Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Kinh tế Fulbright - Cải cách nông thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh tế docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.83 KB, 36 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
3
CẢI CÁCH NÔNG THÔN, XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO, VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ
Trong chương này chúng tôi trình bày về quá trình phát triển của nông nghiệp
Việt Nam, mối liên quan giữa nông nghiệp với sự phát triển kinh tế nói chung, và vai
trò của nông nghiệp trong việc xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam. Chúng tôi sẽ đặc biệt
chú trọng đến vấn đề xây dựng các chính sách cần thiết để thúc đẩy nông nghiệp phát
triển với nhòp độ ngày càng cao ở mọi miền đất nước.
Chương viết này gồm 5 phần. Phần 1 giới thiệu ngắn gọn quá trình phát triển
của nông nghiệp Việt Nam trong mười năm qua về mặt sản xuất cũng như những thay
đổi thể chế. Phần 2 trình bày về sự cần thiết phải đầu tư nhiều vào các vùng nông thôn,
nhất là vào nông nghiệp, như một sách lược tối ưu để thúc đẩy nhòp độ tăng trưởng
chung của cả nền kinh tế. Phần 3 phân tích một số chính sách thường có liên quan chặt
chẽ tới nông nghiệp và là tối cần thiết để gia tăng sản lượng nông nghiệp. Đó là các
chính sách về đất đai, cơ sở hạ tầng nông thôn, công tác nghiên cứu và khuyến nông,
dòch vụ tài chính và hệ thống thuế ở nông thôn, công tác nghiên cứu và khuyến nông,
dòch vụ tài chính và hệ thống thuế ở nông thôn. Phần 4 bàn về những chính sách có khả
năng tác động mạnh đến nông nghiệp nhưng mối liên quan này chưa được các nhà làm
chính sách hiểu một cách thấu đáo. Đó là các chính sách về tỷ giá hối đoái, chính sách
y tế và giáo dục và chính sách thương mại. Trong phần cuối, chúng tôi sẽ phân tích tình
hình ở cấp đòa phương, và đề xuất một số giải pháp nhằm xóa đói giảm nghèo, đồng


thời đạt được tăng trưởng nhanh.
Quá trình tăng trưởng của nông nghiệp Việt Nam: 1976 - 1993
Bối cảnh
Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1976, Việt Nam đã tiến hành hợp tác
hóa nông nghiệp trong cả nước. Một phần do vậy và một phần vì những lý do sẽ được
bàn đến trong những phần tiếp theo, nông nghiệp Việt Nam đã gần như không tăng
trưởng từ 1976 đến 1980. Vì sự đình trệ này mà Nhà nước đã có những thay đổi về
chính sách, và nông nghiệp lại cất cánh từ 1980 đến 1984. Tuy nhiên, những thành quả
đạt được ở giai đoạn này đã yếu dần đi và nông nghiệp lại một lần nữa bò đình trệ. Sau
đó, một đợt cải cách mới lại làm nhòp độ phát triển tăng lên, nhưng từ năm 1987, sự
tăng trưởng tập trung chủ yếu ở miền Nam (xem Bảng 1). Ngoài thời tiết và tác dụng
tương đối của đầu tư Nhà nước, nguyên nhân làm cho nhòp độ tăng trưởng lúc cao lúc
thấp là do những thay đổi trong chính sách ruộng đất cùng với những thay đổi về giá cả
thực tế trả cho nông dân cũng như các mức mà nông dân phải trả.
Từ 1976 đến 1980, trong khi dân số tăng lên với mức trên 2%/năm, sản lượng
nông nghiệp tăng trưởng chậm, làm cho dân chúng thất vọng và nền kinh tế bò trì trệ.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
4
Hiện tượng sút kém trong sản xuất lương thực thực phẩm và các nông sản khác bình
quân trên đầu người cùng với mức nhập khẩu lương thực cao trong năm 1980 đã dẫn
đến nhiều cuộc tranh luận. Tới nay, có thể nêu các nguyên nhân sau đây:

- Chính sách thiên về công nghiệp nặng: Hầu hết nguồn đầu tư của Nhà
nước được dành cho công nghiệp nặng nên không còn bao nhiêu để dành
cho nông thôn. Các dự án sử dụng vốn ít ỏi này cũng không phát huy được
các lợi thế so sánh của Việt Nam; do vậy, hầu hết các dự án đều đòi hỏi rất
nhiều vốn, là một tài nguyên hiếm tại Việt Nam, trong khi lại không tận
dụng lao động, là một tài nguyên dư thừa.
- Sự phân bổ và sử dụng tài nguyên lệch lạc: Cơ chế kế hoạch hóa trước đây
dựa trên hệ thống giá cả vô cùng méo mó nên không thể hiện được tính
khan hiếm thực của tài nguyên. Giá cả trong nông nghiệp bò duy trì ở mức
thấp một cách giả tạo do các quy đònh và chính sách trợ cấp cho người tiêu
thụ và do một tỷ giá hối đoái quá cao giá. Ví dụ, cho đến năm 1980, Nhà
nước vẫn giữ giá bán lẻ gạo ở mức 0,4 đồng/kg trong khi giá ngoài thò
trường tự do là 4,50 đồng/kg. Cũng vào năm ấy, Nhà nước đã mua 13,5%
lương thực, 41% thòt, và một số lượng lớn các loại nông sản khác với giá
thấp do Nhà nước quy đònh. Năm 1980, xuất khẩu về chè, cà phê, lạc và
hoa quả chưa được 50.000 tấn, trong khi nhập khẩu ngũ cốc gần 2 triệu tấn
và nhập khẩu phân hóa học là 412.000 tấn. Xu hướng này một phần là do
tỷ giá hối đoái bò nâng giá quá cao và cứ bò duy trì ở mức 5,644 đồng = 1
Rúp từ năm 1958, trong khi vật giá đã tăng lên gấp khoảng mười lần.
- Quản lý không hữu hiệu: Hầu hết nông nghiệp ở miền Bắc và một phần
nông nghiệp miền Nam đã được hợp tác hóa. Ban quản lý các hợp tác xã
và nông trường quốc doanh thường nặng nề và kém hiệu quả. Việc phân
bổ và sử dụng tài nguyên không đúng là hiện tượng phổ biến ở các hợp tác
xã. Do vậy, nông dân không có động cơ để canh tác đất của hợp tác xã
hoặc để áp dụng kỹ thuật tiến bộ. Ngược lại, họ chỉ quan tâm đến những lô
đất nhỏ riêng của mình (đất 5%) vì họ được bán phần thu hoạch từ đó theo
giá thò trường. Hơn một nửa thu nhập của nông dân là từ đất 5% và chăn
nuôi. Các hợp tác xã quản lý hơn 90% đất đai và được cung cấp nguồn
nguyên vật liệu rẻ, nhưng chỉ có thể mang lại cho nông dân khoảng một
phần ba tổng thu nhập của họ.

- Cơ sở hạ tầng kém phát triển: Phần nhiều các cơ sở hạ tầng đã bò phá hủy
trong chiến tranh. Mặc dù được xây dựng lại từng bước, cơ sở hạ tầng vẫn
không được bảo quản đúng mức do phải nhượng bộ trước các ưu tiên khác
và do quản lý kém. Tình trạng thiếu đường tốt để tiếp cận dễ dàng với thò
trường, thiếu công trình thủy lợi để tưới tiêu nước cũng như thiếu phương
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
5
tiện phơi sấy và bảo quản gây nên nhiều khó khăn cho phát triển sản xuất
nông nghiệp.
Bảng 7.1
Tốc độ tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp
(
tính theo giá cố đònh năm 1982)
Thời gian Mức tăng trưởng hàng năm
1976 - 1980 2,0 %
1980 - 1984 6,0 %
1984 - 1988 2,9 %
1988 - 1992 5,0 %
(riêng ngũ cốc):
Đồng bằng sông Cửu Long 8,7 %
Các vùng còn lại 2,0 %


Tư liệu : Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê (nhiều năm) và tính toán của
tác giả (chỉ số năm 1992 bằng chỉ số trung bình của các năm 1991-1993 so với chỉ số
năm 1988).

Đợt cải cách thứ nhất
Tháng giêng năm 1981, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
đã ban hành Chỉ thò 100 về cơ chế "khoán sản phẩm" trong nông nghiệp. Đất đai của
các hợp tác xã đã được phân phối cho các hộ nông dân để sử dụng ngắn hạn. Hợp tác
xã vẫn phụ trách các khâu làm đất, quản lý nước, phòng trừ sâu bệnh, và cung cấp hạt
giống cũng như phân hóa học. Các hộ nông dân có nhiệm vụ gieo trồng, làm cỏ, thu
hoạch và bón phân hữu cơ. "Năng suất khoán" cho mỗi lô đất do hội nghò nông dân xác
đònh trên cơ sở năng suất trung bình 4-5 năm trước đó. Nông dân được hưởng từ 30 đến
40% của năng suất này để trả cho số ngày công và lượng phân hữu cơ mà họ đã đóng
góp. Họ được giữ lại toàn bộ sản lượng vượt mức khoán và có quyền bán ở thò trường tự
do.
Đợt cải cách này đã có tác động tích cực trong nông nghiệp. Sản lượng thóc
tăng gần hai triệu tấn từ 1981 đến 1982, mặc dù sản lượng của năm 1981 cũng đã cao.
Đây là mức tăng trưởng cao gấp bốn hay năm lần so với mức tăng trưởng thông thường
hàng năm trước đó. Tuy nhiên, bước cải cách này mới chỉ giải quyết được một vấn đề -
tạo điều kiện cho nông dân được canh tác cho chính mình trong một vài vụ. Mặc dù
Nhà nước đã nâng mức giá thu mua nông sản cho nông dân, giá ngoài thò trường tự do
vẫn cao hơn khoảng gấp đôi. Nông dân đã đầu tư không nhiều vào lô đất của mình vì
đất đai thường xuyên bò xáo trộn. Trên nguyên tắc, các kế hoạch đều đề ra là phải
dành ưu tiên cho nông nghiệp nhưng trên thực tiễn, không thể tăng hơn nguồn đầu tư
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn

g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
6
cho nông nghiệp do ngân sách thâm hụt và phải chi nhiều cho các dự án công nghiệp
cũng như một số dự án cơ sở hạ tầng. Mức đầu tư cố đònh của Nhà nước vào nông
nghiệp trong thời gian 1981-1985 chỉ bằng 42% của mức đầu tư từ 1976 đến 1980. Còn
tỷ lệ cung cấp vật tư nông nghiệp thì chỉ bằng 58%. Mặc dù vậy, sản lượng thóc vẫn
tăng 27% (so hai khoảng thời gian nói trên0, lợn tăng 22% và đại gia súc tăng 33%.
GDP nông nghiệp nói chúng tăng 6%/năm, so với 1-2% trong thời kỳ trước đấy.
Tuy vậy, tác dụng của các bước cải cách này bắt đầu giảm do mức lạm phát
lên cao trong khi giá cả của Nhà nước không được điều chỉnh kòp thời. Nông dân phải
mua nhiều vật tư với giá thò trường trong khi mức khoán lại tăng. Do lượng thóc được
bán với giá thò trường giảm đi vì lượng phải bán với giá cố đònh tăng lên, nông dân phải
đương đầu với tình trạng giá bán giảm trong khi chi phí sản xuất lại lên. Ở nhiều vùng,
việc quản lý kém và thậm chí cả nạn tham nhũng trong nội bộ hợp tác xã đã khiến cho
phần thu nhập của nông dân trong sản lượng khoán tụt xuống chỉ còn 20% hay thậm
chí có nơi còn ít hơn. Do mức khoán quá cao, ở một số nơi nông dân không muốn canh
tác và trả đất lại cho hợp tác xã. Năm 1987, do thời tiết xấu cũng như cơ chế khuyến
khích nông nghiệp không hữu hiệu, Việt Nam mất mùa nghiêm trọng. Sản lượng giảm
gần 1 triệu tấn so với năm 1986. Sự thiếu hụt lương thực đã gây nên những khó khăn
lớn cho một số vùng.
Đợt cải cách thứ nhì
Đợt cải cách thứ nhì được khởi xướng để đối phó với tình hình này. Nghò quyết
10 được công bố ngày 5 tháng Tư năm 1988, theo đó, các hộ nông dân được sử dụng
đất trồng cây hàng năm từ 10 đến 15 năm và lâu hơn nữa đối với đất trồng cây lâu
năm. Họ chỉ có trách nhiệm đóng thuế và trả chi phí các dòch vụ do hợp tác xã cung
cấp. Họ được phép trồng bất cứ các loại cây trồng nào họ muốn và được bán tự do.

