong khi ở tiếng Anh, tổ hợp mở dường như thường xuyên hơn trong các cách tạo tên gọi mang tính sáng tạo. Nhưng trong cấu trúc này, sự khác biệt chủ yếu là do tiêu chí chính tả.

Urbaniak-Elkholy (2014) [83] đã nghiên cứu cấu trúc cụm danh từ tiếng Đức mở rộng trong sự đối chiếu với tiếng Ba Lan.

Kirkwood (1978) [114] đã nghiên cứu so sánh đối chiếu cụm danh từ Tiếng Anh và Tiếng Đức trên phương diện khả năng và hạn định cấu trúc bề mặt. Các câu trong văn bản đều mang “ý nghĩa giao tiếp” cụ thể. Có thể tìm ra

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

thông tin đặc trưng, được biểu hiện trong một khuôn mẫu ngữ điệu cụ thể và có thứ tự thành phần câu nhất định. Trong Tiếng Đức và Tiếng Anh, thứ tự thành phần câu phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.

Chiriacescu (2014) [106] đã so sánh và đưa ra những điểm đặc biệt trong cấu trúc cụm danh từ tiếng Anh, Tiếng Đức và Tiếng Rumani. Luận án nghiên cứu các dấu hiệu ngữ dụng học diễn ngôn và ngữ nghĩa trong cụm danh từ không xác định. Thông qua việc phân tích, so sánh trong tiếng Anh, Tiếng Đức và tiếng Rumani, tác giả đã phân tích các chức năng của các cụm danh từ không xác định khác nhau với mục tiêu góp phần vào việc miêu tả cấu trúc văn bản, tạo nền tảng giúp cho việc tạo văn bản và hiểu nội dung văn bản cũng như tạo ra các nguyên tắc mang tính tổng quát đối với việc giao tiếp giữa các đối tượng tham gia giao tiếp. Nghiên cứu này đã cho thấy rằng các biến thể khác nhau trong việc phân bố các cụm danh từ không xác định trong khung lý thuyết của giao diện ngữ nghĩa và ngữ dụng diễn ngơn có thể được xử lý.

Pon (2011) [88] đã nghiên cứu cụm danh từ trong tiếng Đức báo chí hiện đại. Nghiên cứu đã đề cập đến quy mô và cấu trúc của cụm danh từ Tiếng Đức, đồng thời chú ý tới chức năng cú pháp của cụm danh từ trong ngôn cảnh. Lý thuyết ngữ pháp phụ thuộc của Tesniere (1959) [51] là nền tảng cơ sở lý thuyết của nghiên cứu này.

Như vậy, có thể thấy rằng, đã có nhiều nhà nghiên cứu thực hiện các cơng trình khoa học lấy đối tượng nghiên cứu là tiếng Đức đối chiếu với các thứ tiếng khác. Các nghiên cứu được triển khai theo nhiều hướng khác nhau và cũng đã cho ra kết quả hữu ích phục vụ cho công tác học tập, giảng dạy, nghiên cứu và dịch thuật liên quan đến tiếng Đức và các thứ tiếng khác nhau.

<i>1.1.2.2 Tình hình nghiên cứu đối chiếu cụm danh từ trong tiếng Việt </i>

Đã nhiều cơng trình nghiên cứu, các luận án tiến sỹ tập trung nghiên cứu đối chiếu cụm danh từ của một ngôn ngữ với tiếng Việt. Trong đó phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học quốc gia năm 2006 và sách được xuất

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

bản năm 2006 của Trần Hữu Mạnh [45] (chủ nhiệm đề tài) với chủ đề “Đối chiếu danh ngữ tiếng Anh - tiếng Việt trên các bình diện ngữ pháp - ngữ nghĩa - ngữ dụng”. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu, so sánh đối chiếu cụm danh từ tiếng Anh và tiếng Việt trên các bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng dựa trên việc tham khảo hướng đi của của nhiều trường phái khác nhau như quan điểm ngữ pháp truyền thống cải biên, ngữ pháp tạo sinh cải biến, ngữ pháp chức năng hệ thống. Nhóm nghiên cứu cũng đã ứng dụng kết quả nghiên cứu vào việc phân tích lỗi diễn đạt, lỗi cú pháp, lỗi ngữ nghĩa của sinh viên Việt Nam khi sử dụng cụm danh từ tiếng Anh. Nghiên cứu này đã thể hiện sự hiểu biết sâu sắc của nhóm tác giả về các trường phái ngữ pháp.

