Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.91 MB, 80 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NĂM 2021
<small>Thuộc nhóm ngành khoa hoc: XH</small>
<small>trangDANH MỤC TU VIET TAT .occecceccccccccsccssesscssessessesscssesscsecsecssesecsecsscsesstsstssssstsatsstsansstestsetsessesseeaseasees 0</small>
<small>1. Tinh cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...--- ¿2 SseExc2EEEEExEEEEEEEEEEEEEEEErkerkrrrrrrrrrvee 1</small>
<small>2. Tổng quan tình hình nghiên €ứu...- - 2-2 ®S®+SE£E£+EE£EE£EE£E££EeEEeEEEExeExerxerxerxerkerxerkrrerrrree 3</small>
<small>3. Mục tiêu của đề tài...----¿- s21 E1 1 1211211211111 1111 1111111111 11.1111111 1111 1111111 Errreg 54. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu...-- -- 2-2 ©5£++£+x+EEt+x£Exerxezkerrxerxerxerrrerxeee 6</small>
<small>4.1. Đối tượng nghiên CỨU... -- - ¿5 St ©s+SE£SE£EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEETErrrrrrrrree 64.2. Phạm vi nghién CỨU...- - --- Ă E1191 11 TH Họ TH TT TH HH 65. C&ch sa. nẽ ... 66. Phương pháp nghiên CỨU...- - -- Ăn HT HH HT HH 7Chương 1. TOI GIẾT HOẶC VỨT BO CON MỚI DE TRONG BỘ LUAT HÌNH SỰ NĂM 2015</small>
<small>"¬— . .. . e.-a... 81.1. Dau hiệu pháp lý của tội giết hoặc vứt bỏ com mới đẻ...- ees eesessessessessessessessessesseees 81.1.1. Dấu hiệu khách thể của tội 7...0 PP57®eh.-ăđđ18 101.1.2. Dấu hiệu mặt khách quan CUC COL DỢIH... ST TH TH HH 111.1.3. Dấu hiệu chủ thể của tội JpiẠIH... - + 2-5 St SE‡SE$EE‡EEỀEEEEEEEEEEEEEE2E1211211211211711111111 1111 xe, 15</small>
<small>1.1.4. Dấu hiệu mặt chủ GUGM CUG 101 PHẬT: caoncaatiaStiEBi1A4125581018138185.81135E330533551480055855114510E1543101588 221.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội giết hoặc vứt bỏ con mớiC7 (Seen tne erence trees rere eee reer rrer cer ret rerrer eee eee tecer terre terre rrr terre rence rere rect cre terete Te 28</small>
<small>1.2.1. Thực tiễn xét xử về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo quy định của Bộ luật Hình sự nămXÃ L1. casas ttt sc 8 CCA ERE SE081818 0868035 ENCE a UC RRR AR RT G088 28</small>
<small>1.2.2. Một số vướng mắc trong xét xử tội giết hoặc vứt bỏ con mới Ab ...---s--s+©s+©cscsecse+ 44Chương 2: SO SANH TOI GIẾT HOẶC VUT BO CON MỚI DE TRONG QUY ĐỊNH CUABỘ LUAT HÌNH SU VIET NAM VỚI PHÁP LUẬT MOT SO QUOC GIA VÀ BÀI HỌCEETINIET, Do: BÀI EiT 1. eet eee i a ie i et aa i le i al 542.1. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới dé trong pháp luật một số quốc gia ...--.--- 5+ 54</small>
<small>2.1.1. 71.6 in gen n6 5xTT...à.),HỤH,...., 542.1.2. Phap luGit Lién barig NG n6 nốố.ốốốỐốỐốẦốỐẦỐ.ẦẦ... 572.1.3. Phapp lUGit CANA. an ố.ốốốốốỐốốốỐố.ố... 592.1.4. Pháp luật Nhật ĐBẢH... HH Họ nọ ng 622.2. Bai hoe Kinh nghiệm Cho VIỆt Natit seccscscsscsccenesseecersneesecresecesenssenenaeeunerenseerencnecemernssenmenessents 664800.0000757 ... 71IV.)8010000.790/84.7 (01 ...-...ÔỎ 74</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền sống là quyền tuyệt đối, cơ bản, quan trọng nhất đối với con người và đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật ở nhiều cấp độ. Cơ sở pháp lý về quyền con người bao gồm hai thành phần chính là pháp luật quốc tế về quyền con người và pháp luật quốc gia về quyền con người. Ở cấp độ quốc tế, quyền sống của con người còn được ghi nhận tại Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, theo đó đã xác định trách nhiệm quốc gia khi tham gia cơ chế bảo đảm quyén con người cũng như là cơ sở pháp lý quốc tế để xác định trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ và thúc đây sự phát triển của các quyền con người trên phạm vi tồn cầu. Bên cạnh đó, trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 tại Điều 3 quy định: “Moi người déu có quyên song, tự do và an tồn cá nhân”. Tun ngơn thé giới về Nhân quyền là nền tang cho hai công ước cơ bản về nhân quyền cùng được Dai hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào năm 1966 cũng như các văn kiện quốc tế khác về nhân quyền trong nhiều lĩnh vực được thông qua sau này. Với những giá trị phố quát và vĩnh cửu của mình, Tun ngơn là một văn kiện chính trị, thể hiện cam kết chung của các quốc gia, đặc biệt đối với những quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc.
Quyền sống của con người còn được ghi nhận tại Hiến pháp của mỗi Quốc gia. Tại Điều 19 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Mọi người có qun sống. Tính
<small>mạng con người được pháp luật bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trái luật`.</small>
Có thể thấy, quyền sống quy định trong Hiến pháp đồng nghĩa với việc ràng buộc nghĩa vụ của Nhà nước phải bảo vệ sự sống của con người mọi lúc, mọi nơi và chỉ có thê bị hạn chế trong một số trường hợp cần thiết theo Luật định. Ngoài ra, trong BLHS năm 2015 cũng đã quy định trong những điều luật cụ thể về chế tài xử lý đối với những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
Con người là đối tượng được pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng bảo vệ, trong đó trẻ em là một trong các đối tượng được bảo vệ đặc biệt. Tại Điều 6 Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em đã quy định: “Moi tré em đều có qun được sống. Các Chính phủ cân phải làm tat cả những việc có thể dé dam bảo rằng trẻ em được sống va phát triển hết tiềm năng của mình. ”. Chính vì vậy, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật với nhiều quy định nhằm bảo vệ trẻ em như: Điều 37
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Hiến pháp 2013 có quy định: “7rẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc, và giáo duc. Nghiêm cam xâm hại, hành ha, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyển trẻ em”. Luật Trẻ em năm 2016 cũng quy định đầy đủ, cụ thé về quyền, bốn phận của trẻ em, nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bốn phận của trẻ em. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em và nghiêm cấm hành vi bỏ rơi trẻ em được quy định tại Điều 7 Luật này!. Ngồi Luật Trẻ em thì cịn có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật nhằm đảm bảo việc bảo vệ trẻ em như các Nghị định, thông tư, chỉ thi....
Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, các tội phạm xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người có chiều hướng gia tăng về số lượng với thủ đoạn ngày càng tính vi, xảo quyệt, man rợ. Đặc biệt, các tội phạm liên quan đến đối tượng tác động là trẻ em ngày càng phổ biến, trong đó có tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Trong thời gian gần đây, trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phó, liên tiếp xảy ra những vụ việc trẻ sơ sinh bị bỏ rơi. Theo thống kê, số trẻ sơ sinh bị bỏ rơi đang gia tăng với số lượng ngày càng lớn. Chỉ trong 5 năm gan đây, có hơn 40.000 trẻ sơ sinh bị bỏ roi.? Điều đáng nói, con số này có xu hướng tăng theo từng năm. Những vụ việc trên đã để lại những hậu quả nghiêm trọng không chỉ liên quan đến sức khỏe, tâm lý thậm chí là tính mạng của trẻ sơ sinh — đối tượng được pháp luật ưu tiên bảo vệ mà còn làm day lên nhiều mối lo ngại trong dư luận và xã hội. Nguyên nhân của hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ có thé xuất phat từ nhiều nguyên nhân khách quan như hủ tục lạc hậu, điều kiện kinh té...va nguyên nhân chủ quan như mê tín di đoan, gap vẫn dé tâm lý sau sinh...Song chung quy lai, dù với bat cứ nguyên nhân nào, hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ đã xâm hại nghiêm trọng đến sức khỏe, tâm lý, tính mạng của trẻ sơ sinh và đáng lên án hơn chính là xâm hại đến quyền sống của con người.
Những quy định pháp luật hiện nay liên quan đến hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trong đó, hành vi vứt
<small>1 Điều 7 Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em 2004 nghiêm cắm Cha mẹ bỏ rơi con, người giám hộ bỏ rơi trẻ</small>
<small>em được mình giám hộ.</small>
<small>? Báo động thực trạng vứt bỏ con ruột tại: (truy</small>
<small>cập lúc 20h36” ngày 17/01/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">bỏ con mới đẻ được quy định tại Điều 22 Nghị định 144/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Ngồi ra, hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định tại Điều 124 BLHS năm 2015 sửa đổi, b6 sung năm 2017. Tuy nhiên, khi áp dung các quy định trên vào thực tiễn còn gặp nhiều vướng mắc, chưa phát huy triệt để hiệu quả trong việc răn đe, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng phạm tội. Trong một sỐ trường hợp, các cơ quan có thầm quyền cịn lung túng, chưa có sự thống nhất trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Chính vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là điều thiết yếu dé khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định
<small>của pháp luật trong việc xử lý tội phạm này.</small>
Mặt khác, dé tìm ra những mặt thiếu sót và hướng hoan thiện cho quy định của pháp luật về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ thì việc so sánh các quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam với quy định trong pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới về loại tội phạm này là điều cần thiết. Bởi thông qua quy định pháp luật nước ngồi, ta có thể chọn lọc những điểm ưu việt và có thê học hỏi kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia dé hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về tội giết hoặc vứt bỏ
<small>con mới đẻ.</small>
Nhận thức được từ những thực trạng trên, nhóm chúng em lựa chọn thực hiện đề tài: “Tội giết hoặc vứt bó con mới dé trong BLHS năm 2015 — So sánh với pháp luật hình sự của một số nước trên thé giới” làm đề tài nghiên cứu khoa học năm 2021 của
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
<small>Cân phải khăng định răng nhiêu nội dung liên quan đên lý luận vê áp dụng pháp</small>
luật hình sự nói chung và một sơ vân dé vướng mặc trong thực tiễn xét xử tội giêt hoặc
<small>vứt bỏ con mới đẻ ở nước ta nói riêng đã được đê cập đên ở các mức độ khác nhau</small>
<small>trong sách báo pháp lý hình sự.</small>
Trước hết, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được đề cập trong một SỐ giáo trình, bình luận khoa học như: Gido frình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), quyền
<small>1 cua Trường Dai học Luật Ha Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2019; Gido trinh</small>
Luật hình sự Việt Nam (phan các tội phạm) của Trường Đại học Luật Thành phố Hỗ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức, năm 2019; cuốn Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đối, b6 sung 2017) do Trần Văn Biên, Đinh Thế Hưng chủ biên, Nxb. Thế Giới, 2019; cuốn Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi b6 sung năm 2017) do Lê Đăng Doanh, Cao Thị Oanh chủ biên, Nxb Hồng Đức, 2017...