Trên nguyên tắc, các hợp tác xã trở thành các đơn vò dòch vụ.
Cải cách giá cả đã được tiến hàng năm 1985, nhưng tới năm 1988, Nhà nước
đã phải có những chính sách bổ sung. Cơ chế lưỡng giá năm 1985 được chuyển thành
cơ chế một giá. Giá một kílô urê giảm từ 3 kg thóc xuống còn 2,5 kg. Tuy nhiên, chính
sách một giá chỉ trở nên có tác dụng thực sự khi giá cả được điều chỉnh một cách đònh
kỳ và tỷ giá hối đoái được cải cách đáng kể. Cuối cùng thì toàn bộ giá cả vật tư nông
nghiệp và sản phẩm đều được thò trường quyết đònh. Những bước cải cách nói trên
được thực hiện cùng một lúc và nhờ vậy có tác dụng tức thời và rất tích cực. Tuy nhiên,
đến năm 1993, trong tình hình giá gạo trên thò trường quốc tế giảm sút và tỷ giá hối
đoái chính thức bò nâng một cách giả tạo, nông nghiệp lại gặp khó khăn. Giá thóc thực
tế vào năm 1993 chỉ bằng khoảng một nửa giá thóc cuối năm 1991
i
. Thuế nông nghiệp
được giảm xuống 30% tức là chỉ còn 75 của trò giá sản lượng, nhưng điều này không
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
7
cứu vãn được tình hình và từ sau năm a991, sản lượng nông nghiệp tại đồng bằng sông
Cửu Long cũng như trên cả nước tăng chậm hơn.
Vấn đề thể chế và pháp lý
Ngoài giá cả và chính sách đất đai, một số cơ chế khác cũng đã được cải cách
phần nào nhưng cần được quan tâm tới nhiều hơn. Vấn đề trung tâm ở đây là: bộ máy

hành chính, ngành dòch vụ và các đơn vò sản xuất hiện nay phải có vai trò như thế nào
trong cơ chế mới? Đa số các tổ chức này đều đã được thành lập và có cơ sở pháp lý dựa
trên cơ chế kế hoạch tập trung ngày trước, là một cơ chế được mọi người thừa nhận là
quan liêu, mang tính chất độc quyền và không được phần nào cải tiến nhưng vẫn còn
nhiều vấn đề tồn đọng và Việt Nam cần phải tiếp tục tích cực thay đổi.
Bộ máy hành chính bao gồm Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm và
các Sở hay Phòng Nông nghiệp thuộc Ủy ban Nhân dân các đòa phương. Bộ máy này
trước đây đề ra kế hoạch phát triển nông nghiệp, phân bổ vốn đầu tư cũng như vật tư
và sản lượng nông nghiệp. Họ cũng tổ chức nghiên cứu và phổ biến kỹ thuật mới cho
nông dân thông qua các hợp tác xã. Chính Bộ có trách nhiệm hoạch đònh các chính
sách nông nghiệp. Sau đợt cải cách năm 1988, cơ chế kế hoạch không còn nữa nhưng
Bộ Nông nghiệp và các Sở Nông nghiệp cũng như y ban Nhân dân các huyện vẫn
tiếp tục phụ trách việc phân bổ vốn đầu tư cho nông nghiệp. Họ quản lý việc phân phối
vt và thu mua nông sản để xuất khẩu thông qua một hệ thống các xí nghiệp cung ứng vt
và xuất nhập khẩu. Họ cũng quản lý trực tiếp một số nông trường quốc doanh và xí
nghiệp sản xuất khác. Họ cũng quản lý trực tiếp một số nông trường quốc doanh ngày
nay có quyền tự chủ nhiều hơn, giám đốc các nông trường quốc doanh vẫn do Bộ hoặc
các Sở nông nghiệp bổ nhiệm, do vậy bộ và Sở vẫn chi phối hoạt động của các đơn vò
này. Như vậy, bộ và các Sở hoạt động với một số chức năng gần như của những công ty
lớn. Họ vừa có sự mâu thuẫn giữa hai vai trò mà họ đảm nhiệm, vai trò hoạch đònh
chính sách và vai trò hưởng lợi do xí nghiệp làm ra. Cần phải cải cách bộ máy này để
Nhà nước chỉ giữ vai trò hoạch đònh chính sách và tạo điều kiện hoạt động bình đẳng
cho mọi thành phần kinh tế. Cũng trong tinh thần này, nên để các xí nghiệp quốc
doanh được tự chủ hơn.
Hiện nay có 651 xí nghiệp quốc doanh, gồm các dơn vò thương nghiệp, dòch vụ
và các nông trường quốc doanh. Hầu hết các đơn vò thương nghiệp đều giữ độc quyền
và cần phải được cải cách. Cho đến nay một số lớn các đơn vò này vẫn hoạt động
không hữu hiệu và lợi dụng đòa vò độc quyền của mình để nắm quyền kiểm soát thò
trường. Đôi khi chúng đóng vai trò trung gian không cần thiết, khiến giá thu mua hàng
nông sản giảm sút còn chi phí lưu thông lên cao. Cần phải để cho thương nghiệp tư

nhân phát triển hơn nữa trước khi bắt đầu tư nhân hóa các đơn vò thương nghiệp này, vì
chỉ như vậy thì các đơn vò quốc doanh mới cảm thấy phải cạnh tranh và hoạt động có
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
8
hiệu quả. Nếu không còn chòu sự giám sát, dù là hạn chế, của Nhà nước như hiện nay
mà vẫn tiếp tục được độc quyền, thì chúng có thể làm cho chi phí lưu thông tăng cao
hơn nữa.
Các nông trường quốc doanh chủ yếu trồng các loại cây công nghiệp như cao
su, cà phê, chè và hoa quả. Cũng có một số trồng lúa và chăn nuôi. Mặc dù đã nhiều
năm nay, các nông trường được hưởng khoảng 10% của ngân sách cho nông nghiệp,
nhưng chúng chỉ làm ra 2-3% sản lượng nông nghiệp. Do hoạt động canh tác và chăn
nuôi tập trung đã không có hiệu quả hầu hết các nông trường đã cho các hộ nông dân
thuê đất rồi cung cấp vật tư nông nghiệp cùng các loại dòch vụ, và về sau thu mua và
chế biến sản phẩm của họ. Các nông trường cây lâu năm cũng đã khoán vườn cây cho
công nhân. Nên nghiên cứu thực hiện một hình thức cải cách hợp lý, như trao cho các
hộ nông dân quyền sử dụng đất và cho phép họ làm ăn với bất cứ công ty nào cung cấp
vật tư hay thu mua sản phẩm có lợi cho họ nhất, trước hết là đối với các nông trường
trồng cây hàng năm. Ngoài ra, cũng nên cho phép tư nhân tham gia kinh doanh và
cạnh tranh ngay cả trong những ngành có yêu cầu kỹ thuật cao như sản xuất cao su.
Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất (55.000 đơn vò vào năm 1989) trước đây đã
thu hút 98% nông dân ở miền Bắc và 70% ở miền Nam, gần đây đã thay đổi rất nhiều

về chức năng. Trước đây, chúng hoạt động gần như những nông trại lớn trong đó nông
dân như người làm thuê. Phương thức hoạt động này đã được chấm dứt do không
khuyến khích nông dân làm việc với hiệu quả cao. Năm 1981, Nhà nước quyết đònh
cho nông dân nhiều quyền tự chủ hơn và giảm bớt quyền hạn của hợp tác xã. Chính
sách này được củng cố vào năm 1988. Sau đó, ở miền Nam gần như không còn hợp tác
xã. Ở miền Trung và miền Bắc, hợp tác xã không còn quản lý hoạt động nông nghiệp
với quy mô như trước, tuy ở nhiều nơi họ vẫn còn làm dòch vụ như làm đất, cung cấp
vật tư, thu mua sản phẩm, làm công tác khuyến nông và bảo vệ thực vật, và thu một
khoản phí nhỏ cho các hoạt động này.
Hai chức năng hành chính và kinh tế của hợp tác xã không phải là những loại
chức năng có thể kết hợp được một cách dễ dàng, và do vậy nên được phân chia rõ
ràng. Sự can thiệp của Nhà nước là cần thiết khi phải tài trợ cho các dòch vụ thú y hay
bảo vệ thực vật, nhưng trong điều kiện như hiện nay, kết hợp chức năng kinh tế với
chức năng hành chính sẽ tạo cho hợp tác xã một lợi thế không công bằng và thậm chí
có cả tính chất ép buộc so với các xí nghiệp khác. Mặt khác, ở những nơi nông dân vẫn
còn dựa vào hợp tác xã để được cung cấp dòch vụ, hợp tác xã nên tiếp tục chức năng
này nhưng không nên với tư cách một đơn vò độc quyền hay có lợi thế không công
bằng. Một khi khung pháp lý đã được củng cố và Luật Đất đai mới được áp dụng, nông
dân sẽ cảm thấy an tâm hơn về quyền sử dụng đất của mình. Trong điều kiện mới, nếu
các xí nghiệp tư nhân được phép cạnh tranh với các hợp tác xã hiện nay thì đó sẽ là
những bước cải cách mang đến cho nông dân sự tự do hoạt động mà họ cần có để giành
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á


David O. Dapice and Cao Duc Phat
9
lấy những cơ hội kinh tế tốt. Mặt khác, cũng nên để các hình thức hợp tác thực sự tự
nguyện và có ích do các hộ nông dân tự thành lập được tự do hình thành.
Việt Nam còn phải làm rất nhiều, mặc dù cho đến nay đã đạt được những kết
quả không nhỏ. Khu vực nông nghiệp đã có những tiến bộ vượt bực. Từ năm 1980 đến
năm 1993, sản lượng lúa gạo tăng 88% trong khi dân số tăng 33%; quan hệ mậu dòch
với quốc tế được mở rộng dần; giá cả quốc tế đã có tác dụng đònh hướng cho các
phương án trồng trọt; và nông dân ngày càng an tâm hơn về quyền sử dụng đất của
mình. Các yếu tố này đã dẫn đến việc tăng cường đầu tư dài hạn vào đất cũng như
nâng cao năng suất cây trồng. Mặc dù giá cả trên thò trường quốc tế có chiều hướng
không thuận lợi, kim ngạch xuất khẩu nông sản vẫn tăng nhanh. Nói chung, GDP về
nông nghiệp đã tăng với mức 4,5%/năm trong suốt tám năm qua. Thử thách lớn đối với
Việt Nam là làm sao duy trì nhòp độ tăng trưởng như vậy, đồng thời làm cho nó lan
rộng ra tất cả mọi vùng của đất nước.
Tập trung phát triển nông thôn có phải là phương thức để tăng trưởng nhanh
không?
Việt Nam đã đề ra cho mình mục tiêu tăng GDP khá cao 8%/năm. Thông
thường, sản lượng nông nghiệp của một nước không thể tăng hơn 3% đến 5%/năm trừ
khi có những vùng đất mới được đưa vào canh tác, mà Việt Nam thì còn rất ít đất để
khai hoang; ngoài ra, việc tăng sản lượng còn phụ thuộc vấn đề đầu tư cao. (Sản lượng
cũng có thể tăng nhanh khi chuyển từ cơ chế hợp tác xã sang tư nhân, nhưng Việt Nam
không thể trông đợi điều này nữa vì đã khai thác tác dụng này trong các đợt cải cách
trước đây.) Việt Nam nhận thức được rằng tài nguyên đất của mình không nhiều, với
diện tích bình quân trên đầu người ít hơn 1/10 ha. Diện tích rừng đã thu hẹp chỉ còn
khoảng một phần năm của tổng diện tích rừng trước đây, và ngày nay vẫn tiếp tục
giảm, một phần do sức ép của dân số tăng nhanh và tập tục du canh trên đất dốc. Hiện
nay, có lập luận cho rằng Việt Nam phải "nhảy" thẳng vào thời kỳ công nghiệp hóa vì
như vậy mới tránh được những hạn chế vì tài nguyên đất hiếm hoi và tận dụng được
nguồn lao động có chất lượng tương đối cao. Khi đó, Việt Nam sẽ tăng trưởng nhanh,