<i>Trong luận án với đề tài “Danh ngữ tiếng Anh trong sự đối chiếu với </i>

<i>tiếng Việt” Đặng Ngọc Hướng (2009) [36] đã làm sáng tỏ những đặc trưng loại </i>

hình của tiếng Anh và tiếng Việt trong phạm vi đơn vị danh ngữ, soi sáng thêm những chỗ mạnh và chưa mạnh của quan niệm coi cụm từ là trung tâm của nghiên cứu cú pháp nói chung và của ngữ pháp tiếng Việt nói riêng, đồng thời làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa cụm danh từ cơ sở tiếng Anh và tiếng Việt. Cũng theo Đặng Ngọc Hướng (2009) [36], khi được bổ sung đầy đủ các thành phần phụ chức năng, một cụm danh từ có cấu trúc mở rộng lý tưởng sẽ gồm có 11 vị trí trên trục tuyến tính [36, tr. 178].

<i>Nguyễn Hoàng Anh (2003) [2] trong luận án với đề tài “Đặc trưng cấu </i>

<i>trúc và ngữ nghĩa của danh ngữ tiếng Hán hiện đại (trong sự đối chiếu với tiếng Việt)” đã đối chiếu cụm danh từ tiếng Hán và cụm danh từ tiếng Việt dựa </i>

trên các bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa và làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai ngôn ngữ.

Liên quan đến các nghiên cứu cụ thể về thành phần định ngữ của cụm danh từ có thể kể đến nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Đại (2014) [17]. Tác giả đã miêu tả chi tiết các loại định ngữ trong phần phụ sau của cụm danh từ tiếng

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Nguyễn Ngọc Kiên (2008) [42] với đề tài “Nghiên cứu về thành phần định ngữ của đoản ngữ danh từ tiếng Hán hiện đại (Trong sự so sánh với thành phần định ngữ của đoản ngữ danh từ tiếng Việt) và Trần Thị Hoàng Anh (2019) [3] với “Nghiên cứu đặc điểm định ngữ hình dung từ tiếng Hán hiện đại - đối chiếu với định ngữ tiếng Việt” đều lấy định ngữ của cụm danh từ tiếng Hán làm đối tượng nghiên cứu và đối chiếu với định ngữ của cụm danh từ tiếng Việt để tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt ở phạm trù ngữ pháp này của hai ngôn ngữ.

Võ Thị Minh Hà và Wantanee Nachaingern (2021) [24] đã so sánh cấu trúc danh ngữ tiếng Việt và tiếng Thái và đã thấy rằng hai ngôn ngữ tuy khác cội nguồn nhưng lại có chung loại hình đơn lập, phân tích tính. Cả hai ngơn ngữ đều có trật tự cú pháp SVO nhưng danh ngữ của cả hai bên vừa có những tương đồng vừa có những khác biệt cần được làm rõ. Trong bài nghiên cứu này, từng thành tố, từng vị trí trong cấu trúc danh ngữ của hai ngôn ngữ được so sánh để chỉ ra những điểm giống và khác nhau của từng vị trí và tồn cấu trúc. Kết quả của bài viết góp phần vào q trình thụ đắc ngơn ngữ như một ngoại ngữ nhìn từ tiếng Việt và tiếng Thái.