Da phan ở trong những cuốn sách này, các nhà biên soạn dé cập chủ yêu tới những vấn đề lý luận chung nhất về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, phân tích một số điểm về khái niệm, đặc điểm, CTTP, hình phạt... từ đó đưa ra những kiến thức tổng quan nhất
<small>về tội phạm này cho người đọc nói chung, và những người nghiên cứu nói riêng.</small>
Bên cạnh đó, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ còn là đề tài nghiên cứu trong các luận văn thạc sĩ luật học như: luận văn 7ô¡ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong luật hình su Việt Nam của tác giả Doan Thị Vân bảo vệ tại Khoa Luật Dai học quốc gia Hà Nội năm 2015; luận văn Toi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hơ Chi Minh của tác giả Nguyễn Đình Đơng Qn bảo vệ tai Học viện Khoa hoc xã hội năm 2017; luận văn 7ô¡ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong Bộ luật hình sự năm 2015 của tắc giả Trần Anh Duy bảo vệ tại Trường Đại học Luật
<small>Hà Nội năm 2019...</small>
Ở các cơng trình nghiên cứu này, tác giả đã dựa trên những vấn đề lý luận chung trong các giáo trình, sách chun khảo và nhiều ngn tài liệu để nghiên cứu chuyên sâu hơn về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Từ đó họ so sánh quy định trong BLHS 2015 về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ với các BLHS của Việt Nam những năm về trước đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm và có những kiến nghị rất sâu sắc.
Ngồi ra, trên những tạp chí chun ngành luật, cũng có nhiều bài báo nghiên cứu về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được đăng tải như: bài “Tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Văn Báu đăng trên Tạp chí Luật học sé 2 năm 2000; bai “Một số van dé cần chú ý khi áp dung tội giết con mới dé trong bộ luật hình sự năm 1999” của tác giả Đặng Thị Thu Hiền đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề 07 năm 2010; bài “Ban về dấu hiệu cau thành tội giết con mới đẻ theo Điều 94 Bộ luật hình sự năm 1999 và một số vấn đề cần lưu ý khi định tội danh” của tác giả Trần Minh Hưởng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 22 năm 2010; bài “Một số nhận thức lý luận về tội giết người hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong Bộ luật Hình
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">sự” của tác giả Đặng Thu Hiền, Đặng Trần Hùng đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số 18 năm 2016; bài “Giết hay vứt bỏ con mới đẻ” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Luật sư Việt Nam số 6 năm 2020...
Các bài tạp chí này tuy vẫn đa phần mang tính chất lý luận, nhưng đã thể hiện được những quan điểm khác nhau của mình đối với tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Mỗi bài đăng đều bộc lộ sự tâm huyết tìm tòi, nghiên cứu của các tác giả để làm rõ một số van đề vướng mắc cịn tơi tại trong tội này khiến người đọc dé dàng hình dung
Đây là những tài liệu vơ cùng có ý nghĩa đối với áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xu tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ cũng như hoạt động nghiên cứu của nhóm chúng em. Tuy nhiên, các cơng trình trên đa phần là những cơng trình cung cấp các kiến thức lý luận chung trong khoa học pháp lý hình sự, phân tích các vấn đề cơ bản liên quan đến tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ hoặc có những cơng trình nghiên cứu về
<small>tội phạm này theo quy định BLHS năm 1999.</small>
Không chỉ vậy, trong các cơng trình khoa học này gần như chưa có nội dung nao đặt những quy định của pháp luật Việt Nam về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong tương quan so sánh với quy định của một số quốc gia trên thế giới và định hướng điều chỉnh hành vi của con người để giải quyết những van dé thực tiễn nảy sinh trong xã
hội cũng như trong công tác xét xử. Hơn nữa, các đánh giá thực tiễn luôn được xác
định và giới hạn ở thời điểm hoặc giai đoạn nghiên cứu nhất định, như vậy một số đề
<small>3. Mục tiêu của dé tài</small>
Mục tiêu nghiên cứu của dé tài là đề xuất các kiến nghị để góp phần hồn thiện quy định của BLHS Việt Nam về Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trên cơ sở nghiên cứu các quy định về tội phạm này trong luật hình sự một số quốc gia trên thế giới cũng
như đánh giá thực tiễn xét xử tội phạm này ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu 4.1. Đối twong nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong BLHS của Việt Nam; các quan điểm của các nhà khoa học về tội phạm này trong các cơng trình nghiên cứu khoa học đã công bố; các số liệu, bản án về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ cũng như các quy định về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo quy định pháp luật của một số nước trên thé giới như Nga, Nhật Bản, Canada và An <small>Độ.</small>
<small>4.2. Phạm vi nghién cứu</small>
Đề tài tập trung nghiên cứu về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định tại Điều 124 BLHS năm 2015 ở phạm vi không gian và thời gian nhất định. Cụ thé:
Về không gian, đề tài nghiên cứu tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ qua các số liệu, bản án về tội phạm này được thu thập trong phạm vi cả nước.
Về thời gian, đề tài nghiên cứu tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được quy định trong BLHS năm 2015, bên cạnh đó tiễn hành thu thập và tìm hiểu một số vụ án, bản án trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây (từ năm 2010 đến năm 2019)
5. Cách tiếp cận
Đề tài nghiên cứu tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ dưới góc độ luật hình sự. Đề có thé làm rõ van đề, nhóm chúng em nghiên cứu tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ quy định tại BLHS năm 2015 đưới góc độ pháp lý cũng như cả trên thực tiễn. Cu thé:
- Đề tài tiếp cận từ góc độ pháp lý đến thực tiễn, trong đó sẽ làm rõ khái niệm, các dau hiệu pháp ly được quy định tại BLHS năm 2015 về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Sau đó liên hệ thực tiễn xét xử tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ thơng qua việc nghiên cứu, bình luận một số bản án và làm rõ hơn những vướng mặc và bắt cập trong việc áp dụng quy định của pháp luật về tội phạm này.
- Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu những quy định về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong BLHS năm 2015 của Việt Nam, sau đó có sự so sánh quy định về tội phạm này trong pháp luật của một số quốc gia khác dé rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt <small>Nam.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Trước hết, dé tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa Mác — Lénin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc nghiên cứu. Đồng thời sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp bình luận, phương pháp thống kê...
Trong đó phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp bình luận được sử dụng ở chương 1 dé nghiên cứu về van đề pháp lý của tội giết hoặc vứt bỏ con
<small>mới đẻ theo quy định tại BLHS năm 2015.</small>
Tiếp đó, dé tài sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp tong hợp, phương pháp bình luận ở chương 2 dé so sánh quy định về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo quy định tại BLHS năm 2015 với pháp luật của một số quốc gia khác nhằm rút ra những điểm tương đồng và khác biệt. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>Chương 1</small>
TOI GIẾT HOẶC VỨT BO CON MỚI DE TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM <small>2015</small>
1.1. Dấu hiệu pháp lý của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
Quyền sống là một quyền tự nhiên, cơ bản của con người. Ở Việt Nam, quyền sông đã được Chủ tịch Hồ Chi Minh khang định ngay trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, thông qua việc nhắc lại một mệnh đề trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tat cả mọi người déu sinh ra có qun bình dang. Tạo hóa cho ho những qun khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyên ấy, có quyền được sống, quyên tự do và quyên mưu cau hạnh phúc". Trong các bản Hién pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 về trước, quyền sống không được đề cập như một quyền cụ thể, mà chỉ được thể hiện thông qua các quyền bat khả xâm phạm về thân thé, tính mang, sức khỏe, danh dự, nhân pham của công dân. Cho đến bản Hiến pháp năm 2013, quyền này được nêu trực tiếp trong Điều 19 và được gắn với sự bảo hộ pháp lý về tính mạng: “Mọi người có qun sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt tính mạng trải luật”. Ngồi quy định này, quyền sống hiện cịn được bảo vệ qua một số điều khoản khác của Hiến pháp năm 2013 và trong một số đạo luật như: BLHS, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ
<small>em... và nhiêu văn bản dưới luật khác.</small>
Như vậy, từ trước tới nay, quyền nhân thân, đặc biệt là quyền sống của con người luôn là đối tượng bảo vệ hàng đầu của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Vì vậy, tất cả những hành vi xâm phạm đến tính mạng con người nói chung và trẻ em nói riêng thì cần thiết phải bị trừng trị nghiêm khắc bằng pháp luật
<small>hình sự.</small>
Người xưa có câu: “Hồ dit khơng ăn thịt con”. Vậy mà có những người me lại nhẫn tâm tước đi mạng sống của những đứa trẻ do chính mình đẻ ra. Tuy nhiên, có may ai thực sự muốn cướp mat cơ hội sống của đứa con mà ho đã mang nặng dé đau như thế. Đơi khi, do hồn cảnh khách quan bat đắc dĩ khiến họ phải đi tới quyết định cuối cùng như vậy. BLHS năm 2015 quy định rõ ràng trách nhiệm hình sự của người mẹ có hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Mặc dù hành động của họ xuất phát từ
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">những ly do đáng được cảm thông, nhưng vẫn phải khang định rằng đó là một tội ác
<small>phải được pháp luật xử lý.</small>
Do đó các nhà làm luật cũng đã cân nhắc một cách thấu đáo, kỹ lưỡng dé đưa ra những quy định hợp tình hợp lý nhất cho những trường hợp này. Cụ thê được quy định tại Điều 124 BLHS năm 2015:
1. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng né của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nê của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày tuổi dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Từ quy định những đặc trưng cơ bản của điều luật, ta có thé rút ra khái niệm về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ như sau: “76i giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là hành vi của người mẹ do ảnh hưởng nặng né của tư tưởng lạc hậu hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con do mình đẻ ra trong bảy ngày tuổi hoặc vứt bỏ con do mình đẻ ra trong bảy ngày tuổi dan đến hậu quả đứa trẻ chết. ”
Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là trường hợp đặc biệt của tội giết người nên ngoài những dấu hiệu riêng sẽ có những dấu hiệu pháp lý tương tự với tội giết người. BLHS năm 1985 trước đây quy định tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ chung với tội giết người và là CTTP giảm nhẹ của tội phạm này. Theo khoản 4 Điều 101 về tội giết người, BLHS năm 1985 quy định: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng n của tu tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con moi đẻ hoặc vứt bo con mới đẻ dân đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai nam”. Tuy nhiên, đến BLHS năm 1999, tội phạm này được tách ra thành một điều luật độc lập và giữ nguyên cho đến hiện nay.