có thể bằng cách chỉ cần tập trung vào một vài vùng "tam giác phát triển". Cũng theo
lập luận này, tại sao ta lại không dồn sức lực và tài nguyên vào các vùng đô thò có triển
vọng nhất, và cứ để cho nông thôn đợi đấy đến khi các khu vực thực sự năng động sẽ
tạo công ăn việc làm cho số dân nghèo nông thôn?
Ta nên nhớ một vài điều thực tế. Gần 75% tổng số lao động Việt Nam làm
việc trong khu vực nông nghiệp và lâm nghiệp, và khoảng 80% dân cư sinh sống tại
nông thôn. Ngay khi số công ăn việc làm tại thành phố tăng với mức 5%/năm (như tại
Nam Triều Tiên, Indonesia và Malaysia trong những thập niên qua), sẽ phải mất hàng
chục năm để mực tăng trưởng dân số nông thôn ngưng lại, chứ chưa nói đến giảm bớt.
Thực tế là, ít nhất trong mười hay hai mươi năm sắp tới, dân nghèo nông thôn khó có
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
10
thể mong đợi một sự giúp đỡ nào đó từ các thành phố. Tất nhiên, nếu nền kinh tế đô thò
tăng trưởng rất nhanh trong khi khu vực nông thôn không tăng, dân quê sẽ đổ xô về
thành phố để tìm cuộc sống ấm no hơn. Đây là thực tế xảy ra hàng ngày tại châu Mỹ
La Tinh và châu Phi, với những khu nhà ổ chuột đau lòng tại thành phố và những vùng
nông thôn cằn cỗi hoang vắng. Đây không phải là mô hình phát triển cho Việt Nam.
Ngoài lý do đơn giản là dân số nông thôn quá lớn để thành phố có thể thu
nhận được kòp thời, còn rất nhiều lý do khác để chứng minh tính hợp lý của việc phát
triển nông thôn. Không có một nước châu Á phát triển nào, ngoại trừ các thành phố -
quốc gia, đã có thể tăng trưởng nhanh mà không xây dựng trước một nền móng phát

triển vững vàng tại nông thôn. Trung Quốc, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Thái Lan,
Malaysia và Indonesia đều đã đầu tư rất nhiều vào nông nghiệp và đạt được những
mức tăng trưởng nhanh cả trong nông nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chiến lược
khôn ngoan này dựa trên sự tận dụng các vùng nông thôn để gây dựng nền móng cho
công cuộc công nghiệp hóa, và trái hẳn với chiến lược của một số đông các nước khác
đã chọn con đường "nhảy" thẳng vào công nghiệp hóa. Không bao lâu sau, các nước
này thấy rõ rằng, do không có cơ sở nông thôn vững vàng nên họ đã vấp ngã. Khi đó,
không những tăng trưởng kinh tế nói chung bò ảnh hưởng mà mức nghèo đói còn cao
hơn ở các nước châu Á đang tăng trưởng nhanh. Thật trớ trêu cho các nước đã thất bại,
những nước đã quan tâm đúng mức đến khu vực nông thôn đã thành công không chỉ
trong việc xóa đói giảm nghèo, mà ngay cả các ngành phi nông nghiệp cũng đã tăng
trưởng nhanh hơn so với các nước chỉ tập trung vào công nghiệp.
Cách lập luận như trên - về một nền nông nghiệp vững mạnh và năng động
như con đường tối ưu dẫn đến tăng trưởng kinh tế nhanh và công bằng - đã được các tác
giả Johnston và Mellor đề xướng từ năm 1961. Theo các tác giả này, nông nghiệp đóng
góp vào việc phát triển nền kinh tế đất nước như sau:
1. Cung cấp lương thực thực phẩm cũng như nguyên liệu để sử dụng trong
nước.
2. Là nguồn thu ngoại tệ.
3. Cung cấp thò trường ngày càng lớn cho công nghiệp.
4. Tạo nên tích lũy trong nước.
5. Cung cấp công ăn việc làm cho các ngành phi nông nghiệp ngày càng phát
triển.
Ngoài năm hình thức đóng góp trên, tác giả Timmer
ii
còn nhấn mạnh vai trò
ngày càng lớn của nông nghiệp trong việc đảm bảo an toàn về lương thực, nâng cao
hiệu quả của việc sử dụng các nguồn tài nguyên và xóa đói giảm nghèo. Giáo sư
Timmer cũng đã lập luận rằng các chính phủ thường "học qua thực hành" và chính nhờ
kinh nghiệm điều phối các chính sách phát triển nông thôn mà ngày càng trở nên điêu

luyện hơn trong việc đề ra chính sách. Theo ông, tất cả các yếu tố trên đều góp phần
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
11
thúc đẩy tăng trưởng nói chung. Trong một số công trình nghiên cứu gần đây, giáo sư
Timmer có gợi ý rằng, nói chung, trong các nền kinh tế đang phát triển, mỗi một phần
trăm tăng trưởng trong nông nghiệp thường đi đôi với mức tăng trưởng gần như tương
tự trong các ngành phi nông nghiệp.
Hầu hết các lập luận thiên về nông nghiệp như trên đều đặc biệt có liên quan
đến Việt Nam. Nếu đảm bảo cho giá cả nông sản được hợp lý và cung cấp cơ sở hạ
tầng đúng mức, "Cách mạng Xanh" - tức là sự kết hợp việc các giống cây trồng được
cải tiến với phân bón và thủy lợi - sẽ dể được thực hiện hơn. Năng suất nông nghiệp có
thể tăng với nhòp độ không kém nhiều khu vực khác, và tác dụng của nó lại rộng khắp
hơn. Khi nông dân ngày càng mua hàng tiêu dùng nội đòa nhiều hơn cũng như có nhu
cầu lớn hơn về hàng hóa và dòch vụ để hỗ trợ cho sản xuất ngày càng tăng, sản xuất
của các ngành phi nông nghiệp tại thành phố cũng như nông thôn cũng sẽ phát triển
theo. Sự tăng trưởng của các ngành sản xuất phi nông nghiệp tại nông thôn sẽ tạo công
ăn việc làm cho dân chúng ở đòa phương, và nhờ vậy, không cần phải hạn chế việc di
cư mà tốc độ di dân vào thành phố cũng sẽ giảm một cách tự nhiên, thành phố sẽ đỡ bò
chen chúc và đỡ phải đầu tư tốn kém vào các cơ sở hạ tầng. Sản lượng nông nghiệp
ngày càng tăng sẽ đảm bảo cho việc cung cấp lương thực thực phẩm được ổn đònh, góp
phần tăng cường xuất khẩu đồng thời hỗ trợ sự phát triển của công nghiệp chế biến

nông sản. Như vậy, tăng trưởng trong nông nghiệp sẽ đưa đến tăng trưởng chung của
nông thôn, tạo ra quan hệ mật thiết hơn giữa nông thôn và thành phố và hỗ trợ việc ổn
đònh xã hội do các cơ hội làm ăn được rải ra một cách đồng đều và nguồn cung cấp
lương thực thực phẩm được đảm bảo. Đó là những lợi ích rất lớn.
Chiến lược tăng trưởng nông thôn theo hướng thò trường này khác hẳn với
chiến lược được áp dụng tại Liên Xô cũng như ở Việt Nam vào những năm ngay sau
khi thống nhất. Mô hình kế hoạch tập trưng cũ cho rằng chính quyền trung ương sẽ đạt
được hiệu quả cao hơn trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng nếu dựa vào kế hoạch chứ
không phải vào giá cả. Thực tế đã chứng minh ngược lại: khi nền kinh tế được cởi mở
hơn từ 1987, sản lượng lương thực thực phẩm đã tăng gần 1 triệu tấn/năm, tức là hơn cả
gấp đôi mức tăng trưởng trong mười năm trước đó. Điều đáng nói hơn nữa, từ năm
1987 trở đi, mức tăng trưởng GDP thực tế đạt khoảng 7%/năm, trong khi từ 1976 đến
1986, mức tăng trưởng GNP chỉ có 4%/năm. Thêm vào đó, phải nói rằng nông nghiệp
cũng như nền kinh tế nói chung đã có được sự tăng trưởng trong khi viện trợ nước ngoài
rất ít, đồng thời Nhà nước đã khống chế được lạm phát, là một việc trước đó tưởng
chừng như không thể làm nỗi.
Có một mối liên quan trực tiếp giữa việc thay đổi chính sách kinh tế và sự gia
tăng của tính hiệu quả và tăng trưởng. Chính sách tự do hóa đã cho các hộ nông dân
nhiều quyền tự chủ hơn. Các hộ nông dân biết sử dụng tài nguyên thế nào cho có hiệu
quả cao, vì họ bắt buộc phải như thế. Nếu không sáng suốt, họ sẽ phải đương đầu với
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat

12
những thực tế khắc nghiệt như nạn đói hay những thảm họa khác. Nông dân là những
người am hiểu hơn ai hết những sự khác biệt tinh tế về đất đai trong từng mảnh ruộng,
thời tiết, hệ thống thủy lợi và các giống cây trồng, v.v… Họ biết về giá trò của việc sử
dụng phân bón hay thuốc trừ sâu cũng như về thời điểm sử dụng thích hợp. Họ cũng
thường tỏ ra hữu hiệu hơn các tập thể trong việc phân bổ tài nguyên. Nếu được tiếp cận
với những nguồn tài nguyên lớn hơn thì các nông hộ cũng thường tỏ ra rất khôn ngoan
trong việc sử dụng. Hơn nữa, qua cách họ sử dụng tài nguyên, ví dụ như sử dụng lao
động bản thân với cường độ cao nhưng sử dụng đất và vốn thì rất tiết kiệm, có thể hiểu
được thực trạng của các nguồn tài nguyên này hiện nay. Trong khi cố gắng tăng thu
nhập tối đa cho gia đình mình, họ cũng góp phần làm tăng năng suất của số lao động
bán thất nghiệp và cố thu lợi ích tối đa từ mỗi tất đất và mỗi đồng vốn mà họ được sử
dụng. Nhờ vậy mà sản lượng tăng nhanh, điều mà những đơn vò có tính chất tập thể
không thể làm được.
Không những tính hiệu quả của việc sử dụng tài nguyên được nâng cao, mà
mức đầu tư tư nhân cũng có chiều hướng tăng lên. Trong điều kiện lạm phát và cơ hội
đầu tư cho tư nhân không nhiều, nhất là tại nông thôn, nhiều nông dân sẽ tích trữ nhiều
loại tài sản "không sinh lợi" như vàng, nhà cửa hay lương thực thực phẩm ở mức cao
hơn mức thông thường. Tài sản dự trữ này giúp họ có được một sự đảm bảo nhất đònh
đề phòng khi thời tiết xấu hay ốm đau, nhưng không giúp ích gì cho sản xuất. Khi môi
trường kinh tế vó mô trở nên ổn đònh hơn và ngày càng có nhiều cơ hội đầu tư cho tư
nhân, phần lớn của cải "không sinh lợi" này sẽ được biến thành những khoản đầu tư.
Khi đó, chúng sẽ được sử dụng để đầu tư vào các tài sản cố đònh trong các nông hộ
hoặc sẽ biến thành vốn (dù có hay không có ngân hàng) cho người khác vay. Đây cũng
là một lý do tại sao một nền kinh tế theo hướng thò trường được quản lý tốt thường có
mức tăng trưởng cao hơn.
Tuy nhiên, không phải chỉ có tự do hóa môi trường kinh tế không thôi mà có
thể làm được tất cả. Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy rằng, để duy trì mức tăng
trưởng cao ban đầu trong sản xuất nông nghiệp, cần phải tăng cường đầu tư và điều
chỉnh các chính sách nhằm tạo nên động lực cũng như các phương tiện hỗ trợ nông dân