Ngồi ra, có thể kể đến các nghiên cứu đối chiếu cụm danh từ tiếng Việt và các thứ tiếng khác, ít phổ biến hơn ở Việt Nam như: Nguyễn Trọng Khánh (2000) [41] nghiên cứu về “Danh ngữ tiếng Lào”; Kyong Hwan (1996) [1] nghiên cứu về trật tự các thành tố trong cụm danh từ tiếng Việt và tiếng Hàn;và nghiên cứu của Phạm Thị Thuý Hồng (2000) [31] về “Danh từ - danh ngữ trong tiếng Indonesia qua đối chiếu với tiếng Việt”.

<i>1.1.2.3 Tình hình nghiên cứu về đối chiếu cụm danh từ giữa tiếng Đức và tiếng Việt </i>

Trong phạm vi các nghiên cứu so sánh đối chiếu liên quan đến Tiếng Đức và Tiếng Việt nói chung và liên quan đến cụm danh từ của hai ngôn ngữ nói riêng, cho đến nay, mới chỉ có một số nghiên cứu ở dạng bài đăng tạp chí,

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

trong đó có thể kể đến nghiên cứu của Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2017) [13] và Hồ Thị Bảo Vân [57] đăng trên tạp chí Nghiên cứu nước ngoài.

Nguyễn Thị Ngọc Diệp (2017) [13] đã thảo luận về một số nét cơ bản trong cấu trúc ngữ pháp và đặc điểm ngữ nghĩa của cụm danh từ tiếng Đức. Sau khi đối chiếu với tiếng Việt, tác giả khái quát hóa những nét tương đồng và khác biệt của cụm danh từ trong hai ngôn ngữ. Dựa vào một bản dịch của một câu chuyện cổ tích, tác giả nêu ra một vài xu hướng chuyển đổi cấu trúc cụm danh từ thường thấy trong quá trình dịch của dịch giả. Có thể thấy rằng, bài nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc kết luận một số xu hướng chuyển đổi cấu trúc cụm danh từ trong phạm vi một bản dịch văn học nên kết quả chưa mang tính phổ quát cao.

Nghiên cứu của Hồ Thị Bảo Vân [57] giới hạn ở việc khái quát cấu trúc cụm danh từ Tiếng Đức và nêu những vấn đề khó khăn đối với sinh viên khi đọc hiểu các cụm danh từ.

Như vậy, có thể nói rằng, đã có một số nghiên cứu về cụm danh từ trong tiếng Đức và tiếng Việt nhưng số lượng và quy mô của các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở mức độ khiêm tốn. Chính vì vậy, chúng tơi đã lựa chọn đề tài:

<i>“Đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức với tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu với </i>

mong muốn kết quả nghiên cứu của luận án sẽ đem lại một hệ thống kiến thức tổng quát cũng như về sự tương đồng và các biệt trong cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt, giúp ích cho việc học tập, nghiên cứu và dịch thuật Đức - Việt tại Việt Nam.

<b>1.2 Cơ sở lý thuyết liên quan đến đề tài </b>

Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu là đối chiếu cụm danh từ tiếng Đức và tiếng Việt, tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa cụm danh từ của hai ngôn ngữ, luận án cần dựa trên cơ sở lý thuyết về cụm từ, cụm danh từ cũng như dựa trên cơ sở lý thuyết về đối chiếu ngôn ngữ học và một số vấn đề lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<i><b>1.2.1 Lý thuyết về cụm từ trong ngôn ngữ học </b></i>

<i>1.2.1.1 Khái niệm cụm từ (phrase) </i>

<i>Trong cuốn Ngôn ngữ học đại cương-những nội dung quan yếu, tác giả Đinh </i>

Văn Đức (2012) [20, tr. 207] đã định nghĩa khái niệm cụm từ như sau:

Cụm từ là tổ hợp từ tự do của các từ, nó đầy đủ hơn từ, tường minh hố một sự vật, hiện tượng nào đó…. Cụm từ chính phụ hay đoản ngữ là những tổ hợp từ tự do có một trung tâm. Vai trị, vị trí và ý nghĩa của các cụm từ trong câu có đặc trưng di chuyển. Có cụm thực từ do danh từ làm trung tâm; có cụm thì do động từ làm trung tâm. Kết cấu chủ-vị có hai trung tâm làm nòng cốt của cấu trúc câu để biểu đạt nhận định mệnh đề. Mỗi ngôn ngữ cách thức biểu đạt nòng cốt câu theo kiểu riêng. Trong các thành phần câu thì bậc cao nhất là cụm chủ-vị (mệnh đề/cú) rồi mới đến các thành phần phụ. Cụm từ rất đặc sắc, mỗi ngơn ngữ có cách thức riêng trong hệ thống cấu trúc ngôn ngữ. Cụm từ được phân loại theo kết cấu ngữ pháp, theo đó có cụm đẳng lập và cụm chính phụ, cụm chính phụ thì nhiều hơn cụm từ đẳng lập, còn cụm chủ-vị là một dạng riêng về chất.

<i>1.2.1.2 Cụm từ trong tiếng Đức </i>

Zifonun/ Hoffmann/Strecker (1997) [101, tr. 69] đã định nghĩa cụm từ là một nhóm từ độc lập về mặt chức năng bao gồm một hoặc nhiều thành phần với một hoặc duy nhất chỉ có một từ làm trung tâm, không chứa một động từ ở dạng chia. Từ trung tâm của cụm từ là trung tâm mang tính chất cấu trúc và chức năng. Từ trung tâm không miêu tả hay làm nổi bật các yếu tố khác trong cụm từ nhưng lại được các yếu tố khác trong cụm từ miêu tả và làm nổi bật. Từ trung tâm của cụm từ có thể bị điều khiển bởi các yếu tố bên ngoài cụm từ hoặc do những đặc tính bên trong của mình sẽ làm biến đổi hình thức của các yếu tố khác trong cụm từ. Những dấu hiệu biến đổi hình thức của từ trung tâm không do các yếu tố trong cụm từ quyết định. Cũng theo Zifonun/Hoffmann/Strecker (1997) [101, tr. 72], các cụm từ có thể phối hợp với nhau và là thành phần của

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

nhau. Từ đó, các tác giả cho thấy khả năng có thể mở rộng của các cụm từ và khả năng các cụm từ sẽ có cấu trúc rất phức tạp. Các cụm từ là các đơn vị của cấu trúc cú pháp, chúng xuất hiện với các cấu trúc khác nhau tùy theo ngữ nghĩa và chức năng trong câu.

Theo Engel (1994) [67], cụm từ được tạo bởi nhiều từ khác nhau bởi vì ngồi từ trung tâm thì cụm từ cịn chứa các vệ tinh của từ trung tâm. Các vệ tinh của từ trung tâm được hiểu chính là các định ngữ trong cụm từ.

Trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm cụm từ của Engel (1994) [67, tr. 14] với tư cách là cụm từ tự do. Trong cụm từ có một hoặc một cụm từ khác đóng vai trị là trung tâm và ảnh hưởng tới các thành tố khác của cụm từ. Các thành tố (ngoại trừ trung tâm của cụm từ) phụ thuộc vào cụm từ hoặc phụ thuộc lẫn nhau. Các từ loại có thể tạo được cụm từ là danh từ, đại từ, tính từ, động tính từ và trạng từ bởi những từ loại này có thể mở rộng về mặt cú pháp và như vậy, chúng có thể đóng vai trò làm trung tâm của một cụm từ.

<i>1.2.1.3 Cụm từ trong tiếng Việt </i>

Trong tiếng Việt, cụm từ được phân thành hai loại là cụm từ cố định và cụm từ tự do. Cụm từ cố định là các thành ngữ, ngữ cố định, quán ngữ, ngữ cố định định danh. Các cụm từ cố định được xếp vào nhóm đơn vị từ vựng. Khác với cụm từ cố định, cụm từ tự do là đơn vị ngữ pháp. Trong luận án này, chúng tôi lấy cụm từ tự do là đối tượng nghiên cứu.

Xét về mặt quan hệ ngữ pháp, các cụm từ tự do được chia thành ba kiểu: tổ hợp có quan hệ chủ-vị, tổ hợp có quan hệ chính phụ, tổ hợp có quan hệ bình đẳng.