Đề làm rõ những đặc trưng cơ bản của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, ta cần phân tích CTTP của tội danh, bao gồm 04 yếu tơ đó là khách thể của tội phạm, chủ thể
<small>của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.</small>
<small>3 Trần Anh Duy (2019), Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong Bộ luật Hình sự năm 2015, Luận văn thạc sĩ,</small>
<small>Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.8</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">1.1.1. Dấu hiệu khách thể của tội phạm
Mỗi tội phạm đều được cấu thành bởi bốn yếu té cơ bản đó là khách thé của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Yếu tố đầu tiên, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự
<small>bảo vệ và bị tội phạm xâm hại!</small>
Khách thể bảo vệ của luật hình sự và khách thê của tội phạm tuy đều là quan hệ xã hội nhưng lại có sự khác nhau. Khách thê bảo vệ của luật hình sự là các quan hệ xã hội được luật hình sự xác định cần bảo vệ, đó là những quan hệ xã hội nêu tại Điều 8 của
<small>BLHS năm 2015. Chỉ khi quan hệ xã hội này bị xâm hại và hành vi xâm hại có tính</small>
nguy hiểm đáng kê cho xã hội, bị coi là tội phạm thì quan hệ xã hội đó được coi là khách thể của tội phạm.
Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là trường hợp giảm nhẹ đặc biệt của tội giết người. Do đó, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ nói riêng và tội giết người nói chung là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến khách thé là quyền sống của
<small>con người. Bên cạnh đó, tội phạm cịn xâm phạm nghiêm trọng đạo đức xã hội, đó làtình mâu tử thiêng liêng luôn được xã hội coi trọng và đề cao.</small>
Đề xâm hại khách thé của tội phạm, thông thường hành vi phạm tội sẽ tác động đến đối tượng nhất định. Tuy gần với khách thể nhưng đối tượng tác động của tội phạm khác khách thé của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận của khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động và qua đó gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ'. Đối tượng tác động
của tội phạm gồm ba loại đó là con người, đối tượng vật chất và hoạt động bình thường của chủ thể.
Theo đó đối tượng tác động của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là con người, cụ thé là những đứa trẻ mới được sinh ra trong vòng 07 ngày tuổi và còn sống. Nếu khi bị xâm hại, đứa trẻ đã qua 07 ngày ti thì khơng cấu thành tội này. Khi đó người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Ví dụ: Vụ án mẹ giết con nhỏ gần 01 tuôi tại thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2013, chị N.T.H.A (26 tuổi, ngụ xã Nhơn Đức, huyện Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh) cùng với chồng là anh P.N.T kết hơn và có 01 con gái. Đến năm 2014, do ghen tng, T dọa ly hơn vợ. Nghĩ thay hồn cảnh quá túng quan, cha tai biến nặng, mẹ buôn bán gánh vác cả gia đình, ban thân lại bị thiếu máu não hồng cầu bam sinh, A nảy sinh ý định giết con rồi tự tử dé có thể tiếp tục làm mẹ con ở một thé giới khác. Ngày 16/10/2014, khi cháu bé mới gan 1 tuổi, A dùng gối đè mạnh vào mặt và mũi con trong khi cháu bé đang ngủ làm cháu bé ngạt thở chết. Sau đó A lấy dao lam cắt mạnh vào cổ tay và cơ chân mình. Máu chảy ra ít, A tiếp tục treo cô bằng sợi dây điện quấn vào cửa số, đồng thời siết chat day điện nhưng không chết.5
<small>Trong vụ việc này, ban thân A cũng có những lí do đặc biệt, hồn cảnh éo le màgiêt con mình. Tuy nhiên cháu bé đã gân 1 ti nên hành vi nay của A câu thành tội</small>
giết người và bị tuyên 09 năm tù giam.
1.1.2. Dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm
Tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngồi thé giới khách quan mà chúng ta có thể nhận biết được. Những biểu hiện đó được tổng hợp tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gom những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc ton tại bên ngoài thé giới khách quan”
Mặt khách quan của tội phạm bao gồm những dấu hiệu sau: hành vi khách quan của tội phạm (hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội); hậu quả thiệt hại (thiệt hại mà hành vi khách quan của tội phạm đã gây ra hoặc đe dọa gây ra cho khách thê của tội phạm); mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả thiệt hại; các biéu hiện bên ngoài khác của tội phạm (thời gian phạm tội, dia điểm phạm tội, phương tiện phạm tội,
<small>hồn cảnh phạm tội, cơng cụ phạm tội... ).</small>
<small>° Mẹ giết con nhỏ deo đăng ban án lương tâm tại địa </small>
<small>chỉ: (truy cập lúc 23h35” ngày 29/01/2021)</small>
<small>7 Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phan chung, Nxb. Công an nhân dân,</small>
<small>Hà Nội, tr.116</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Dé phân tích, làm sáng tỏ mặt khách quan của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo quy định tại Điều 124 của BLHS năm 2015, ta đi sâu phân tích những dấu hiệu
<small>Thứ nhât, vê hành vi khách quan: hành vi nói chung cũng nhự hành vi khách quancủa tội phạm nói riêng được hiếu là biêu hiện của con người ra bên ngồi thê giới</small>
khách quan dưới hình thức cu thé nhằm đạt mục đích có chủ định va mong muốn.Š
<small>Theo luật hình sự Việt Nam thì hành vi khách quan của tội phạm có những đặc</small>
điểm: tính gây thiệt hại cho xã hội, tính được quy định trong luật hình sự và tính có ý thức và ý chí. Đối với tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, hành vi khách quan của tội phạm gây nguy hiểm cho xã hội chính là những hành vi có khả năng xâm hại tới mạng sống của những đứa trẻ mới sinh. BLHS năm 2015 đã tách riêng hai hành vi độc lập đó là giết và vứt bỏ con mới đẻ với những khung hình phạt khác nhau.
Hành vi giết con mới đẻ được hiểu là hành vi của người mẹ cố ý tước đoạt trái pháp luật tính mạng của đứa trẻ mới sinh trong 7 ngày tuổi. Hành vi này vừa có thé được biểu hiện dưới hình thức hành động phạm tội như bóp mũi, bóp cơ cho ngạt thở; thả con từ trên cao xuống; dìm xuống nước; đánh đập... vừa có thể được biểu hiện
<small>dưới hình thức khơng hành động phạm tội như khơng chăm sóc cho con, khơng chocon bú dân đên đứa trẻ chết.</small>
Vị dụ 1: A (21 Tuổi), sinh được một bé gái là cháu B, khi sinh ra cháu B bi di tật
quá nặng, do không muốn con khổ cũng như gia đình chăm sóc vất vả, chị A đã lấy tay bịt mũi cháu B dẫn đến ngạt thở. Trong ví dụ này, hành vi khách quan ma A đã thực hiện là dùng tay bịt mũi làm ngạt thở con mình, gây nên cái chết cho cháu bé. Hành vi này được thực hiện bằng hình thức hành động phạm tội.
<small>8 Trường Đại học Luật Hà Nội, (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phan chung, Nxb. Công an nhân dân,</small>
<small>Hà Nội, tr.118</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>được mà chét, con chi thì bi kiệt sức, phải đưa vào viện cap cứu. Trong ví dụ này, hành</small>
vi khách quan mà T đã thực hiện được thể hiện dưới dạng không hành động phạm tội.
<small>Hành vi vứt bỏ con mới đẻ được hiệu là hành vi của người me tách đứa trẻ mớisinh trong 07 ngày tuôi ra khỏi sự chăm sóc, ni dưỡng của mình. Hành vi này lnđược thực hiện dưới hình thức hành động phạm tội như vứt con ngồi cơng chùa, khu</small>
dân cư, trong bệnh viện hay ngồi đường phó...
Ví dụ: Chị K (23 tuổi), do chồng chị đã mat và bản thân mắc bệnh hiểm nghèo khơng sống được lâu, gia đình cũng khơng có điều kiện ni dưỡng con mình, chị quyết định bỏ con mình mới sinh được 06 ngày tuổi ở bên đường ít người qua lại. Tuy nhiên do di truyền căn bệnh của chị nên khi sinh ra cháu bé đã có dấu hiệu nguy kịch. Do khơng được cấp cứu kịp thời, cháu bé đã tử vong sau đó vài giờ. Hành vi khách quan mà chị K thể hiện là hành động vứt bỏ cháu bé ngoài đường, tuy bản thân cháu bé đã bị bệnh nhưng việc chị K vứt bỏ cháu bé cũng là lí do dẫn tới cái chết của cháu.
Thứ hai, về hậu quả thiệt hại: hậu quả thiệt hại là các thiệt hai do hành vi khách quan gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự và cũng là khách thé của tội phạm.”
Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo quy định của BLHS năm 2015 là tội có CTTP vật chất nên hậu quả thiệt hại là dấu hiệu bắt buộc được quy định trong CTTP. Hậu quả của tội phạm này là dạng thiệt hại về thé chất, đứa trẻ chết. Khi hậu quả xảy ra, tội phạm sẽ được coi là hồn thành. Đứa trẻ có thể chết do hành vi của người mẹ hoặc có thể là vì những ngun nhân khác như bị cơn trùng cắn, súc vật căn, đói rét... Tuy nhiên, nói tội phạm có CTTP vật chất thì điều đó khơng có nghĩa là chỉ khi nào hậu quả xảy ra thì hành vi mới cấu thành tội phạm. Nói một tội có CTTP vật chất, điều này chỉ khăng định rằng chỉ khi nào hậu quả thiệt hại xảy ra thì tội phạm đó sẽ được xác định ở giai đoạn tội phạm hoàn thành. Đối với tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, nếu hậu quả đứa trẻ chết không xảy ra thì tùy từng dạng hành vi, người mẹ tùy từng trường hợp có thê vẫn bị truy cứu TNHS về tội phạm này. Cụ thể: Đối với hành vi giết con mới đẻ, nếu đứa trẻ chưa chết, người mẹ có thê bị truy cứu TNHS về tội phạm này ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc giai đoạn phạm tội chưa đạt tùy theo hành vi họ đã
<small>? Trường Dai học Luật Hà Nội, (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phan chung, Nxb. Cơng an nhân dân,</small>
<small>Hà Nội, tr.127</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">thực hiện. Ngược lại, đối với hành vi vứt bỏ con mới đẻ bắt buộc phải có hậu quả đứa trẻ đã chết thì hành vi mới có thể CTTP. Trường hợp vứt bỏ mà đứa bé không chết, tức là hậu quả khơng xảy ra thì hành vi của người mẹ không cấu thành tội phạm này.!9
Thứ ba, khi nghiên cứu về tội phạm, ta phải nghiên cứu đến mỗi quan hệ nhân quả
Vi dụ vụ việc như sau: Sản phụ đẻ rớt rồi nhét con vào túi nilon cột chặt
Khoảng 11h30 ngày 24/3, bệnh viện Từ Dũ (thành phố Hồ Chi Minh) tiếp nhận sản phụ có tên L.T.P.T (26 tuổi, quê ở Phú Yên, tạm trú tại quận 8, thành phố Hồ Chí Minh) đến khoa Cấp cứu nói rằng mình sắp chuyền da. Sau khi thăm khám, các bác sĩ phát hiện sản phụ này bị cháy máu vùng đưới nên chuyên lên khoa Sinh. Tại đây, bác sĩ phát hiện chị T. đã sinh rồi, chi cịn dây rén và bánh nhau nhưng khơng thay em bé. au khi các bác sĩ tra hỏi, sản phụ T. khai đã sinh con ở nhà vệ sinh công cộng bến xe buýt gan chợ Thái Binh (Quan 1). Theo lời chi T., lúc 11h15, chi đẻ rớt bé trai nặng 4kg. Sau đó, chi lay day ron quan cơ con 3 vịng, bọc bé trong 2 áo cho vào túi nilon cột chặt miệng, bỏ vào ba lô rồi đi xe ôm vào bệnh viện. Khi nữ hộ sinh lay bé ra, moi người hốt hoảng khi thay em bé tím ngắt, tim ngừng đập, dây rốn quấn nhiều vịng quanh cơ. Cháu bé được chun ngay đến Khoa Dưỡng nhi dé các bác sĩ có gắng hồi sức tích cực. Tuy nhiên, bé đã tử vong vào 13h30 ngày 25/3. Được biết, chị T đã có chồng và một con, do hoan cảnh khó khăn chị không thể nuôi thêm con, nên đã nhẫn
<small>tâm bỏ con theo cách trên. !</small>
Trong vụ việc nói trên, cháu bé sau khi sinh ra van còn sống, hành vi dùng dây rốn quấn nhiều vịng quanh cơ, sau đó bỏ cháu bé vào trong túi nilon buộc chặt rồi bỏ vào balo là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng tím tái do suy hơ hấp cấp dẫn đến hậu
<small>10 Nội dung này sẽ được nhóm tác giả giải thích rõ hơn khi phân tích về lỗi của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">quả tử vong của cháu bé. Do đó người mẹ tên L.T.P.T phải chịu TNHS đối với hành vi
<small>của mình.</small>
khác. Ví dụ trong trường hợp trẻ mới sinh ra cịn sống nhưng sau đó bị tử vong do bệnh lý hay khơng được chăm sóc chu đáo do điều kiện khách quan, nên việc xác định vấn đề quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả thiệt hại là điều kiện cần thiết, tránh bỏ lọt người phạm tội cũng như làm oan người vô tội.
1.1.3. Dấu hiệu chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là người có NLTNHS bao gồm năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm theo luật định khi thực hiện hành vi phạm tội!?. Như vậy dé làm rõ về chủ thé của tội phạm cần nghiên cứu, trước hết cần làm rõ van đề về NLTNHS.
Trong BLHS năm 2015 quy định chủ thê của tội phạm có thê là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại. Tuy nhiên với tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ quy định tại Điều 124, chủ thé của tội giết hoặc vứt bỏ con mới dé chỉ có thé là cá nhân.
NLTNHS là khả năng của cá nhân có thé phải chịu các biện pháp TNHS khi thực
hiện hành vi trái pháp luật hình su'*. NLTNHS được xác định trên cơ sở năng lực lỗi
(năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vI) và độ tuôi. Năng lực nhận thức
được thê hiện ở khả năng tự nhận thức được tính gây thiệt hai của hành vi hay ý nghĩa xã hội của hành vi. Năng lực điều khiển hành vi thê hiện ở khả năng tự kiểm soát, điều chỉnh hành vi, thực hiện hành vi phù hợp với đòi hỏi của xã hội, của pháp luật. Về bản chất, đây là năng lực gắn với cá nhân, không phụ thuộc vào sự điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, dé xác định một chủ thé phải chịu TNHS, năng lực lỗi mới chỉ là điều kiện cần, ngoài ra, chủ thể cịn phải thỏa mãn mức ti chịu TNHS. Thơng thường, con người đều có năng lực nhận thức và năng lực điều khiến hành vi theo đòi hỏi của xã hội khi đạt độ tuổi nhất định.
Trong BLHS năm 2015 không quy định cụ thé về vẫn đề có NLTNHS mà chỉ quy định về tình trạng khơng có NLTNHS tại Điều 21 và tuổi chịu TNHS tại Điều 12. Tại
<small>1 Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hinh sự (Phân chung), Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội,</small>
<small>'4 Nguyễn Ngọc Hòa (2015), T6i phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.69</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Điều 21 BLHS năm 2015 quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi dang mắc bệnh tâm than, một bệnh khác làm mắt khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự". Tình trạng khơng có NLTNHS được xác định dựa trên hai dấu hiệu: y học (mắc bệnh) và tâm lý (khơng có hoặc khơng cịn năng lực nhận thức hoặc điều khiển hành vi). Chỉ khi đáp ứng đủ hai điều kiện trên thì một người mới bị coi là trong tình trạng khơng có
<small>NLTNHS. Bên cạnh đó, BLHS năm 2015 cịn quy định trường hợp tình trạng năng lực</small>
TNHS hạn chế. Đây là những trường hợp do mắc bệnh nên năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi của chủ thé bị hạn chế. Bản thân chủ thé thuộc trường hợp này khơng thuộc trường hợp khơng có điều kiện dé có lỗi tuy nhiên do tình trang năng lực lỗi hạn chế dẫn đến làm hạn chế mức độ lỗi của họ. Trường hợp này được BLHS năm 2015 quy định tại Điều 51 về các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Năng lực lỗi được hình thành thơng qua q trình tự nhận thức và giáo dục của cá
nhân, do đó, năng lực nay có sự phụ thuộc nhất định vào tuổi nhưng không đồng nhất với tuổi chịu TNHS. Pháp luật của các quốc gia thường quy định tuổi chịu TNHS cao hon so với ti cho phép người bình thường có năng lực nhận thức va năng lực điều khiển hành vi.!Š Từ đó, mặc dù BLHS khơng quy định trực tiếp về NLTNHS nhưng với việc quy định rõ về tuổi chịu TNHS tại Điều 12 thì có thể hiểu khi đạt đến độ tuôi chịu TNHS trong BLHS quy định thì chu thể đó mặc nhiên được coi là có năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của xã hội, trừ một số các trường hợp đặc biệt do mắc bệnh mà khơng có được khả năng đó.
Van đề tuổi chịu TNHS được quy định rõ tại Điều 12 BLHS năm 2015. Trong đó, tại khoản 1 quy định: “Người từ du 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS vỀ mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật có quy định khác.”. Như vậy có thê hiểu cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm với mọi tội phạm trừ trường hợp một số tội phạm được Bộ luật quy định khác về tuổi chịu TNHS như tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147)....Đây là các tội quy định chủ thé của tội phạm phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Theo Điều 124 BLHS năm 2015 về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, điều luật không dé cập đến một độ tuôi cụ thé mà khi đạt đến độ tudi đó, chủ thé phạm tội phải
<small>15 Nguyễn Ngọc Hịa (2015), Tơi phạm và cau thành tội phạm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015, tr.74</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">chịu TNHS đối với tội phạm này. Từ đó, có thể hiểu, chủ thê phạm tội của tội giết hoặc vứt bỏ con mới dé là người phải từ đủ 16 tuổi trở lên.
Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 12 quy định về trường hợp các tội có tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuôi đến dưới 16 tuổi. Điều luật trên quy định TNHS được đặt ra với người từ đủ 14 tuôi đến đưới 16 tuổi đối với các tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại một số các điều luật trong BLHS. Có thé thay,
thứ nhất, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ thuộc tội phạm ít nghiêm trọng căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015 quy định về phân loại tội phạm. Thứ hai, trong các điều luật mà chủ thể từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS được liệt kê tại khoản 2 Điều 12 khơng có tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124). Do đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội phạm này.
Tuy nhiên, với tình hình phát triển về mặt tâm sinh lý và van dé phổ cập giáo dục giới tính cho giới trẻ hiện nay, có thé thay xu hướng chủ thể của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ đang ngày càng trẻ hóa. Bên cạnh đó, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ thuộc tội phạm ít nghiêm trọng. Do đó, tùy trường hợp, chủ thê phạm tội này nếu chưa đủ 18 tuổi có thể được xem xét để miễn TNHS. Tại điểm a khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 quy định: “Đối với chủ thể từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các diéu 134, 141, 171, 248, 250, 251 và 252 cua Bộ luật nay và có nhiéu tinh tiét giảm nhẹ, tu nguyện khắc phục phân lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 Bộ luật này, thì có thể được miễn TNHS.”
Ngồi NLTNHS, chủ thé của một số tội phạm cịn đòi hỏi thêm dấu hiệu đặc biệt khác vi chủ thé chỉ có thé thực hiện được hành vi phạm tội của những tội này khi có những dấu hiệu d6!°. Chủ thé của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là chủ thê đặc biệt. Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 124 BLHS năm 2015 quy định chủ thé của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là “Người mẹ nào”. Ở đây, hiểu cụm từ “Người mẹ nào” là nữ giới, là người trực tiếp sinh ra nạn nhân. Trong trường hợp một người khác khơng phải là người mẹ sinh ra đứa trẻ đó như người bố, mẹ nuôi, bố nuôi, họ hàng, hàng xóm...thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ thì khơng phải chủ thể của tội
<small>phạm trên.</small>
<small>16 Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trinh Luật Hình sự Việt Nam (Phan chung), Nxb. Công an nhân</small>
<small>dân, Hà Nội, tr.143</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Ví dụ vụ án như sau: Đạt và chị Nguyễn Thị H. (SN 1996) trú tại huyện Nghi Lộc,
tỉnh Nghệ An làm công nhân cho một công ty trên địa bàn quen biết và dần có tình cảm với nhau. Ngày 19/12/2018, Đạt kết hơn với chị H 3 tháng sau, chị H. sinh hạ được một bé gái. Sau một thời gian, Đạt nghi chị H lấy của mình số tiền là 500.000 đồng nên hai người xảy ra xơ xát. Sau đó, chi H buôn bã bỏ ra sân trước cửa nhà bếp đứng khóc. Đạt bỏ vào phịng ngủ. Trong lịng vừa bức xúc việc bị mắt tiền, vừa nghỉ ngờ đứa con gái được 07 ngày tuôi không phải là con ruột của mình, Đạt lạnh lùng bế con gái đi ra và ném xuống giếng nước của gia đình. Khi phát hiện sự việc, gia đình và hàng xóm nhảy xuống vớt song cháu bé đã tử vong. Nguyên nhân bé gái tử vong được
<small>xác định là do ngạt nước. Ngày 31/7/2019, TAND tỉnh Nghệ An mở phiên tịa hình sự</small>
sơ thâm xét xử bị cáo Trương Văn Đạt (SN 1997) trú tại thôn Đồng Ban, xã Đồng Hợp, huyện Quy Hợp về tội giết người. !7
<small>Trong vụ việc trên, mặc dù người phạm tội có hành vi là ném đứa trẻ mới sinh</small>
trong 07 ngày tuôi xuống giếng dẫn đến việc đứa trẻ đó tử vong nhưng người phạm tội là bố đẻ của nạn nhân, không phải là người mẹ trực tiếp sinh ra đứa trẻ nên trong vụ việc trên Tòa án xét xử người phạm tội với tội danh giết người.