tăng nhanh sản xuất. Ngoài ra, triển vọng phát triển nông nghiệp của Việt Nam rất
khác nhau tùy theo vùng. Nếu so 1991-93 với năm 1988, mặc dù các chính sách sau
này có cởi mở hơn nhưng chỉ đồng bằng sông Cửu Long là phát huy được và sản xuất
lúa gạo đã tăng nhanh (40%), còn ở các vùng khác sản xuất lúa gạo chỉ tăng 8% trong
khi dân số đã tăng 9%. Khoảng cách này do nhiều nguyên nhân và cần phải được tìm
hiểu một cách thấu đáo, để các chính sách được đề ra thực sự hỗ trợ cho việc tăng
trưởng chứ không phải nhằm lập lại sự "quân bình" bằng cách tăng ngân sách cho
những dự án có hiệu quả kinh tế thấp. Một đất nước còn nghèo như Việt Nam không
nên thể hiện sự quan tâm về người nghèo bằng cách lãng phí nguồn tài nguyên hiếm
hoi của mình. Tuy nhiên, vẫn phải co một số chi tiêu để giữ cân đối giữa nhu cầu xóa
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
13
đói giảm nghèo trước mắt và sự cần thiết phải hỗ trợ cho một sự tăng trưởng lâu dài
hơn.
Thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp: các chính sách ngành
Để sản xuất nông nghiệp trong cả nước có thể tăng trưởng một cách ổn đònh,
cần phải thực thi một số chính sách mà chúng tôi sẽ mô tả sau đây. Những chính sách
này thường có liên quan tới khu vực nông nghiệp và có tính chất quyết đònh đối với sự
thành công của nỗ lực phát triển nông thôn.
Chính sách ruộng đất và quyền sở hữu
Bối cảnh lòch sử

Việt Nam đã nhiều lần tiến hành cải cách ruộng đất trong vòng bốn mươi năm
qua. Từ 1949 đến 1953, 1,5 triệu ha đất được phân chia cho 2,4 triệu nông hộ tại miền
Bắc. Từ 1953 đến 1955, thêm 895.000 ha được phân chia cho nông dân. Nhờ vậy mà
họ tăng nhanh sản xuất, và sản lượng lương thực năm 1957 đạt được 3,95 triệu tấn, cao
hơn cả sản lượng cao nhất tại miền Bắc trước Đại chiến thế giới lần thứ Hai là 2,4 triệu
tấn. Những con số này tương đương với tỷ lệ tăng trưởng 2,8%/năm.
Trước năm 1975, một số biện pháp nhằm cải cách ruộng đất cũng được áp
dụng tại miền Nam. Tại những vùng do lực lượng Cách mạng kiểm soát, 750.000 ha
được phân phối lại cho nhân dân. Trong khi đó, chính quyền Sài Gòn cũng tiến hành
hai cuộc phân chia đất đai ở qui mô lớn. Trong cuộc phân chia thứ nhất từ năm 1955
đến 1960, họ đã trưng thu 650.000 ha của các đòa chủ và bán lại cho tá điền. Đây là
một phần ba tổng diện tích đất canh tác tại miền Nam lúc ấy. Tuy vậy, mỗi một nông
hộ vẫn có quyền giữ lại tới 115 ha. Sau năm 1970, cuộc cải cách thứ nhì mang tên
"Người Cày Có Ruộng" được xúc tiến. Sau năm 1975, trong những cuộc phân phối lại
ruộng đất kế tiếp, Nhà nước đã lấy 270.000 ha của những người có nhiều đất hơn mức
bình quân chia cho những người không có đất. Ruộng đất và quyền sở hữu bò xáo trộn
nhiều lần và có xu hướng chia nhỏ.
Đường lối chính sách sau năm 1975 được thể hiện rất rõ trong Hiến Pháp năm
1980. Theo Hiến pháp, đất đai là sở hữu của toàn dân, và phần lớn được giao cho các
hợp tác xã và nông trường khai thác. Từ năm 1976 đến 1980, khi chính sách này được
thực thi, năng suất lúa giảm từ 2,23 tấn/ha xuống chỉ còn 2,08 tấn/ha mặc dù Nhà nước
đã tăng cường đầu tư vào nông nghiệp. Trong tình hình này, Việt Nam buộc phải tăng
mức nhập khẩu lương thực thực phẩm từ 1,2 triệu tấn năm 1976 lên 2,0 triệu tấn năm
1980. Chính sách giao đất cho hợp tác xã và nông trường khai thác rõ ràng là không có
hiệu quả, và không chỉ làm cho khu vực nông nghiệp mà cả nền kinh tế bò trì trệ.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn

g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
14
Chỉ thò 100 CT/TW tháng Giêng năm 1981 cho phép các hợp tác xã giao
khoán ruộng đất cho các hộ nông dân. Chính sách này đã tạo ra một động lực to lớn
khuyến khích nông dân phát triển sản xuất. Từ năm 1981 đến 1985, năng suất lúa đã
tăng 24% và sản lượng lương thực tăng 27%. Sản lượng nông nghiệp tăng 5-6%/năm.
Đây là một sự thành công vượt bực. Tuy nhiên, mức tăng trưởng này không được duy
trì do các chính sách khác của Nhà nước không hỗ trợ. Khi năng suất tăng, mức đóng
góp của các nông hộ cũng phải tăng theo, đôi khi với tốc độ còn nhanh hơn cả tốc độ
tăng trưởng của sản lượng. Có nơi, mức đóng góp trước đó là 50-60% tăng lên đến 80%
của sản lượng khiến thu nhập của nông dân giảm sút rõ rệt. Tình trạng này cùng với
siêu lạm phát năm 1986 và thay đổi cánh kéo giữa giá nông sản và giá hàng công
nghiệp đã ảnh hưởng nặng nề đến sản xuất, làm cho sản xuất tăng chậm và thậm chí
năm 1987 - đầu năm 1988 đã gây nên nạn đói tại một số vùng.
Nghò quyết 10 (tháng Tư năm 1988) đã cho phép nông dân được sử dụng đất từ
10 đến 15 năm. Quyết đònh này cũng thay đổi toàn bộ mối quan hệ giữa nông dân và
hợp tác xã, do nông dân được quyền tự quyết đònh trồng những gì và bán ở đâu. Hưởng
ứng của nông dân được thể hiện qua sự tăng vọt về sản lượng thóc từ 16 triệu tấn năm
1986 và 17 triệu tấn năm 1988 lên 21,1 triệu tấn năm 1993. Tuy nhiên, vẫn còn một số
vấn đề vướng mắc, mặc dù đã được xử lý một phần trong Luật Đất đai năm 1993. Nơi
nào các hợp tác xã vẫn nắm quyền kiểm soát đất và nước, nơi đó họ cũng chi phối luôn
hoạt động của nông dân. Thời hạn sử dụng đất được quy đònh ít nhất là 10 năm nhưng
đất thường bò phân chia lại sau thời gian ngắn hơn. Đất được chia thành nhiều lô nhỏ và
phân phối rải rác cho mỗi nông hộ. Đất đai không được chuyển nhượng và không thể
được sử dụng để làm thế chấp. Tranh chấp ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi. Được biết, đã
có hơn 200.000 trường hợp từ năm 1988. Những sự đình trệ cũng như khó khăn trong

việc thương lượng thuê đất đã làm cho nhiều nhà đầu tư nản chí. (Tại các thành phố,
thò trường chợ đen về đất đai hoạt động gần như công khai, nhưng quy chế như thế nào
thì không rõ). Những vấn đề nêu trên tập trung ở miền Bắc, nơi chế độ hợp tác xã đã
được áp dụng một cách rộng khắp. Trái lại, tại đồng bằng sông Cửu Long, ngay cả vào
năm 1980, chỉ khoảng một phần ba đất đai là không phải do các nông hộ quản lý.
Nói chung, các bước cải cách từ năm 1988 chưa thành công trong việc củng cố
niềm tin của nông dân vào quyền sử dụng đất và khuyến khích họ đầu tư lâu dài,
nhưng tình hình có khác tùy theo từng vùng. Ở đồng bằng sông Cửu Long, niềm tin của
nông dân vào quyền sử dụng đất dường như vững chắc hơn so với ở đồng bằng sông
Hồng. Ở miền Bắc, việc xáo trộn ruộng đất thường xuyên làm cho nhiều nông dân
không muốn đầu tư lâu dài vào đất. Trong cả nước, nhưng đặc biệt là ở miền Bắc,
không dễ gì mua đất một cách dứt khoát để sử dụng lâu dài. Nơi nào các quyền hạn
trên đất đai không được mua bán dễ dàng, nơi đó người dân sẽ ngần ngại đi vào những
hoạt động mới vì lúc nào cũng hoang mang sợ mất đất và như vậy, mất luôn yếu tố
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
15
đảm bảo cuộc sống, dù chỉ ở mức tối thiểu. Đây là thực tế đã xảy ra ở vùng Đông Bắc
Thái Lan và đã có nguy cơ bò lặp lại ở Việt Nam, nhất là ở miền Bắc.
Các chính sách về ruộng đất trước đây được đề ra vì sự lo ngại rằng Việt Nam
sẽ có một giai cấp nông dân không có đất và sẽ phải gánh chòu hậu quả không hay như
vào những giai đoạn lòch sử trước đây. Do vậy, tại những vùng đông dân cư, đất được

giao cho xã và hợp tác xã để chia lại cho các nông hộ. Nơi nào đất khan hiếm, đất được
phân phối lại theo đònh kỳ để có thể chia thêm cho những hộ trước đó nhận được ít,
hoặc giao ruộng cho lớp thanh niên mới lớn lên muốn làm nông nghiệp. Đúng là biện
pháp này có lập lại một sự công bằng nào đó, nhưng mặt khác lại gây khó khăn cho
việc đầu tư vào đất và hạn chế sự chuyển hướng của nông dân sang những hoạt động
có mức sinh lợi cao hơn. Nói cách khác, biện pháp này được nhiều người ủng hộ và cho
phép chia sẻ sự nghèo đói, nhưng không giúp gì cho một nền nông nghiệp năng động.
Ổn đònh chế độ sử dụng ruộng đất và hỗ trợ việc lao động di chuyển giữa các vùng
cũng như các ngành trong một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và cân đối sẽ có tác dụng
làm giảm bớt chứ không làm gia tăng sự nghèo đói. Vốn dó không thích rủi ro, chỉ
người dân mới biết rõ nên làm thế nào để tận dụng những cơ hội làm ăn tại đòa phương
mình. Tạo điều kiện cho họ mua bán đất dễ dàng sẽ có tác dụng tốt. Kinh nghiệm cũng
cho thấy, khi cho nông dân được quyền quản lý đất lâu năm, sản lượng đã tăng. Cũng
như vậy, nông dân sẽ chỉ đầu tư vào mảnh đất của mình khi biết chắc rằng họ sẽ được
gặt hái thành quả của việc đầu tư này.
Luật đất đai năm 1993 : một bước tiến
Giờ đây, Chính phủ Việt Nam đã có một chính sách rõ ràng, mặc dù đất đai
không phải là sở hữu của những người canh tác nó, những người này (nông dân) được
quyền sử dụng đất lâu dài. Luật Đất đai năm 1993 nói rõ rằng, thời gian sử dụng đất
trồng cây hàng năm là 20 năm. Thời gian sử dụng đất rừng là 40 năm. Luật pháp cho
phép thừa kế, chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng như dùng làm thế chấp để vay
vốn ngân hàng. Đây là một bước tiến, nhưng vẫn chưa đủ để khuyến khích đầu tư một
cách hữu hiệu nhất.
Hiện nay, các vụ chuyển nhượng đất vẫn phải được chính phủ đòa phương chấp
thuận, và trong thực tiễn thường gặp khó khăn nếu các bên muốn chuyển nhượng
không thuộc cùng một đòa phương. Ngay cả đối với nông dân Việt Nam ở cùng tỉnh
nhưng lại khác huyện, việc mua bán quyền sử dụng đất cũng không đơn giản. Thực tế
nay hạn chế khả năng áp dụng luật pháp và gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong
việc gom đất. Nên tiến đến việc hiển nhiên công nhận các vụ chuyển nhượng ruộng
đất khi bên muốn mua và bên muốn bán đến đăng ký chính thức với chính quyền. Có