Về mặt thuật ngữ, có những cách hiểu khác nhau về các loại cụm từ vừa nêu:

Trong ngữ pháp nhà trường, cả ba kiểu tổ hợp từ đều được gọi là cụm từ (hay từ tổ) và phân biệt theo quan hệ ngữ pháp thành cụm từ chủ - vị, cụm từ

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

khác nhau: đoản ngữ Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7]; ngữ đoạn (Nguyễn Thiện Giáp (2000) [21]); Ủy ban Khoa học xã hội (1983) [59]; Cao Xuân Hạo (2003) [26], Vũ Đức Nghiệu (2010) [46], cụm từ (Panfilov (2008) [47]); Diệp Quang Ban (1991) [4], từ tổ (Nguyễn Văn Hiệp (2014) [30]; Diệp Quang Ban (2013) [6]), từ kết (Trương Văn Trình, Nguyễn Hiến Lê (1963) [53] ). Tương ứng với sự đa dạng về thuật ngữ thì quan niệm của các nhà nghiên cứu về “cụm từ/ đoản ngữ/ngữ/từ tổ/từ kết/nhóm từ” cũng khác nhau.

Cơng trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Ủy ban Khoa học xã hội (1983) [59] cho rằng “Ngữ là đơn vị ngữ pháp ở bậc trung gian giữa từ và câu. Xét về mặt nghĩa, ngữ là một cấu tạo có tác dụng làm cho nghĩa của chính tố được thực tại hóa. Xét về mặt ngữ pháp, ngữ là một cấu tạo theo quan hệ cú pháp chính phụ”. Như vậy, ngữ trong cơng trình này được hiểu là tổ hợp từ theo quan hệ chính – phụ.

Xét về quan hệ giữa các từ, Nguyễn Tài Cẩn (1996) [9] chia ra ba loại quan hệ khác nhau: đẳng lập, chính phụ và tường thuật. Trong đó, quan hệ đẳng lập giữa các từ tạo nên liên hợp từ với đặc trưng ít xác định về số lượng thành tố; quan hệ tường thuật tạo nên mệnh đề bao gồm hai thành tố chính và quan hệ chính phụ tạo nên cụm từ chính phụ với một thành tố chính. Như vậy, quan niệm về đoản ngữ của Nguyễn Tài Cẩn (1996) [9] cũng giới hạn ở tổ hợp các từ có mối quan hệ chính phụ với nhau.

Diệp Quang Ban (1991) [4], (2007) [5] và (2013) [6] cho rằng “Cụm từ là kết quả của sự mở rộng một từ để bổ sung ý nghĩa cho nó”. Theo cách hiểu này, tác giả dùng tên gọi cụm từ để dành riêng cho cụm từ chính phụ.

Pafilov (2008) [47] phân chia cụm từ tiếng Việt thành cụm từ tự do và cụm từ cố định, trong đó cần chú ý nhất đến cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ.

Theo tác giả Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Mạnh Tiến (2017) [44], cụm từ thực chất là sự mở rộng, phát triển của từ về mặt cú pháp theo chiều sâu trên

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

cơ sở thuộc tính kết hợp (kết trị) của từ trung tâm (hạt nhân). Mặc dù phức tạp hơn từ về cấu tạo nhưng cụm từ không khác từ về bản chất ý nghĩa và chức năng cú pháp. Về ý nghĩa, từ mang bản chất ý nghĩa nào thì cụm từ tương ứng do nó làm trung tâm cũng mang bản chất ý nghĩa đó. Về chức năng cú pháp, từ có khả năng giữ các chức năng cú pháp gì thì cụm từ do nó làm trung tâm cũng có khả năng giữ các chức năng cú pháp ấy. Cùng với từ, cụm từ là kiểu đơn vị có vai trị rất quan trọng đối với việc tổ chức câu – đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất mà có chức năng thơng báo.