Tuy nhiên, khơng phải bất kì chủ thê “Người mẹ nào” cũng là chủ thể của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo quy định tại Điều 124. Chủ thé “Người mẹ nào” trong CTTP của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ phải thỏa mãn hai điều kiện: Một là, phải mới sinh con trong vòng 07 ngày. Hai là, chịu ảnh hưởng nặng né của tư tưởng lạc hậu
Trước hết, chủ thê của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ được pháp luật quy định là
người mẹ mới sinh con trong 07 ngày — đây là khoảng thời gian người mẹ dễ mang
tâm lý bat 6n, tinh than không ôn định sau sinh, có thé là tram cảm sau sinh hoặc rối loạn về tâm lý, tâm thần do chưa thích nghi được với hồn cảnh. Và chính điều đó làm người me dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài gây nên ức chế về tinh than dan đến việc thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ. Hay nói cách khác, trong khoảng thời gian trên, sự tác động của các yếu tố khách quan làm hạn chế khả năng kiểm soát, điều khiển hành vi của người mẹ. Do đó, pháp luật quy định chủ thê trên
<small>được chịu TNHS giảm nhẹ do hành vi mình gây ra là hợp lý.</small>
<small>!7 20 năm tù cho người cha ném con gái 7 ngày tuổi xuống giếng tại </small>
<small> (truy cập lúc 6h30” ngày07/02/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Ngoài ra, một yếu tố khác gắn liền với chủ thê của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là bị ảnh hưởng nặng né của tu tưởng lac hau hoặc bi hoàn cảnh khách quan đặc biệt chi phối. Cho đến nay, chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thé về yếu tố chịu ảnh hưởng nặng nè của tư tưởng lạc hậu hay hoàn cảnh khách quan đặc biệt. Trong thực tiễn xét xử, việc xác định yếu tổ ảnh hưởng bởi tư tưởng lạc hậu hay xác định hoàn cảnh khách quan đặc biệt chưa có sự thống nhất, đồng bộ. Trong Nghị quyết số 04-HDTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS, đưa ra một số ví dụ mơ tả hai dấu hiệu trên: “Người mẹ nào chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu (như: khiếp sợ trước dư luận chê bai về việc mang thai và đẻ con ngoài giá thú, hoặc trước dư luận khắc nghiệt của nhà chồng cho đẻ con gái là tai họa...) hoặc bị hoàn cảnh khách quan đặc biệt chi phối
<small>(như: đứa trẻ sinh ra có dị dạng...)'Š”. Tư tưởng lạc hậu là tư tưởng sản sinh ra trong</small>
xã hội cũ, còn tồn tại trong xã hội mới, đồng thời là những tư tưởng phản tiễn bộ nảy
<small>sinh trong quá trình xây dựng xã hội mới'?. Đây là những tư tưởng hình thành từ xa</small>
xưa, cịn tồn tại đến ngày nay và khơng cịn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay. Có thé kế đến như tư tưởng trọng nam khinh nữ, mê tín dị đoan, hủ tục “Sinh đôi giết một???, hủ tục “Chửa hoang trong rừng?!”, hủ tục “Chôn sống con?””.... Những tư tưởng, hủ tục lạc hậu trên tồn tại một cách “thâm căn cô đế” trong tiềm thức của người dân tại một số vùng hẻo lánh hoặc khu vực có mức độ pho cập giáo duc chưa cao. Những điều này gây tác động tiêu cực đến tinh thần của người mẹ - đối tượng vốn đã bị áp lực về tâm lý sau sinh như gây tâm lý hoang mang, sợ hãi, ám ảnh, không tự chủ, không được tự do về mặt ý chí và điều này như một động cơ làm thúc day hanh vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ của người mẹ. và những hồn cảnh khách quan đặc biệt chi phối có thê là điều kiện kinh tế không đủ chỉ trả cho việc nuôi con, sức khỏe thể chất và tinh thần không được ồn dinh....
<small>'8 Chương 2 Điều 1 điểm b Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NG ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quyđịnh trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự</small>
<small>!9 Tìm hiểu nội dung Điều 124 BLHS năm 2015 về “Tội giết hoặc vứt bỏ con mới dé tại:</small>
<small>https://conganquangbinh. gov. vn/tim-hieu-noi-dung-dieu-124-blhs-nam-2015-ve-toi-giet-hoac-vut-bo-con-moi-đe/ (truy cập lúc 19h21” ngày 09/02/2021)</small>
<small>20 Khắc nghiệt "sinh đôi giết một" tại: (truy cập lúc</small>
<small>19h30” ngày 09/02/2021)</small>
<small>?!Sinh con trong rừng sâu vì hủ tục tại: </small>
<small> (truy cập lúc 20h10” ngày 09/02/2021)</small>
<small>Vu chôn sống con: Luật nhân văn với người mẹ ra sao? tại: </small>
<small> (truy cập lúc 21h17” ngày 09/02/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Ví du vụ án như sau: Điều Thị Ánh X, sinh năm: 1990 là người dân tộc Châu Ro, X có chồng và 03 con gái. X hiện đang làm công nhân tại Công ty TNHH H, địa chỉ: Khu Công nghiệp B, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Khoảng thang 9/2018, X phát hiện mình có thai nhưng X khơng nói cho gia đình biết. Vào khoảng 15 giờ 15 phút ngày 11/3/2019, trong lúc X đang làm việc tại cơng ty thì X thấy đau vùng thắt lưng, X đi vào nhà vệ sinh và ngồi được khoảng 10 phút thì sinh được một bé trai nặng khoảng
<small>việc làm tại Công ty nên X nảy sinh ý định từ bỏ đứa con vừa sinh. X nhặt 01 sợi dây</small>
vải thun mau trắng dai 47 cm có sẵn trong thùng rác nhà vệ sinh quan vào cơ cháu bé 02 vịng xiết rồi buộc lại. Sau đó, X bỏ cháu bé vào bịch nylong trong thùng rác và buộc túm lại rồi quay lại làm việc bình thường. Đến khoảng 16 giờ 25 phút cùng ngày, chị Nguyễn Thị L là công nhân tạp vụ trong công ty thấy bịch nylon trong thùng rác cột tum lại nên mở ra xem thì phát hiện cháu bé, lúc này cháu bé đã chết. Tòa án tuyên bố bị cáo Điều Thị Anh X phạm tội giết con mới đẻ theo quy định khoản 1 Điều
<small>124 BLHS năm 2015.</small>
Trong vụ việc trên, Điều Thị Ánh X đã phạm tội giết con mình vừa mới sinh ra
Tuy nhiên, trong thực tiễn, cần xem xét kỹ từng trường hợp, tình huống cụ thê để có thê xác định mức độ anh hưởng của yếu tô khách quan đối với hành vi của người phạm tội từ đó làm căn cứ cho việc định tội. Tức ở đây cần xem xét đến mức độ ảnh hưởng của hoàn cảnh đặc biệt hoặc tư tưởng lạc hậu tác động lên người phạm tội khiến
<small>họ thực hiện hành vi phạm tội.</small>
Bên cạnh đó, khơng phải bất kỳ hồn cảnh khách quan nào người mẹ thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ đều phạm tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ quy định tại Điều 124. Nhà làm luật xây dựng tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ dé áp dụng
<small>với chủ thê đặc biệt là người mẹ trực tiêp sinh ra nạn nhân và đang ở trong hoàn cảnh</small>
<small>?3 Ban án 95/2019/HSST ngày 21/06/2019 về tội giết con mới đẻ của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnhĐồng Nai</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">túng quan, đường cùng tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội nên mới gây ra hành vi phạm tội. Do đó, cần phải xem xét kỹ càng dấu hiệu về chủ thé dé định tội. Với các
<small>trường hợp không phải bị ảnh hưởng bởi tư tưởng lạc hậu hay khơng do hồn cảnh</small>
Ví dụ vụ việc như sau: Chị T và chồng kết hôn với nhau được 2 năm. Trong thời gian chị T mang thai, chị T nghi ngờ chồng ngoại tình nên hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Ngày chị T sinh con, chồng chị vì đi cơng tác nên khơng có mặt tại bệnh viện để chăm sóc, điều này khiến chị T bực tức với chồng. Với lý do đó cộng với những mâu thuẫn đã có từ trước, chị T nảy sinh ý định giết con đề trả thù chồng. Chị T bôi thuốc độc vào đầu ti rồi cho con bú. Đứa trẻ chết ngay sau đó vì trúng độc.
Trong vụ việc trên, việc người mẹ giết con mới đẻ không xuất phát từ việc bị ảnh
<small>hưởng bởi tư tưởng lạc hậu hay hoàn cảnh khách quan đặc biệt, trong đó, lý do vì mâu</small>
thuẫn với chồng khơng phải lý do chính đáng để người mẹ thực hiện hành vi giết con mới đẻ. Do đó, trường hợp trên sẽ không phải hành vi giết con mới đẻ được quy định trong tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, thay vào đó là tội giết người.