thể giải quyết sự lo ngại về những "người ngoài" đến mua đất bằng cách cho người của
đòa phương được quyền ưu tiên mua trước với mức giá do bên bán quy đònh, và mức giá
này cũng sẽ quyết đònh luôn mức thuế mà người bán phải trả.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
16
Nhà nước cũng vẫn quản lý phương thức sử dụng đất. Một khi đã đồng ý cho
nông dân được quyền sử dụng đất lâu năm, chính quyền không nên buộc họ phải xin
phép mỗi khi họ muốn thay đổi loại cây trồng. Trong kinh tế thò trường, quy hoạch
vùng thường không có nghóa là kiểm soát chặt chẽ cách sử dụng đất nông nghiệp, mà
chủ yếu là nhằm ngăn chặn các hoạt động công nghiệp hay thương mại ở những nơi
không phù hợp. Những trường hợp sử dụng đất không đúng (như khi trồng sắn trên
sườn đồi gây nên nạn xói mòn đất) rõ ràng là do người dân không an tâm về quyền sử
dụng đất của mình nên khai thác đất có tính chất bóc lột để kiếm lợi trước mắt. Trong
trường hợp này, công tác khuyến nông sẽ có hiệu quả hơn là ban hành quy chế. Tuy
nhiên, cần phải ban hành quy chế sử dụng đất ở những lưu vực cần được bảo vệ để
người có quyền sử dụng đất không gây nên xói mòn đất.
Tới một lúc nào đó, sẽ cần phải củng cố thời gian hưởng dụng đất thêm nữa,
có thể là bằng cách tái cấp quyền sử dụng đất theo đònh kỳ và một cách gần như tự
động. Thời hạn 20 năm là đủ đối với hầu hết các khoản đầu tư được thực hiện hôm
nay, nhưng khi thời gian sử dụng đất gần hết, cách xử thế người dân có thể sẽ khác đi
và có thể sẽ làm cho năng suất giảm sút. Do vậy, tiến dần đến việc giao cho nông dân

quyền sử dụng đất vónh viễn sẽ giúp họ an tâm đầu tư nhiều hơn vào mảnh đất của
mình và mức sinh lợi của các khoản đầu tư này cũng sẽ cao hơn.
Một trong những thử thách lớn đối với Nhà nước không phải chỉ là việc thay
đổi luật pháp (điều này đã được thực hiện phần nào qua Luật Đất đai năm 1993), mà
còn là việc thay đổi sự cảm nhận của người dân rằng, chính quyền đòa phương thực sự
có thay đổi và cho phép cũng như tôn trọng quyền sử dụng đất lâu năm của người dân.
Để củng cố niềm tin này, Nhà nước có thể trao cho nông dân giấy chứng nhận về
quyền sử dụng đất, trong đó có ghi rõ thời hạn có thể hiệu lực. Nếu các đòa phương
không từ bỏ chính sách cứ một vài năm lại phân chia lại ruộng đất, nông dân sẽ không
bao gkờ bỏ vốn vào những khoản đầu tư đòi hỏi nhiều thời gian hơn để sinh lợi. Do
vậy, việc thực thi luật pháp không kém phần quan trọng so với việc ban hành luật. Xây
dựng cơ chế pháp lý và cưỡng chế việc thực thi nó sẽ góp phần đảm bảo cho nông dân
được hưởng lợi từ các khoản đầu tư của mình, và không để họ mất các khoản đầu tư
này mà không được đền bù một cách xứng đáng. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất phải mang tính chắc chắn và dễ thực hiện. Các vụ tranh chấp phải được giải quyết
một cách công bằng và có thể dự báo được, và cách giải quyết phải mang tính pháp
luật chứ không nên để đòa phương tùy ý quyết đònh.
Một vấn đề có liên quan là vấn đề thuế và lệ phí đi kèm với đất đai. Thuế
nông nghiệp chính thức trước đấy không cao và gần đây đã được giảm xuống mức
tương đương khoảng 7% của giá trò sản lượng. Trên thực tế, còn một số lệ phí và phụ
phí khác làm cho tổng chi phí của nông dân cao hơn. Trong Bảng II, thuế đất đai và
các khoản phí nói trên được thể hiện như một phần của giá trí sản lượng.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á


David O. Dapice and Cao Duc Phat
17

Bảng 7.2
Các khoản phí trả cho Hợp tác xã

(tính bằng % của Sản lượng)
Thuế đất 7% - 8%
Thủy lợi 5% - 10%
Làm đất 3% - 5%
Phân bón vô cơ 8% - 10%
Thuốc trừ sâu 3% - 5%
Các khoản phí khác 5% - 10%
Tổng cộng * 31% - 48%
* thêm 15-20 ngày công/năm. Chưa tính phí học đường, y tế và các khoản phí khác
Nếu các khoản phí được ấn đònh một cách tùy tiện và không được sự đồng tình
của tập thể hoặc không phải để chi trả cho dòch vụ nào đó, đầu tư sẽ mang nhiều tính
rủi ro hơn. Lúc ấy, quyển sử dụng đất ổn đònh không còn ý nghóa già vì một phần lớn
của giá trò sản lượng bò lấy đi mà không thể dự báo trước được là bao nhiêu. Ngay cả
hiện nay, phần bò lấy đi có thể tới một nửa của giá trò sản lượng, tuy con số này có bao
gồm một phần chi phí sản xuất.
Trái lại, cơ chế thuế lũy tiến
, với những mức thuế cao dần khi diện tích đất lớn
hơn, là cách hữu hiệu để hạn chế việc đầu cơ đất mà không cần phải ngăn cấm bằng
pháp luật. Cơ chế thuế lũy tiến sẽ giúp giữ thế cân bằng giữa hai mục tiêu là thực hiện
chủ nghóa quân bình và đạt được hiệu quả cao, và sẽ hạn chế tốc độ phát triển của các
nông trại thật lớn.
Tóm lại, những bước chính sách tích cực trong Luật Đất đai năm 1993 cần
được củng cố và mở rộng, để tác dụng của việc có quyền sử dụng và chuyển nhượng

đất ổn đònh được thực hiện đầy đủ. Các bước chính sách cần có trong tương lai gồm có:
1. Gia hạn quyền sử dụng đất một cách đònh kỳ và tự động.
2. Cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất một cách dễ dàng cho bất cứ
người nào muốn mua.
3. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi rõ thời hạn.
4. Xây dựng cơ chế pháp lý nhằm bảo vệ quyền sử dụng đất.
5. Hạn chế các khoản phí tùy tiện hay tăng mức thuế.
6. Ban hành cơ chế thuế lũy tiến để hạn chế việc đầu cơ đất
Cơ sở hạ tầng nông thôn
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
18
Nhiều vùng nông thôn ở Việt Nam, kể cả hầu hết những vùng rất nghèo, hiện
ở trong tình trạng bò cách ly và thiếu cơ sở hạ tầng. (Có một số vùng đất rất nghèo do
đất cằn cõi và bò thiên tai liên tục nhưng không thể nói là bò cô lập do nằm không xa
các trục đường lớn). Cơ sở hạ tầng bao gồm đường sá, cầu, công trình thủy lợi, hệ thống
mương máng, hệ thống cấp điện cùng các phương tiện liên lạc khác như điện thoại. Khi
một vùng bò cách ly, việc vận chuyển vật tư nông nghiệp, như phân bón, đếùn cho nông
dân và ngược lại, vận chuyển nông sản đến thò trường là rất khó khăn và tốn kém. Kết
quả là nông dân phải mua vật tư với giá cao nhưng chỉ bán sản phẩm được với giá thấp,
ngay khi các trung gian thu mua không có lãi nhiều, vì chi phí vận chuyển đến các chợ
ở thành phố quá đắt.

Trước đây, ngân sách đầu tư cho cơ sở hạ tầng và nông nghiệp được phân bổ
theo các kinh tế tập trung ít quan tâm tới khả năng sinh lợi. Tình trạng này vẫn đang
tiếp diễn trong một số trường hợp. Hiện nay, vốn đầu tư vẫn tập trung nhiều vào các dự
án lớn về thủy lợi và phát triển cây công nghiệp, và phần ngân sách dành cho chúng
vẫn còn rất lớn. Trong khi đó, đường sá không được quan tâm tu bổ đúng mức. Sửa
chữa và bảo quản một con đường dù sao cũng ít tốn kém hơn làm mới hoàn toàn. Hiệu
suất kinh tế của việc sửa chữa đường sá thường rất cao, thậm chí trên 50%/năm. Có
nghóa là, ngay khi không có thu nhập từ lộ phí, chỉ việc giảm chi phí vận chuyển nếu
có đường sá tốt cộng với việc hàng năm không phải tốn kém nhiều để sửa chữa cơ bản
đã là một cái lợi rất lớn về mặt kinh tế. Tuy nhiên, kinh phí cho việc sửa chữa phải
được trích từ thu nhập thuế chung.
Vấn đề đường sá nói chung và sửa chữa đường sá nói riêng phải được ưu tiên
nhiều hơn so với hiện nay. Đồng thời, cũng cần phải xây dựng đường mới, với chất
lượng và mật độ tùy theo lượng giao thông sẽ có sau khi các con đường này được đưa
vào sử dụng. (Ở một số nơi, như một vài vùng tại đồng bằng sông Cửu Long, giao
thông đường sông có thể là một phương án tốt.) Tín dụng nông thôn hay thậm chí cả
công tác khuyến nông cũng sẽ không thành công nếu các nông trại bò cách biệt và gần
như phải tự cung tự cấp. Nối liền các vùng hẻo lánh với thò trường sẽ giúp nông nghiệp
đi vào thâm canh và được chuyên môn hóa đồng thời thúc đẩy các hoạt động phi nông
nghiệp phát triển, vì lúc ấy cả thương nghiệp lẫn chế biến nông sản cũng sẽ có điều
kiện phát triển dễ dàng hơn. Các thò trường lao động thường hoạt động tốt hơn khi nhân
lực được di chuyển từ vùng này sang vùng khác một cách dễ dàng và ít tốn kém.
Đường sá tốt cũng giúp cho việc thu thập thông tin và có thông tin kòp thời về giá cả,
công ăn việc làm, công nghệ sản xuất, v.v… Đây thường là những bước đầu tiên để
thoát khỏi cảnh đói nghèo. Quan trọng hơn hết, hệ thống đường sá tốt sẽ góp phần tạo
dựng một nền kinh tế quốc dân thống nhất thực thụ trong đó tất cả các đòa phương sẽ có
điều kiện giao thương với nhau.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn

Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
19
Khi mạng lưới đường sá đã được cải tiến, sẽ đến lượt tập trung nâng cấp các
công trình thủy lợi và thoát nước, nhất là tại các vùng đồng bằng sông Cửu Long và
sông Hồng. Cho đến nay, một số dự án đòi hỏi vốn đầu tư lớn của Nhà nước đã được
nghiên cứu và xác đònh ở mức tiền khả thi (tức là còn phải làm đề án thiết kế chi tiết
hơn, nhưng về sơ bộ, dự án đầu tư có tính khả thi về mặt kỹ thuật và có sức hấp dẫn về
mặt kinh tế). Tại đồng bằng sông Cửu Long, các dự án tưới tiêu nước và cơ sở hạ tầng
nông thôn có liên quan yêu cầu trên 500 triệu USD vốn đầu tư. Một danh mục tương tự
đang được đề ra cho đồng bằng sông Hồng, và tất nhiên, các đồng bằng nhỏ thuộc lưu
vực các con sông nhỏ ven biển miền Trung cũng cần được đầu tư. Trong nhiều trường
hợp ngay cả không phải trong các vùng châu thổ sông, xây dựng hồ chứa nước và các
hệ thống thủy lợi nhỏ cũng có hiệu quả kinh tế cao nếu đồng thời xây dựng đường sá
kèm theo. Nên kết hợp một số các hệ thống thủy lợi này với việc tái trồng rừng ở
thượng lưu nhằm ngăn chặn hiện tượng bối lắng kênh mương và ao hồ nhanh chóng,
cũng như làm giảm hiện tượng hạn hán và lũ lụt theo chu kỳ thường đi đôi với việc phá
rừng.
Những hệ thống thủy lợi có qui mô lớn thường gặp phải một số khó khăn đáng
kể. Các vấn đề như nước mặn xâm nhập tại hạ lưu, sốt rét, nước chua phèn ở cuối
nguồn, v.v… phải được xem xét trong đề án thiết kế để tránh hay để hạn chế bằng cách
đầu tư vào các biện pháp phòng chống ở nơi khác. Hơn nữa, thủy lợi phí quá thấp nên
thu nhập không đủ để đảm bảo ngay việc bảo quản máy móc chứ chưa nói đến trang
trải chi phí khấu hao hay chi phí lãi. Ít nước nào bắt nông dân phải trả thủy lợi phí đúng
mức, nhưng kinh nghiệm cho thấy, sự thiếu hụt trong thu nhập sẽ dẫn đến việc cung

cấp dòch vụ không đầy đủ và chất lượng dòch vụ giảm sút theo thời gian. Trong chừng
mức có thể làm được, nên rút kinh nghiệm của các nước khác trong việc thiết kế và
thực hiện các dự án loại này.
Trong nhiều trường hợp, vấn đề đáng quan tâm là tiêu chứ không phải tưới
nước. Hiện nay người ta dùng các máy bơm điện lớn tập trung để tiêu nước. Nên tìm
những phương án vẫn hữu hiệu nhưng ít tốn kém và linh hoạt hơn, như các máy bơm
điện cỡ nhỏ. Dù sao đi nữa, việc củng cố hệ thống cấp điện sẽ cho phép nông dân sử
dụng nhiều loại máy bơm điện để tiêu nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, giá
bơm nước có thể rất cao ở những vùng dễ bò ngập. Tuy mức giá điện cơ bản được áp
dụng cho hợp tác xã là khoảng 400 đồng/kw-giờ, trên thực tế, nhiều hộ nông dân sử
dụng điện cho sinh hoạt gia đình nhưng lại tính như chi phí bơm nước trong đồng hồ
điện của tập thể. Ngoài ra, không phải lúc nào các nông hộ cũng trả tiền đầy đủ cho
mức tiêu thụ điện của mình. Kết quả là giá điện ở nhiều nơi lên đến 1.000 đồng/kw-
giờ. Đây là mức giá rất cao đối với một số vùng.
Có nhiều việc cần phải làm ở đây. Tất nhiên, trước hết, trong việc đo lường
nên tách mức tiêu thụ điện sinh hoạt khỏi mức tiêu thụ điện dùng để bơm nước. Tập
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
20
thể không nên gánh chòu chi phí tiêu thụ điện cá nhân. Nếu chi phí biên tế
của việc sản
xuất và phân phối điện mùa mưa để hút nước chỉ là 300 đồng, thì giá điện phải được

quy đònh đúng mức như vậy, trừ phi Nhà nước muốn trợ cấp cho nông dân để hạ bớt giá
thành sản xuất thực tế của họ. Giá thành bình quân
của những nguồn cung cấp điện
mới tất nhiên là cao hơn nhiều, nhưng khi điện dồi dào trong mùa mưa, việc đònh giá
dựa trên giá thành bình quân là không cần thiết. Có thể áp dụng phương án để đòa
phương tài trợ một phần nào đó cho mạng lưới phân phối, còn người dân chỉ trả chi phí
biên tế của việc sản xuất điện. Ngoài ra. Nhất thiết phải cải tiến việc đo lường mức
tiêu thụ, tính tiền và thu phí. Nếu được thực hiện đồng bộ, những biện pháp trên sẽ
giúp cho việc bơm nước được thực hiện trên một diện tích lớn hơn và sản lượng nông
nghiệp sẽ cao hơn.
Quá trình phát triển nông thôn thường bắt đầu với việc nâng cấp đường sá,
tiếp theo là hệ thống tưới tiêu nước, rồi sau đó là các dòch vụ khuyến nông và tín dụng.
Tuy nhiên, có một số vùng đặc biệt hẻo lánh cách xa các trục lộ chính, thưa dân cư và
ở đòa thế trắc trở nên phải mất nhiều năm mới xây được đường sá đến đấy. Trong
trường hợp này, trước hết nên đầu tư sản xuất các loại cây lương thực thực phẩm hoặc
các loại cây công nghiệp có giá trò kinh tế cao so với trọng lượng (như cà phê, hồ tiêu…)
mà không phải tốn kém nhiều để vận chuyển. Nói chung, chính sách cấp tín dụng ở các
vùng nghèo chỉ trồng cây thực phẩm sẽ không thành công, vì người dân rất khó kiếm
tiền để hoàn trả. Những công việc làm mang tính công cộng như xây dựng hay sửa
chữa đường sá, làm thủy lợi ở quy mô nhỏ hay làm hồ chứa nước, trồng rừng có thể
được xem như những hoạt động kiếm tiền tạm thời ở những vùng đặc biệt hẻo lánh
này.
Công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông
Trước cải cách, kỹ thuật nông nghiệp được chuyển giao cho hợp tác xã nông
nghiệp qua hệ thống quản lý hành chính. Hệ thống này bao gồm Bộ Nông nghiệp và
các Sở và Phòng Nông nghiệp thuộc y ban Nhân dân các tỉnh và huyện. Lãnh đạo và
các kỹ thuật viên của hợp tác xã là người trực tiếp tiếp nhận kỹ thuật. Trên cơ sở đó, họ
đề ra kế hoạch thực hiện và hướng dẫn nông dân sử dụng những kỹ thuật này. Vào lúc
đó, những kỹ thuật được chuyển giao thường chỉ phù hợp với quy mô sản xuất lớn có
nguồn vật tư và lao động phong phú. Nông dân chỉ được huấn luyện về cơ bản ở mức

hạn chế, và cũng không có gì thúc đẩy họ tìm cách nắm bắt kỹ thuật mới. Do vậy, quá
trình áp dụng tiến bộ kỹ thuật thường diễn ra rất chậm. Cuối những năm 70, cuộc
"Cách mạng Xanh" đã thúc đẩy nhiều hợp tác xã đề ra kế hoạch áp dụng những giống
lúa mới, nhưng việc thực hiện rất chậm chạp và kém hiệu quả.
Sau khi nông dân được giao quyền sử dụng đất, họ bắt đầu quan tâm tìm hiểu
về những kỹ thuật mới do nhận thức được rằng họ sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ thu
nhập gia tăng do việc áp dụng kỹ thuật mới. Nhiều nông dân (khoảng một phần ba),
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
21
vẫn còn thiếu kiến thức canh tác thích hợp để áp dụng các giống mới. Đa số nông dân
sẽ được lợi nếu được cung cấp thêm thông tin dù họ đã biết một số điều cơ bản. Nông
dân ở những vùng hẻo lánh cho đến nay vẫn tiếp tục áp dụng các phương pháp canh
tác cổ truyền. Thông tin về các kỹ thuật mới lan truyền rất chậm vì lúc đó, ngoài hợp
tác xã ra không có cơ cấu nào thích hợp để chuyển giao thông tin đến các hộ gia đình.
Hậu quả là sản lượng nông nghiệp bò hạn chế. Nếu lúc đó có một hệ thống truyền bá
thông tin tốt hơn, những kỹ thuật mới hẳn đã có ảnh hưởng tích cực và rộng lớn hơn
nhiều.
Một tồn tại khác trong công tác khuyến nông là bản thân hệ thống này cũng
đang ở trong quá trình chuyển đổi. Hệ thống chuyển giao kỹ thuật như là một bộ phận
trong bộ máy hành chính nay đang bò co hẹp lại. Các tập đoàn sản xuất không còn tồn
tại ở phần lớn phía Nam, trong khi các hợp tác xã ở miền Bắc cũng không còn đóng vai

trò như trước đây. Hiện nay hết sức cần thiếc xây dựng một hệ thống chuyển giao kỹ
thuật mới. Hầu hết các nước đều có một hệ thống khuyến nông công cộng đóng vai trò
chuyển giao kỹ thuật từ các trung tâm nghiên cứu khoa học đến nông dân một cách dễ
tiếp thu nhất. Những hệ thống có hiệu quả nhất đều bao gồm việc thu thập những vấn
đề vướng mắc của nông dân rồi phản ánh lại cho các trung tâm nghiên cứu. Việt Nam
đã thảo luận nhiều về các thay đổi cần có trong hệ thống khuyến nông của mình. Vừa
qua, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm đã được giao trách nhiệm thiết kế và
xúc tiến việc xây dựng một hệ thống được sửa đổi và điều phối hoạt động của tổ chức
này. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại phải được giải quyết.
- Cán bộ trong hệ thống khuyến nông kiểu mới này phải được đào tạo để
làm việc trực tiếp với nông dân thay vì chỉ báo cáo cho lãnh đạo các hợp
tác xã hay nông trường quốc doanh. Trong nền kinh tế thò trường, các
phương thức chuyển giao kỹ thuật trực tiếp cho nông dân rất khác so với
các phương thức được áp dụng trước đây. Thông tin phải phù hợp với trình
độ học vấn, văn hóa và tập quán của nông dân ở các đòa phương khác
nhau. Cần chuyển giao các kỹ thuật đa dạng để phù hợp với điều kiện kinh
tế của các nhóm nông dân khác nhau. Cần chuyển giao không những thông
tin về kỹ thuật mà cả về kinh tế lẫn thò trường.
- Các cơ chế hoạt động phù hợp, bao gồm cả cơ chế tài chính, phải được
thiết lập để hệ thống khuyến nông có thể hữu hiệu. Ở Việt Nam, công tách
khuyến nông dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nước dành cho nông nghiệp;
ngân sách này đã bò giảm nhiều trong những năm vừa qua nhưng gần đây
đang được phục hồi dần. Tuy vậy, chưa có tập quán sử dụng tiền quyên
góp, hay phí sử dụng, hoặc đóng góp quỹ lương từ các trường đại học hay
các viện nghiên cứu để hỗ trợ cho thu nhập của cán bộ khuyến nông.
Trước đây, công tác khuyến nông thường được kết hợp với việc cung cấp
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc

Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
22
vật tư và thậm chí cả với việc chế biến nông sản. Cần tách biệt các hoạt
động này, do hiện nay các hợp tác xã không còn làm mọi dòch vụ như
trước. Nếu để dòch vụ khuyến nông mang tính chất thương mại thuần túy
thì có rủi ro sẽ có những lời khuyên thiên lệch dẫn đến việc sử dụng quá
mức hoặc sử dụng sai lầm phân bón, thuốc trừ sâu, cũng như các vật tư
khác.
- Công tác khuyến nông trước đây chỉ mới chú trọng chuyển giao các kỹ
thuật nông nghiệp, thường là về sản xuất lương thực; nay cần phải chuyển
giao những thông tin đa dạng hơn. Cần cố vấn nông dân về các loại cây
trồng có giá trò hàng hóa cao, về các hệ thống canh tác, chất lượng, các kỹ
thuật sau thu hoạch và nhiều vấn đề khác có liên quan đến sinh hoạt ở
nông thôn nói chung. Sau khi đã phát triển, các tổ chức kinh doanh nông
nghiệp cũng sẽ có thể cung cấp nhiều thông tin, nhưng vẫn phải giúp đỡ
nông dân trong việc tiếp thu các thông tin này. Điều này có nghóa là chính
các cán bộ khuyến nông cần phải hiểu biết nhiều hơn và biết lý giải các
loại thông tin khác nhau. Phương thức khuyến khích nông dân tham gia
vào việc đánh giá các kỹ thuật nông nghiệp sẽ giúp thiết lập một chương
trình khuyến nông thích hợp và hướng cán bộ tập trung vào các vấn đề hữu
ích. Theo phương thức này, nông dân sẽ được tham khảo ý kiến và giúp
xây dựng những vấn đề kiến thức quan trọng nhất cần được bổ sung.
Tín dụng nông thôn và dòch vụ tài chính
Mọi người đều nhận thức được rằng nông dân cần phải có tín dụng để mua vật
tư nông nghiệp. Gần đây, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã triển khai chương trình

cấp tín dụng trực tiếp cho nông dân, với quy mô nhỏ (khoảng 150 USD mỗi một
khoản). Chương trình đã phát triển rất nhanh và đến cuối năm 1993, có khoảng hai
triệu nông dân đã được vay tín dụng. Thời hạn vay từ ba đến sáu tháng, đủ thời gian để
trồng và trữ thóc qua mùa lúa khi giá giảm sút. Lãi suất vay từ 2,5% đến 3%/tháng.
Trước đây, các khoản tín dụng được đưa về đòa phương và sau đó, đòa phương lại phân
phối vật tư nông nghiệp. Hiện nay, mỗi huyện có ít nhất một chi nhánh ngân hàng, có
huyện có nhiều hơn.
Cách tiếp cận này là đáng mừng và có ích, nhưng đây chỉ là bước đầu trong
việc đảm bảo các dòch vụ tài chính thích hợp cho nông thôn với chất lượng cao. Trước
hết, phải tạo điều kiện cho nông dân được gửi tiền dễ dàng vào ngân hàng. Ví dụ, ngân
hàng không nên quá xa thì mới khuyến khích được việc nông dân gửi tiền tiết kiệm.
Phải tạo điều kiện cho các nông hộ tích lũy thu nhập dư dã của mình không phải bằng
thóc hay vàng như trước, mà là dưới dạng các tài khoản ngân hàng. Tuy nhiên, học
phải có quyền trên các tài khoản này, tức là được rút tiền bất cứ lúc nào cần và không
phải trả lời bất cứ câu hỏi nào. Giá trò thực tế của số tiền tiết kiệm phải được duy trì,
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
23
ngoài ra, nên có một ít lãi thực tế. (Năm 1993, lãi suất gửi tiết kiệm là 1% đến
2%/tháng trong khi tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm, do vậy, lãi suất trên tiền gửi đã cao
hơn mức lạm phát). Chúng tôi xin lặp lại, ngân hàng không nên ở quá xa do các khoản
tiết kiệm thường không lớn và nông dân phải thường xuyên đến ngân hàng. Nếu ngân

hàng biết sử dụng các khoản tiết kiệm này làm vốn cho vay và các khoản vốn vay này
được trả lại đầy đủ, cả ngân hàng và xã hội đều sẽ có lợi.
Đối với vấn đề vay, nên gia tăng cả số lượng và thời hạn được vay. Do cách
suy nghó cũ, phần nào vẫn còn tồn tại ngày nay, tín dụng vẫn được xem như một món
hàng quý hiếm phải được phân phối bằng biện pháp hành chính thay vì bằng giá cả. Do
vậy, các ngân hàng thường thích cho các công ty thương nghiệp hay hợp tác xã vay một
khoản lớn hơn là cấp cho nông dân những khoản tín dụng nhỏ có lãi suất thấp hơn (mà
việc quản lý lại rất tốn kém). Ngân hàng cấp tín dụng cho nông dân do chỉ thò của Nhà
nước chứ không phải vì đây là hoạt động có lãi. Do lãi suất tiền gửi gần 2%/tháng trong
khi lãi suất tiền vay chỉ có 2,5%, ngân hàng không đủ thu nhập để trang trải chi phí cấp
tín dụng cho nông dân, ngay cả khi hầu hết các khoản tín dụng đều được hoàn trả. Hơn
nữa, hiện nay tín dụng ngân hàng chỉ được cấp chủ yếu cho sản xuất nông nghiệp hoặc
để lưu trữ thóc chứ chưa được dành cho những mục tiêu khác như sản xuất công
nghiệp nhỏ.
Tín dụng nông thôn đã được thực hiện tại nhiều nước trên thế giới và có một
số bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ đấy. Kinh nghiệm thứ nhất là, tín dụng phải
phục vụ việc phát triển nông thôn chứ không chỉ nông nghiệp. Đặc biệt tại những vùng
đất khan hiếm, hầu hết các nông hộ đều phải có những hoạt động nông nghiệp và phi
nông nghiệp để kiếm sống và để có được mức thu nhập cao cũng như ổn đònh hơn. Do
vậy, không thể nào biết được tín dụng được sử dụng cho những mục đích gì trong một
gia đình có nhiều nghề, và điều này cũng không quan trọng. Chính khả năng chuyển
vốn từ hoạt động này sang hoạt động khác là một lợi thế giúp nông dân giảm bớt nhu
cầu về tín dụng dài hạn. Vấn đề quan trọng nhất đối với một ngân hàng cho vay với lãi
suất thương mại là, liệu các khoản vay có được hoàn trả hay không. Nếu có khả năng
được hoàn trả, nên quy đònh một mức tối đa nào đó (như một hay vài nghìn USD) và
cho vay, bất kể khoản vốn vay sẽ được sử dụng trong lónh vực nào miễn là mang lại
hiệu quả cao. Không cần phải có phân tích dự án phức tạp. Đối tượng xin vay phải là
người lương thiện, phải có vật thế chấp (có thể là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trong tương lai) và nên có uy tín trong việc hoàn trả nợ cũ cũng như có triển vọng trả
nợ mới.

Kinh nghiệm thứ hai là, lãi suất tín dụng nên là lãi suất thương mại chứ không
nên được trợ cấp hay ở mức quá thấp. Điều này có vẻ không hợp lý cả về mặt kinh
doanh cũng như về công bằng xã hội vì nông dân còn nghèo. Lẽ ra họ phải được nhận
tín dụng với giá rẻ mới đúng chứ? Thực tế là, một khi có lãi suất rất thấp thì nguồn tín
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
24
dụng lại rất hạn chế. Nếu lãi suất tiền vay thấp thì lãi suất tiền gửi thường cũng thấp,
do vậy tiền tiết kiệm gửi ngân hàng cũng không nhiều, và rốt cuộc nguồn tiền để vay
cũng rất hạn chế. Vì vậy, tín dụng "rẻ" cũng có nghóa là không có tín dụng. Thêm vào
đó, nhu cầu vay với giá rẻ thường rất lớn trong khi quỹ cho vay lại không lớn, nên cầu
vượt cung. Lúc ấy, Nhà nước lại áp dụng biện pháp phân phối, tức là dùng những tiêu
chuẩn hành chính để quyết đònh đơn xin vay nào "xứng đáng" và "không xứng đáng".
Do vậy mà việc kiểm soát công dụng của khoản vay trở nên phổ biến và lượng cho vay
cũng không lớn. Trong trường hợp tốt nhất, Nhà nước vẫn có thể cấp được những khoản
tín dụng nhỏ và rẻ một cách rộng khắp, nhưng chi phí hành chính sẽ cao. Trong trường
hợp xấu nhất, chỉ một số nhỏ đối tượng xin vay "an toàn" (tức là giàu có) hay có thế lực
là được hưởng tín dụng rẻ, còn hầu hết nông dân chỉ được vay rất ít hoặc không rẻ. Mặt
khác, do áp lực phải giữ lãi suất tín dụng ở mức thấp, khoảng "chênh lệch" giữa lãi suất
vay và lãi suất gửi cũng không được lớn và do vậy, ngân hàng không đủ lợi nhuận để
trang trải chi phí hoạt động của mình. Cũng do vậy mà ngân hàng không muốn mở
nhiều văn phòng, không muốn thuê nhiều nhân viên và tránh không muốn cấp nhiều

khoản tín dụng nhỏ để đỡ tốn kém. Kết quả cuối cùng là, đối với đa số nông dân, tín
dụng với giá rẻ có nghóa là không có tín dụng, hay rất ít tín dụng.
Kinh nghiệm thứ ba là, nông dân thường trả nợ sòng phẳng hơn khi biết rằng
đó là điều kiện để được vay thêm trong tương lai. Đa số nông dân đều nhận thức được
tính quan trọng của việc được vay và hết sức bảo vệ khả năng này. Nếu ngân hàng
đồng ý cấp những khoản tín dụng khá lớn bất kể được sử dụng ra sao miễn là có sinh
lợi mà không đòi hỏi nhiều thủ tục và với lãi suất cao (khoảng 3% hay 4% trong tình
hình hiện nay), thì có nhiều triển vọng rằng nợ sẽ được hoàn trả. Nếu ngân hàng chỉ
cấp những khoản tín dụng nhỏ và không thường xuyên, đòi hỏi nhiều thủ tục và chỉ với
mục đích sản xuất nông nghiệp, áp lực để nông dân trả nợ sẽ ít hơn nhiều. Do vậy, sự
tồn tại của hệ thống tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào việc duy trì khả năng cấp tín
dụng của nó.
Trong hệ thống tín dụng lý tưởng, các ngân hàng nông thôn cạnh tranh nhau
để cung cấp cho khách hàng cả dòch vụ gửi tiền tiết kiệm cũng như cho vay. Tất cả mọi
đối tượng có triển vọng trả nợ tốt sẽ được cấp tín dụng dễ dàng mà không phải qua các
thủ tục quan liêu, quy mô tín dụng sẽ không bò cắt giảm do lãi suất thấp hoặc việc sử
dụng tín dụng sẽ không bò giới hạn như hiện nay. Tuy nhiên, trước mắt, sẽ không có
nhiều ngân hàng thương mại quan tâm đến việc hoạt động tại nông thôn, vì vậy Ngân
hàng Nông nghiệp (ngân hàng này nên hoạt động như một Ngân hàng Nông thôn thì
đúng hơn, nhằm tài trợ cho mọi hoạt động sản xuất có hiệu quả tại nông thôn) sẽ phải
có vai trò lớn lúc ban đầu. Mỗi chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp phải chòu trách
nhiệm về tình hình lỗ lãi của mình, và khi bò thua lỗ thì không được dựa vào chế độ trợ
cấp quá lâu. Cơ chế kế toán, giám sát và điều hành của ngân hàng phải được cải tiến
để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về điện cũng như về quy mô của các khoản
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g

thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
25
cho vay. Lúc ban đầu, đa số tín dụng sẽ được dành cho các vùng có tiềm năng kinh tế
cao, nhưng một khi mạng lưới đường sá đã tốt hơn, cả mức tích lũy lẫn mức tín dụng sẽ
tăng lên ở khắp mọi nơi. Ngân hàng Nông nghiệp có nhiệm vụ cấp tín dụng nông thôn
một cách rộng khắp và với giá càng rẻ càng tốt nhưng vẫn phải có lãi.
Phối hợp các chính sách ngành và liên ngành
Trong các phần trên, chúng tôi đã trình bày về những yêu cầu bức xúc nhất.
Trước hết là về xây dựng đường sá, nâng cấp hệ thống thủy lợi và đảm bảo quyền sử
dụng đất; kế tiếp là về trồng rừng và nghiên cứu cũng như công tác khuyến nông; sau
đó là về thiết lập và phát triển dòch vụ tổng hợp về tài chính nông thôn. Không làm
được những bước này thì nhiều vùng nông thôn sẽ rất khó có thể phát triển được. Nông
dân sẽ không có động lực để đầu tư vào đất, mà có muốn đầu tư cũng không có vốn,
hoặc không có kiến thức để biết phải đầu tư như thế nào. Họ sẽ bò khó khăn khi đi vào
chuyên môn hóa do chi phí vận chuyển cao. Mức thu nhập tại nông thôn sẽ cứ thấp
mãi, và hiện tượng di dân ra thành phố sẽ làm cho dân số đô thò tăng nhanh. Tuy nhiên,
tất cả các bước nêu trên không thôi vẫn chưa đủ. Cần phải làm nhiều hơn nữa, vì sự
thành công của công cuộc phát triển nông thôn phụ thuộc phần lớn vào một số chính
sách nằm ngoài nông nghiệp. Sau đây chúng tôi xin trình bày về các chính sách đó.
Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) vô cùng quan trọng vì có thể nói, đây là yếu tố quyết
đònh sự thành công của nông nghiệp về lâu dài. Một số nước, nhất là các nước có nhiều
mỏ dầu, đã để cho TGHĐ Thực tế bò nâng giá và do vậy đã phương hại đến khu vực
nông thôn trong nước. (TGHĐ Thực tế là TGHĐ Danh nghóa đã được điều chỉnh để
phản ánh mức lạm phát trong nước và trên thế giới. Nếu mức lạm phát trong nước cao
hơn mức lạm phát trên thế giới, trong khi đó TGHĐ Danh nghóa vẫn giữ nguyên, thì
người ta nói rằng TGHĐ Thực tế bò nâng cao). Đây là một điều bất ngờ đối với nhiều

người, vì họ không thấy được mối liên quan giữa hàng triệu nông dân nhỏ, mà sản xuất
thường chỉ phục vụ cho chính gia đình họ và một tỷ giá tài chính dường như có liên
quan nhiều hơn hết đến Ngân hàng Trung ương và các công ty xuất nhập khẩu. Tuy
vậy, mối liên quan giữa nông dân và TGHĐ là có thật, và cần phải hiểu tại sao một
TGHĐ Thực tế bò cao giá sẽ gây tác hại đến phát triển nông thôn.
Nông sản là những mặt hàng thường được xuất khẩu và giá cả của chúng
thường bò ảnh hưởng sâu sắc của thò trường xuất khẩu. Nếu giá một tấn gạo trên thò
trường quốc tế là 200 USD, giá bán buôn nội đòa cũng sẽ thể hiện mức giá này. Điều
này không có nghóa là hai mức giá quốc tế và nội đòa bằng nhau - do chất lượng gạo
khác nhau và chi phí vận chuyển qua cảng - nhưng các khoản phí bổ sung được phản
ánh trong giá xuất khẩu chứ không phải trong giá nội đòa. Trong giá giao hàng tận nơi
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
26
cho nước mua còn có phí vận chuyển đường biển và chi phí kinh doanh. Vì vậy, giá
bán buôn trong nước có thể thấp hơn giá xuất, mà giá xuất này lại thường thấp hơn giá
nhập từ 10% đến 20%. Hơn nữa, tại Việt Nam, rủi ro bò đình trệ ở cảng và khả năng
hợp đồng kinh doanh không được tôn trọng càng làm cho giá xuất khẩu thấp hơn nữa.
Tuy nhiên, sau khi đã tính đến tất cả các yếu tố nêu trên, các công ty thương nghiệp
tính giá bán bằng cách lấy giá bằng đôla nhân lên theo tỷ giá hối đoái. Với mức giá
như vậy, họ sẽ bán gạo cho bất cứ thò trường nào trả giá cao hơn, dù là nước ngoài hay
trong nước. Như vậy, đối với họ, giá gạo trên thò trường coi như ngang nhau, mà mức

giá này lẽ ra phải khác nhau vì chất lượng gạo không giống nhau. Và nếu lấy giá bán
buôn trừ đi chi phí kinh doanh, ta sẽ được giá thu mua nông sản. Do vậy, rõ ràng là một
trong những yếu tố quyết đònh số tiền mà nông dân nhận được khi bán thóc là tỷ giá
hối đoái. Những số liệu sau đây minh họa điều này.
Giá thóc Thực tế - Vai trò của Tỷ giá hối đoái

Tháng 12, 1990 Tháng 12, 1993 % dao động
TGHĐ Danh nghóa 7.150 10.800 + 51%
Chỉ số giá cả 1,00 2,05 +105%
Giá thóc (đồng/kg) 1.000 1.000 0%
Giá thóc thực tế 1.000 488 - 51%
TGHĐ Thực tế 7.150 5.268 - 26%
* Nếu mức lạm phát trên thế giới là 0, TGHĐ Thực tế = TGHĐ Danh nghóa chia cho chỉ
số giá cả. Khi 1 USD = ít Đồng hơn, thì TGHĐ Thực tế bò nâng cao. Chỉ số giá cả được
sử dụng ở đây, bằng mức 1.00 ở thời điểm tháng 12 năm 1990.
Trong bảng nêu trên, nếu TGHĐ Thực tế đứng nguyên, thì TGHĐ Danh nghóa
đã phải tăng thành 1 USD = 14.658 đồng, và giá thóc đã phải tăng lên 1.357 đồng/kg
thay vì vẫn ở mức 1.000 đồng/kg. Như vậy, giá thóc thực tế chỉ phải giảm một phần ba
thay vì hơn một nửa. Giá trong nước suy giảm một phần còn vì giá gạo quốc tế xuống
thấp. Tác động này đã có thể được xoa dòu phần nào nếu như TGHĐ Thực tế ổn đònh
hơn. Thay vào đó, giá cả ngày càng suy giảm hơn.
Giá cà phê, cao su, chè, tơ tằm và một số cây trồng xuất khẩu khác rõ ràng và
trực tiếp ngang với giá bằng đôla của mỗi mặt hàng nhân với TGHĐ. Các nhà chăn
nuôi lợn và cá cho xuất khẩu cũng sẽ cảm nhận được mối quan hệ ngày càng chặt chẽ
giữa giá nội đòa và giá xuất khẩu. Tất cả những người này đều đã bò ảnh hưởng vì sự
nâng giá quá cao của đồng Việt Nam.
Khi một nước đột nhiên được nguồn viện trợ lớn của nước ngoài hay thu nhập
cao về đầu và bắt đầu có đầu tư của nước ngoài, phản ứng tất nhiên của nước ấy là tìm
cách sử dụng những nguồn tài nguyên này. Phần ngoại tệ được chi tiêu để mua hàng
nội đòa thường làm cho giá cả trong nước tăng trong chừng mực nào đó, nhưng không

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Theo hướng rồng bay - Ch. 7 Cải cách nôn
g
thôn, xóa đói giảm nghèo, và tăng trưởng kinh te
á

David O. Dapice and Cao Duc Phat
27
làm cho TGHĐ Danh nghóa suy giảm do có lượng ngoại tệ được đổ vào. Nếu giá cả
quốc tế vẫn ổn đònh mà giá trong nước lại tăng gấp đôi trong khi TGHĐ Danh nghóa
vẫn đứng nguyên, thì nông dân cũng sẽ lâm vào tình cảnh như nêu trên, tuy quá trình
diễn biến có hơi khác. Theo tình huống này, giá bằng đôla của gạo và cà phê vẫn như
cũ, và TGHĐ vẫn đứng nguyên. Chỉ có chi phí lưu thông tăng lên do giá nhân công sẽ
đắt hơn. Tuy nhiên, nếu giá cả trong nước nói chung tăng gấp đôi, thì phải có giá cái gì
đó đã tăng lên. Có thể là hàng công nghiệp (vì mức thuế quan cao hơn), dòch vụ, hay
hàng hóa do nông dân mua bò đánh thuế. Kết quả cuối cùng là, thu nhập thực tế của
nông dân từ việc bán thóc chỉ còn khoảng một nửa so với trước. (Phần thóc mà chính
họ tiêu thụ không bò ảnh hưởng gì, ngoài việc giá thành sản xuất có thể cao hơn). Do
vậy, nông dân không có động lực cũng như khả năng để đầu tư thêm vào nông trại của
mình. Nếu có cơ hội, một số sẽ đi tìm cuộc sống khá hơn.
Có một số cách để làm giảm ảnh hưởng xấu của hiện tượng này. Một trong
những cách đó là đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn để giảm giá thành sản xuất lúa
gạo hay các cây trồng khác. Nếu giá thành sản xuất hạ vừa đủ, mức suy giảm trong giá
bán thực tế sẽ không ảnh hưởng quá mạnh đến thu nhập của nông dân. Có thể cố gắng
thu mua thóc (hay các cây trồng khác) với mức giá cao hơn mức thò trường và chòu lỗ
khi bán lại, hoặc bán trên thò trường nội đòa với giá cao. Biện pháp này được áp dụng
vào những thời điểm khẩn cấp ở Thái Lan và thường xuyên ở Nam Triều Tiên và Nhật

Bản. Hầu hết các nước giàu có đều trợ cấp cho nông dân bằng cách thu mua sản phẩm
của họ với giá cao hơn mức giá trên thò trường quốc tế. Trong trường hợp như vậy,
ngân sách chi trực tiếp và người tiêu thụ phải trả mức giá cao hơn. Thà có những chính
sách nâng giá như vậy còn hơn không có gì cả, nhưng tại Việt Nam, những chính sách
này sẽ khó mà lý giải được vì nhiều người sống tại thành phố cũng nghèo (và cần phải
mua gạo) và đầu tư trực tiếp sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn so với trợ giá cho hàng nông
sản.
Tình hình hiện nay ở Việt Nam có nguy cơ phát triển theo hướng rõ ràng là bất
lợi cho nông nghiệp. Sản lượng có tăng thật, nhưng đó là do một vài yếu tố đặc biệt
hay nhất thời, như cơ chế khoán sản phẩm, khả năng mua được nhiều phân bón hơn
hay được cấp tín dụng nhiều hơn, và một số đầu tư vào nông nghiệp của nhà nước bắt
đầu có hiệu quả. Mặc dù vậy, ở các vùng ngoài đồng bằng sông Cửu Long, mức thò
trường sản lượng thóc bình quân trên đầu người rất khiêm tốn. So với cuối năm 1990,
giá thóc không thay đổi máy trong khi giá sinh hoạt đã tăng gấp đôi. Do mức thuế nông
nghiệp hiện đã thấp, có giảm thêm cũng không giúp được gì nhiều. Nếu như TGHĐ
Thực tế cứ tiếp tục bò nâng cao như hiện nay, các khoản đầu tư cho nông thôn sẽ mất
dần tác dụng và sản xuất ở nông thôn sẽ suy giảm.
Không phải chỉ có sản xuất nông nghiệp bò ảnh hưởng trong trường hợp này.
Nhiều nhà máy cũng khó mà cạnh tranh với hàng nhập vì phải trả lương cao hơn cho

×