Theo Diệp Quang Ban (2013) [6], “cụm từ” vẫn là một tên gọi tiện dụng theo cách hiểu vốn có của nó trong ngữ pháp Tiếng Việt gần đây. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ dùng cho những tổ hợp kiểu cụm từ chính phụ. Luận án lựa chọn thuật ngữ “cụm từ” cũng bởi tính phổ biến và tiện dụng của nó.

Trong tiếng Việt, khơng phải tất cả các từ loại đều có thể trở thành trung tâm của cụm từ chính phụ. Danh từ, động từ, tính từ có thể trở thành trung tâm của cụm từ và tạo thành cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ. Những từ loại như giới từ, liên từ, trạng từ, định từ khơng có khả năng làm trung tâm của cụm từ.

<i><b>1.2.2 Lý thuyết về cụm danh từ </b></i>

<i>1.2.2.1 Khái niệm về cụm danh từ </i>

Như trên đã trình bày, theo cách hiểu của luận án, cụm từ là những tổ hợp từ được cấu tạo theo quan hệ chính phụ. Theo Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán (2006) [10]: “ Căn cứ vào bản chất ngữ pháp của thành tố chính, có thể

<i>tách các cụm từ thành cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ... Như vậy, cụm </i>

<i>danh từ được hiểu là cụm từ chính phụ trong đó danh từ đóng vai trị là thành tố chính. </i>

<i>* Cụm danh từ trong tiếng Đức </i>

CDT trong tiếng Đức thường được mơ tả có cấu trúc rút gọn và cấu trúc

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

thể chỉ gồm một danh từ. Adamzik (2010) [102] cho rằng các thành tố tối thiểu của cụm danh từ trong tiếng Đức là quán từ và danh từ:

<i><b>(4) [Die Sängerin]-singt-[ein Lied]. ([Cô ca sĩ] - hát – [một bài hát]) </b></i>

Theo định nghĩa của Heringer (2001) [75, tr. 246]: “Các cụm danh từ trong tiếng Đức có thể gồm một danh từ hoặc một đại từ, đây là cấu trúc rút gọn nhưng cũng có thể có những cụm danh từ có cấu trúc lớn, gồm nhiều thành phần”.

Musan (2013) [85, tr. 31-32] đã miêu tả các cụm danh từ thường gồm

<i>một danh từ với một quán từ, cộng với các định ngữ như trong ví dụ: die </i>

<i>getigerte Katze meiner Freundin (con mèo lông vằn (từ lông vằn trong ví dụ là </i>

tính từ) của bạn tơi). Một cụm danh từ cũng có thể bao gồm một từ đơn nếu từ này đại diện cho một đơn vị chức năng cũng có thể được thực hiện bằng một cụm danh từ gồm nhiều từ:

<i><b>(5) Schildkröten sind faszinierend. (Những con rùa hấp dẫn.) </b></i>

<i><b>(6) Alte Schildkröten sind faszinierend. (Những con rùa già hấp dẫn.) (7) Diese Schildkröten sind faszinierend. (Những con rùa này hấp dẫn.) (8) Diese alten Schildkröten auf den Galapagos-Inseln, die wirklich riesig </b></i>

<i><b>werden, sind faszinierend. (Những con rùa già này trên những hòn đảo Galapagos, những con rùa mà rất to, hấp dẫn.) </b></i>

Heringer (2001) [75] đã định nghĩa cụm danh từ là cụm từ có một danh từ hoặc một đại từ là trung tâm. Xung quanh từ trung tâm có các thành phần mở rộng về phía bên phải và về phía bên trái.

<i>* Cụm danh từ trong tiếng Việt </i>

Khi nghiên cứu CDT trong tiếng Việt, chúng ta không thể không nhắc tới tác giả Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7], bởi ơng chính là người đầu tiên nghiên cứu và tạo nền móng lý thuyết trong lĩnh vực này. Những kết quả nghiên cứu giá trị của ông đã tạo ra một giai đoạn có thể được gọi tên là giai đoạn Nguyễn Tài Cẩn (1975) [7] với đặc trưng là mơ hình danh ngữ lý tưởng gồm 7 vị trí và

</div>

×