Có thể nói, mặc dù cùng là hành vi xâm hại tính mạng con người giống với tội giết người nhưng tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ có mức hình phạt nhẹ hơn so với tội giết người. Điểm khác biệt trên nằm ở quy định về chủ thé. Với tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, chủ thê phạm tội là chủ thể đặc biệt - người mẹ trực tiếp sinh ra nạn nhân
<small>nhưng bị ảnh hưởng của tư tưởng lạc hậu hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt chi</small>
phối. Xét về mặt tình cảm, dù trong bất cứ hồn cảnh nào, người mẹ Ít nhiều có tình
<small>cảm với đứa trẻ mình mang nặng đẻ đau trong chín tháng mười ngày. Khơng có người</small>
mẹ nào thực sự nhẫn tâm giết hay vứt bỏ đứa con mình sinh ra. Vì vậy, việc người mẹ thực hiện hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ có lẽ xuất phát từ một nguyên do đặc biệt nào đó. Xét về mặt hành vi, những yếu tố như tư tưởng lạc hậu hay hoàn cảnh khách quan đặc biệt gây ảnh hưởng nhất định đến khả năng tự kiểm soát hành vi của chủ thể phạm tội. Tức là xét về mặt nhận thức, chủ thé phạm tội nhận thức được tinh gây hại cho xã hội của hành vi nhưng bị hạn chế năng lực điều khiển hành vi do bị chỉ phối bởi các yếu tố mang tính chất khách quan. Có thé nói, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội trong hoàn cảnh năng lực điều khiến hành vi bị hạn chế. Do đó, việc nhà làm luật quy định tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ như một trường hợp giảm nhẹ
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">đặc biệt so với tội giết người thê hiện tính nhân văn và nguyên tắc nhân đạo của pháp luật đôi với đối tượng là phụ nữ mới sinh con.
Nói tóm lại, chủ thé của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là người mẹ (người mẹ trực tiếp sinh ra nạn nhân) trong thời gian kể từ ngày sinh là 07 ngày, có dấu hiệu bị ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng lạc hậu hoặc do hoàn cảnh khách quan đặc biệt khác chi phối, có năng lực lỗi và từ đủ 16 tuổi trở lên.
1.1.4. Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Ngun tắc có lỗi là một trong những nguyên tắc đặc thù trong luật hình sự Việt Nam. Trong đó, lỗi là cơ sở dé có thể buộc chủ thé phạm tội phải chịu TNHS về hành
<small>vi có tính gây thiệt hai cua mình và hậu quả thiệt hai do hành vi đó gây ra. Tại khoản 1</small>
Điều 8 BLHS năm 2015 quy định về khái niệm tội phạm: “76i phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố y hay vơ ÿ...”. Do đó, lỗi là dâu hiệu phải được mô tả trong tất cả các CTTP.
Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội của minh và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biéu hiện dưới hình thức cơ ý hay vơ ý?1. Đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, lỗi của người phạm tội thường là lỗi cố ý. Đối với tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, lỗi của ngừoi phạm tội ln là lỗi có ý. Lỗi cơ ý được quy định tại Điều 10
<small>BLHS năm 2015:</small>
“Có ý phạm tội là phạm tội trong các trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội thay trước hậu quả của hành vi đó có thé xảy ra, tuy khơng mong muốn những vẫn có ÿ
<small>thức dé mặc cho hậu quả xảy ra.”</small>
<small>24 Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phân chung, Nxb. Công an nhân dân,</small>
<small>Hà Nội, tr.163</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Lỗi cố ý trong BLHS năm 2015 được chia làm hai loại: Lỗi cố ý trực tiếp (khoản I Điều 10) và lỗi cỗ ý gián tiếp (khoản 2 Điều 10). Trong đó, việc phân loại lỗi được xác định dựa trên hai yếu tố: lí trí và ý chí.
Đối với Điều 124 BLHS năm 2015, mặc dù được quy định trong một điều luật nhưng về bản chất có hai tội phạm được mơ tả. Một là tội giết con mới đẻ với các dấu hiệu pháp lý được quy định tại khoản 1 Điều 124 BLHS năm 2015. Hai là tội vứt con mới đẻ với các dấu hiệu pháp lý quy định tại khoản 2 Điều 124 BLHS năm 2015. Đối với hai tội phạm này, lỗi của chủ thê là khơng hồn tồn giống nhau.
Đối với tội giết con mới đẻ, lỗi của người phạm tội giống với lỗi của chủ thể trong tội giết người (Điều 123 BLHS năm 2015), đó là lỗi cố ý bao gồm lỗi cô ý trực tiếp và lỗi cơ ý gián tiếp. Về mặt lí trí, với cả hai loại lỗi, người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi hay nói cách khác là tính gây hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội từ hành vi của mình đồng thời thấy trước được hậu quả có thể xảy ra. Ở đây, việc nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi được hiểu là khả năng nhận thức những tình tiết khách quan tạo nên tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi. Đó có thé là những tình tiết thể hiện mặt thực tế của hành vi hoặc về điều kiện khách quan của hành vi như thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội như khi người me dùng dây quan cô đứa trẻ mới sinh, ném con mới đẻ từ tang cao của tòa chung cư? hay bỏ con ở lim cây, hỗ ga thì việc người mẹ sử dụng các cơng cụ, địa điểm có tính nguy hiểm với tính mang của trẻ sơ sinh như dây quấn vào cô, ném trẻ so sinh từ tang cao, vứt bỏ đứa trẻ ở những nơi nguy hiểm như hồ ga, rừng cây thé hiện người mẹ trong các trường hợp trên hoàn toàn nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi mình đang thực hiện.
Việc nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi là tiền đề dé nhìn thấy trước hậu quả có thể xảy ra. Bởi khi nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi đồng nghĩa với việc người phạm tội nhận thức được những tình tiết khách quan của hành vi từ đó có thể dự đốn được hậu quả có thể xảy ra từ hành vi của mình. Ở trên, với vụ việc người mẹ dùng dây quan cổ đứa trẻ mới sinh, có thé thấy rang khi cam dây quan cô đứa trẻ, người mẹ hồn tồn có thê ý thức được hậu quả xấu nhất có thể xảy ra là tinh mang của đứa trẻ bị tước đoạt hay việc vứt bỏ con ở hồ ga trong khơng khí nóng
<small>25 Khởi tố vụ án mẹ ném con mới sinh ở chung cư Linh Đàm tại: </small>
<small> (truy cập lúc 9h45” ngày 11/02/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">bức. ?°Có thé thấy người mẹ hồn tồn có đủ khả năng dé nhận thấy được trước hậu quả rằng đứa bé khả năng cao sẽ tử vong khi ở trong mơi trường đó nếu khơng ai cứu.
Về mặt ý chí, đối với hành vi giết con mới đẻ với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm
tội mong muốn hậu quả thiệt hại xảy ra. Giả dụ như việc người mẹ cơ ý bóp cổ, dùng
dây quấn cơ làm đứa trẻ chết ngạt rồi vứt trong túi ni lông đen bỏ vào bồn cầu hay ném đứa trẻ từ tầng cao xuống. Việc sử dụng công cụ và việc thực hiện hành vi thê hiện rõ mong muốn hậu quả đứa trẻ chết xảy ra. Với trường hợp này, hậu quả xảy ra phù hợp với mong muốn của người phạm tội — tức là làm cho đứa trẻ chết.
Vụ việc ví dụ: Lê Thị M vì sợ gia đình trách mắng nên cơ ta khơng dám lộ chuyện mình mang bau sắp tới ngày đẻ. Vào khoảng 1 giờ sáng ngày 01/08/2013, M trở da, tự đi xuống nhà vệ sinh để sinh nở. Sau khi kéo được đứa con ra ngoài, M đặt con bên cạnh rồi lay vòi nước rửa sạch máu. Khi thay đứa con đã có dấu hiệu tim tái, vì q Sợ hãi, M cho con vào túi bóng đen, vut ra ao phía sau nhà vì sợ bố mẹ biết chuyện sẽ bị la mắng, bị làng xóm láng giềng chê cười. Đến 5 giờ sáng ngày 01/08/2013, ông D (ở xóm Thống Nhat, thon Dang Giang, xã Hịa Phú) khi đi vớt cá chết, rác rưởi trong dam
<small>nuôi thả cá đã phát hiện túi nilong màu đen. Trong túi đen, là một xác bé gái mới sinh</small>
còn cả dây ron không được mặc quần áo, một miệng túi bi buộc bằng sợi dây cước, một đầu có gan chiếc đinh 5 phân. Bằng các biện pháp nghiệp vu, cơ quan công an xác định, người ném hai nhi xấu số xuống đầm nuôi cá là Lê Thị M — mẹ đẻ của nạn
Ở vụ việc trên, xét về lí trí, Lê Thi M hồn tồn có thé nhận thức được tính nguy hiểm của hành vi và thấy trước được hậu quả là đứa trẻ chết xảy ra vì việc cho đứa trẻ vào túi ni lông buộc chặt bằng dây cước và ném xuống ao một người bình thường hồn tồn có thể nhận thức được khả năng đứa trẻ chết là chắc chắn. Xét về ý chí, do bị áp
<small>lực từ phía gia đình và làng xóm và tâm lý sợ hãi sau sinh, Lê Thị M có hành vi ném</small>
đứa con mới sinh xuống ao. Việc buộc túi nilong bằng dây cước làm ngăn cản việc đứa trẻ thở và thốt ra ngồi đồng thời ném đứa trẻ mới sinh xuống ao — là nơi nguy hiểm đối với trẻ mới sinh là hành vi thé hiện rõ mong muốn hậu quả đứa trẻ chết xảy
<small>? Khởi tô người mẹ vứt bỏ con mới đẻ xuống hồ ga ở Hà Nội tai: </small>
<small> (truy cập lúc 10h10” ngày 01/02/2021)</small>
<small>27 Đau lòng chuyện nữ sinh ném con mới đẻ xuống ao tại: </small>
<small>sinh-nem-con-moi-de-xuong-ao0-134025.html?foclid=IwAR10zCZCmvGYq5-Oky6Ghcf3tnlsRdal DHReHurbQojvSNSarBv-3hzNywiI (truy cập lúc 18h45’ ngày 12/02/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Song, xét về mặt tình cảm, có những người mẹ khơng thực sự mong muốn đứa con mình đẻ ra chết nhưng họ để mặc cho hậu quả đứa trẻ đó chết xảy ra. Với trường hợp trên, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý gián tiếp. Khi ấy, dù hậu quả xảy ra khơng phù hợp với mục đích của họ nhưng họ chấp nhận hậu quả xảy ra.
Việc xác định lỗi trong nhiều trường hộp có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định tội danh. Giống với tội giết người, tội giết con mới đẻ có CTTP vật chất. Theo đó, tội phạm được xác định là hồn thành khi hậu quả đứa trẻ chết xảy ra. Khi tội giết con mới đẻ hồn thành thì việc đặt ra van dé lỗi cé ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp không cần thiết trong việc định tội vì trong trường hợp này, hậu quả chết người đã xảy ra tức là xét về góc độ pháp lý, hành vi đã thỏa mãn tất cả các dấu hiệu pháp lý được quy định trong CTTP nên dù thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của mình
như thế nào thì tội danh của họ không thay đôi. Tuy nhiên, việc xem xét dấu hiệu lỗi
khi hậu quả đứa trẻ chết không xảy ra lại có ảnh hưởng lớn đến việc xác định tội danh. Trường hợp thứ nhất, nếu người mẹ thực hiện hành vi giết con mới đẻ với lỗi có ý trực tiếp thì dù đứa trẻ khơng chết, người mẹ vẫn bị truy cứu TNHS về tội giết con mới đẻ ở giai đoạn chuẩn bi phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt tùy theo hành vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện. Ở đây, xét về dấu hiệu lỗi, người phạm tội nhận thức được tính gây thiệt hại của hành vi đồng thời có ý thức thực hiện đến cùng dé đạt được mục dich là làm đứa trẻ chết, song, vì ngun do nào đó ngồi ý muốn của người phạm tội mà hậu quả không xảy ra. Có thể nói, dù hậu quả chưa xảy ra và chưa thỏa mãn hết các dau hiệu của CTTP nhưng người phạm tội vẫn phải chịu TNHS về tội giết con mới đẻ vi mong muốn cuối cùng của người phạm tội vẫn là hậu quả đứa trẻ chết, việc tội phạm không thực hiện được đến cùng là xuất phát từ nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tdi.
Trường hợp thứ hai, người phạm tội thực hiện hành vi giết con mới đẻ nhưng đứa trẻ chưa chết với lỗi có ý gián tiếp. Nếu với tội cô ý trực tiếp dé cập đến van dé tội phạm hoàn thành và tội phạm chưa hồn thành thì với tội cố ý gián tiếp chỉ có tội phạm hồn thành. Ở trường hợp này, người phạm tội sẽ không bị định tội giết con mới đẻ mà có thé sẽ phải chịu TNHS với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tốn hại đến sức khỏe của người khác nếu đáp ứng điều kiện được quy định trong điều luật. Nguyên do bởi vì, nếu trong lỗi cô ý trực tiếp, sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn duy nhất vì bản thân chủ thé mong muốn hành vi đó được thực hiện thì trong lỗi cố ý gián
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">tiếp, chủ thê lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể chấp nhận hành vi đó — tức có sự lựa
<small>chọn giữa hai khả năng: Một là khả năng hành vi thực hiện là hành vi phạm tội; Hai là</small>
hành vi thực hiện không là hành vi phạm tội. Sự chấp nhận hành vi phạm tội trong trường hợp lỗi có ý gián tiếp là trên cơ sở chấp nhận dấu hiệu nhất định của hành vi phạm tội, trong đó có hậu quả thiệt hại của hành vi?. Như vậy, nếu người phạm tội thực hiện hành vi giết con mới đẻ với lỗi cố ý gián tiếp mà hậu quả đứa trẻ chết không xảy ra thì khơng thé buộc người phạm tội phải chịu TNHS đối với hậu quả chết người bởi điều này không năm trong mong muốn của họ và hậu quả trên cũng không xảy ra trên thực tế.
Về tội vứt bỏ con mới đẻ, lỗi của người phạm tội đối với hành vi vứt bỏ con mới đẻ chỉ có thé là lỗi có ý gián tiếp”. Ở đây, theo quan điểm của nhóm chúng em, nếu xác định lỗi của chủ thé thực hiện hành vi vứt bỏ con mới đẻ với lỗi cố ý trực tiếp là không hợp lý. Người mẹ phạm tội vứt bỏ con mới đẻ với lỗi cỗ ý trực tiếp tức là thực hiện hành vi vứt bỏ con mới đẻ với mong muốn đứa trẻ chết. Trong trường hợp trên, theo quan điểm của nhóm chúng em, hành vi trên sẽ chuyển thành hành vi giết con mới đẻ. Xét về hành vi, hành vi vứt con mới đẻ thực chất là một trong chuỗi hành động dé người phạm tội dat được mục đích là lam đứa trẻ chết. Ở đây, hậu quả xảy ra phù hợp với mong muốn của người phạm tội. Xét về tính nguy hiểm của hành vi, việc giết con mới đẻ với việc vứt bỏ con mới đẻ với mong muốn đứa trẻ chết về bản chất có tính nguy hiểm như nhau, trong đó, người phạm tội đều mong muốn hậu quả là đứa trẻ chết. Ví dụ: Hành vi khơng cho con bú dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết và hành vi bỏ đứa trẻ ngoài đường với mong muốn đứa trẻ chết khơng khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm, nên không thể coi trường hợp “không cho con bú” là giết con mới đẻ với khung hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm và “bỏ đứa trẻ ngoài đường với mong muốn đứa trẻ chết” là vứt bỏ con mới đẻ với khung hình phạt nhẹ hơn là phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.39
Theo quan điểm của nhóm chúng em, lỗi của người phạm tội với hành vi vứt bỏ con mới đẻ chỉ có thé là lỗi có ý gián tiếp. Hành vi vứt bỏ con mới đẻ là việc người mẹ dé đứa trẻ cách xa khỏi sự chăm sóc của mình dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết. Xét về lí
<small>trí, giơng với tội giêt con mới đẻ, người mẹ vứt bỏ đứa trẻ sơ sinh nhận thức rõ tính28 Nguyễn Ngọc Hịa (2018), Bình luận khoa học BLHS 2015 (phan các tội phạm), Nxb. Tư pháp, tr.127</small>
<small>? Pham Văn Bau (2000), Tội giét con mới đẻ trong pháp luật Hình sự Việt Nam, Tạp chí luật học (sơ 2), tr.10</small>
<small>30 Nguyễn Ngọc Hịa (2018), Bình luận khoa học BLHS 2015 (phan các tội phạm), Nxb. Tư pháp, tr.74</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và đồng thời có thé thấy trước được hậu qua có thé xảy ra của hành vi đó. Tuy nhiên, về ý chí, hậu quả khơng phải là điều người phạm tội mong muốn. Nói cách khác, người mẹ trong trường hợp này có ý thức bo mặc cho hậu quả thiệt hai của hành vi có thé có kha năng xảy ra hoặc khơng. Bên cạnh đó, việc dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết không nằm trong mục đích ban đầu của người phạm tội. Thực chất, đó chỉ là hậu quả phát sinh từ hành vi vứt bỏ con mới đẻ,
<small>người mẹ hoàn toàn nhận thức được hậu quả đó nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra tức</small>
là hậu quả đứa bé chết có xảy ra hay khơng xảy ra khơng có ý nghĩa, xảy ra hay khơng xảy ra thì người mẹ đều chấp nhận hậu quả đó. Và trong trường hợp hậu quả đứa trẻ chết khơng xảy ra thì người mẹ không phải chịu TNHS đối với tội vứt bỏ con mới đẻ vì hành vi khơng dap ứng đủ yếu tô trong CTTP cơ bản của tội phạm.
Với lỗi cỗ ý gián tiếp ở hành vi vứt bỏ con mới đẻ, hậu qua do hành vi của người phạm tội gây ra khơng phù hợp với mong muốn, mục đích của người đó. Mặc dù, người mẹ thực hiện hành vi vứt bỏ đứa con mới đẻ bởi bị tác động bởi nhiều yếu tố khách quan đặc biệt bên ngồi nhưng có thé trong thâm tâm khơng muốn làm điều đó. Thẻ hiện ở việc người mẹ vứt bỏ con ở trước cửa chùa hay nhà dân với mong muốn có người sẽ chăm sóc, ni dưỡng đứa con thay mình; trước khi vứt bỏ con thì mặc áo 4m cho con... Việc họ lường trước được những nguy hiểm rủi ro cho đứa trẻ mà vẫn vứt bỏ đã cho thấy ho sẵn sàng chấp nhận và có ý thức bỏ mặc cho đứa trẻ chết?!. Từ đây cho thấy, với hành vi vứt bỏ con mới đẻ, mục đích cuối cùng của người mẹ khơng phải là đứa trẻ chết mà chỉ là bỏ đứa trẻ cách xa với người mẹ và hậu quả đứa trẻ chết là hậu quả người mẹ có thê thấy trước nhưng người mẹ có ý thức bỏ mặc và chấp nhận
<small>cho hậu quả xảy ra.</small>
Nói tóm lại, thơng qua phân tích về dấu hiệu pháp lý của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ có thé thấy đây là trường hợp đặc biệt tội giết người. Đồng thời, đặt trong sự so sánh, các quy định pháp luật về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong BLHS năm 2015 đã có nhiều thay đổi rõ ràng, mang tính tiễn bộ, phù hợp với thực tiễn hon so với các
<small>quy định pháp luật trước đó trong BLHS năm 1985, 1999,</small>
<small>31 Dang Thị Hồng Thắm (2011), Tội giết con mới đẻ trong BLHS Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại</small>
<small>học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">1.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội giết
<small>hoặc vứt bỏ con mới đẻ</small>
1.2.1. Thực tiễn xét xử về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo quy định của Bộ
<small>luật Hình sự năm 2015</small>
Có thé nói, tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội trái với quy định của pháp luật hình sự và có sự thay đơi theo tiến trình của lịch sử. Tình hình tội phạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người đang ngày một có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, và đặc biệt là tội phạm giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ lại đang có xu hướng gia tăng về số vụ việc cũng như tính chất, hậu quả nghiêm trọng để lại. Trong thời gian qua, nhiều vụ việc người mẹ vứt bỏ hoặc nhẫn tâm giết hại đứa con do chính mình sinh ra dẫn đến cái chết vô cùng thương tâm cho đứa trẻ, khiến cả xã hội phải lên án phê phán mạnh mẽ, để lại những làn sóng dư luận trái chiều. Đáng báo động hơn, những vụ án giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ lại được thực hiện bởi những người mẹ có
<small>ti đời cịn khá trẻ, nhiêu người thậm chí cịn đang ngơi trên ghê nhà trường.</small>
Lý giải về ngun nhân của tình trạng này, có nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra nhưng chủ yếu cho rằng nguyên nhân là từ đạo đức con người bị suy đồi nghiêm trọng do ảnh hưởng từ những luéng văn hóa xâm nhập tràn lan vào Việt Nam mà người dân
<small>khơng có sự chọn lọc kĩ lưỡng. Bên cạnh đó, việc quan hệ tình dục bừa bãi trước hơn</small>
nhân, sống thử và chung sống như vợ chồng ở một bộ phận giới trẻ hiện nay cũng khiến cho tình trạng có thai ngồi ý muốn gia tăng đáng kê. Đặc biệt hơn, những người mang thai ngoài ý muốn này hau hết lại đang ở độ tuổi còn khá trẻ, nhất là ở lứa ti
học sinh — sinh viên. Có thé thấy, giới trẻ hoặc thiếu kiến thức, hoặc không làm chủ
được mình, hoặc thích cuộc song hưởng thụ, bng tha, không tôn trong chuẩn mực đạo đức của cộng đồng hay luật lệ của tôn giáo đã đây họ vào con đường tội lỗi với
<small>những hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trong đạo đức xã hội.” Và có vơ</small>
vàn các lý do được các bạn trẻ đưa ra để ngụy biện cho lối sống vô tâm cùng hành động của mình. Do đó, khi đối diện với hậu quả, một là họ chọn cách nạo phá thai — tước đi quyền được sống của đứa trẻ ngay từ trong bụng mẹ, hoặc lựa chọn sinh ra
nhưng nhẫn tâm giết hại hoặc vứt bỏ đứa con ấy để trốn tránh trách nhiệm làm mẹ của
<small>3 Thực trang và nguyên nhân nạo phá thai của giới trẻ hiện nay tại: https://baoquangbinh. vn/xa-hoi-doi-song/201408/thuc-trang-va-nguyen-nhan-nao-pha-thai-cua-gioi-tre-hien-nay-2 1 17606/, (truy cập lúc</small>
<small>19h30” ngày 12/02/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">mình. Bên cạnh đó, một bộ phận người mẹ khác thì do yếu tố tâm lý, ảnh hưởng từ những tư tưởng cũ lạc hậu, những hủ tục ton tại lâu năm từ đó thực hiện hành vi phạm tội đối với con mình. Từ tư tưởng lạc hậu trọng nam khinh nữ mà người mẹ đã giết con mình, hoặc mê tín đị đoan tin vào bói tốn, ma quỷ, thần thánh mà giết hoặc vứt bỏ đứa trẻ dẫn đến đứa trẻ chết. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của tình trạng
<small>tội phạm giêt người nói chung và tội phạm giêt hoặc vứt bỏ con mới đẻ nói riêng.Chính bởi sự gia tăng của loại tội phạm này mà Nhà nước ta đã có những biện</small>
pháp quan trọng dé giảm thiêu về số vụ cũng như tính chất của những vụ án đó. So với BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 đã có những quy định về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo hướng tiến bộ hơn. Đồng thời trong quá trình thực thi, áp dụng quy định của pháp luật vào việc xét xử đã đạt được những kết quả nhất định. Nhiều vụ án đã được phát hiện kip thời và đưa ra xét xử đúng người đúng tội, đảm bảo sự công bằng, khách quan của pháp luật. Cụ thể qua quá trình xét xử các vụ án giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, các cơ quan chức năng đã có sự sàng lọc và phân loại
đối tượng thực hiện tội phạm này ra thành các nhóm chính theo như quy định về CTTP
tại Điều 124 BLHS năm 2015 va theo độ tuổi thực hiện hành vi phạm tội. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc cải thiện một số những quy định luật còn chưa phù hợp, làm nền tảng cho xây dựng và phát triển BLHS nói riêng và hệ thống pháp luật Việt
<small>Nam nói chung.</small>
Thứ nhất, về việc phân loại theo nhóm đối tượng phạm tội theo quy định về CTTP tại Điều 124 BLHS năm 2015.
Nhóm thứ nhất: Đối tượng phạm tội là những người mẹ ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu nên có hành vi giết hoặc vứt bỏ con đo mình đẻ ra trong 07 ngày ti.
Về nhóm đối tượng này, trong q trình xét xử có thể thấy rằng bản chất hành vi
<small>phạm tội phát sinh do chính những suy nghĩ, tư tưởng cũ lạc hậu, không phù hợp với</small>
quan niệm về lối sống hiện tại. Đồng thời cũng từ suy nghĩ lệch lạc và tâm lý lo sợ sự phán xét, dị nghị từ gia đình, xã hội về việc chưa có chồng mà đã có con của một số người mẹ trẻ để rồi gây ra những hành vi đáng lên án kia. Ngoài ra, cũng có trường hợp do tập quán lạc hậu của một vài địa phương ở miền núi cho răng đứa con đầu lịng khơng phải là con chung của vợ chồng nên sau khi đứa trẻ ra đời, người mẹ đã bóp
<small>chêt con mình. Đặc biệt, có những nơi do tư tưởng phân biệt con trai và con gái nên đã</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33"><small>có trường hợp người mẹ đã đẻ đên lân thứ 7 vân là con gái nên sau khi đứa trẻ ra đời</small>
đã bóp chết.
Vi dụ: Trong quan niệm của đồng bao Bana, Jrai ở đây, nếu người phụ nữ lấy chồng sinh đôi, sinh ba nghĩa là bị ma ám, việc sinh đôi như thé là do trời phạt, và sẽ ảnh hưởng rất nhiều về sau, như khi lập gia đình thì sẽ lấy nhằm người, nếu cịn sống thì sẽ làm khổ bố mẹ, dân làng... nên phải hủy những đứa sinh sau. Họ chôn sống hoặc bỏ các bé vào rừng để con ma không biết cách quay về quấy phá. Hàng trăm đứa trẻ đã vĩnh viễn lìa xa cõi trần một cách oan uéng bởi hu tục lạc hậu đó. Một hu tục khác có thé kế đến đó là việc những cô gái lỡ "ăn phải trái cấm" trước hơn nhân sé phải tự tay bóp chết đứa con mình vừa sinh ra. Nếu người mẹ khơng thể giết con thì
<small>anh em dịng họ của cơ sẽ “giúp”. Người Bana quan niệm những đứa trẻ không cha</small>
sinh ra là điềm gở, mang xui xẻo đến cho chính bản thân người mẹ và người dân trong làng. Hơn nữa, nếu người mẹ cé tình ni đứa con khơng cha này thì sẽ khơng có
<small>người đàn ơng nao dám lây cơ làm vợ nữa.</small>
Cụ thê hơn như trường hợp của Chị Sang ở thôn Tung Ke, xã Ayun, huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, là người đã có chồng, nhưng anh này đã qua đời. Sau đó chị có thai
<small>với người đàn ông khác, sinh ra cháu Phước. Theo lệ làng, đứa trẻ này sẽ bị xử tội</small>
chết. Những người ho hang thân thích biết tin chị sinh đã kéo đến vây quanh dé tạo áp lực buộc chị phải giết chết cháu bé. Trước áp lực của người thân, khi cháu Phước vừa từ bụng mẹ ló đầu ra, chị Sang dùng 2 đùi của mình kẹp chặt đầu Phước dé chau khơng kịp cất tiếng khóc chào đời. Nhưng may thay chính quyền địa phương đã kịp
thời có mặt, lao vào can ngăn dé người mẹ trẻ không làm diéu tội lỗi.?”
Có thể thấy rằng chính những tư tưởng lệch lạc, lạc hậu kê trên đã khiến cho nhiều người mẹ chọn cách ra tay giết hại hoặc vứt bỏ đứa con do chính mình sinh ra một cách nhẫn tâm. Người mẹ chỉ vì suy nghĩ nơng cạn, thiếu hiểu biết của mình mà một đứa trẻ vơ tội vừa sinh ra đã bị tước đoạt đi quyền được sống, quyền được phát triển
<small>khỏe mạnh.</small>
<small>33 Lạnh người hủ tục "sinh đôi giết một" ghê rợn ở Việt Nam tại: http://kiengiang. </small>
<small>vnpt.vn/detail/lanh-nguoi-hu-tuc-sinh-doi-giet-mot-ghe-ron-o-viet-nam/6693 16/10 (truy cập lúc 23h30” ngày 20/02/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Nhóm thứ hai: Đối tượng phạm tội là những người mẹ trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt nên dẫn đến hành vi giết hoặc vứt bỏ con do mình đẻ ra trong 07 ngày ti.
Hiện nay vẫn chưa có văn bản nao quy định rõ về yếu tố “hoàn cảnh khách quan đặc biệt? theo như Điều 124 BLHS năm 2015. Trong Nghị quyết số 04-HDTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phan các tội phạm của Bộ luật Hình sự, chỉ đưa ra ví dụ để mơ tả dấu hiệu trên. Trường hợp đứa trẻ bị người mẹ giết hoặc vứt bỏ dẫn tới bị chết trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có thể là khi đứa trẻ sinh ra có dị dạng, hoặc trường hợp sau khi sinh con, người mẹ khơng có khả năng dé ni con mình, như bị mất sữa lại bị bệnh nặng hoặc trong hồn
<small>cảnh khách quan ngặt nghèo khác như nơi lo cơm áo gạo tién....</small>
<small>Vi dụ: Vụ án mẹ giêt con mới đẻ dé che đậy cuộc tình vụng trộm ở Gia Lai.</small>
Công an tỉnh Gia Lai ngày 26/10/2017 cho biết vừa yêu cầu Công an huyện Ia Grai khởi tố vụ án, khởi t6 bị can đối với R. (người dân tộc J’rai, SN 1975, trú tại xã la Pếch) đề điều tra hành vi "giết con mới đẻ".
Theo co quan chức năng, năm 2016, trong thời gian người chồng bị tai nạn giao
<small>thơng liệt nửa người, khơng nói được, chị R. đã nảy sinh tình cảm và có thai với một</small>
người đàn ông khác. Đến ngày 24/2/2017, chị R. sinh một bé trai. Lo sợ dân làng phát hiện và sợ không đủ khả năng nuôi bé, chi R. dùng tay bóp cổ cháu bé đến chết. Sau đó, R. nói với con lớn của mình bỏ xác hài nhi vào bao tải rồi cả hai mang đến khu vực nhà mả của làng dé chôn. Sự việc bị phát hiện khi một cháu bé hàng xóm sang chơi, vơ tình nhìn thấy. Theo Cổng thơng tin điện tử Công an tỉnh Gia Lai, đến ngày 12/10/2017, Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh Gia Lai xác định, sau khi được điều trị, tình trạng sức khỏe của chị R. bình thường, có đầy đủ NLTNHS nên đã u cầu Cơ quan CSĐT, Công an huyện Ia Grai khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với R. dé điều tra về
<small>hành vi "Giét con mới đẻ".34</small>
<small>vung-trom-a206763.html, (truy cập lúc 10h59” ngày 12/02/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Lai nên có thé gây khó khăn đối với việc nhận thức hành vi phạm tội của mình. Bên cạnh đó, hồn cảnh gia đình của người phạm tội cũng rất éo le: chồng bị tai nạn giao
<small>thơng liệt nửa người, khơng nói được, nên chị R. đã nảy sinh tình cảm và có thai vớimột người đàn ông khác. Hơn nữa, khi bản thân sinh ra một bé trai, do lo sợ dân làng</small>
phát hiện và sợ không đủ khả năng nuôi bé, chị R. dùng tay bóp cơ cháu bé đến chết. Người thực hiện hành vi phạm tội bị tác động nhiều từ hoàn cảnh khách quan xung quanh, cũng từ tâm lý lo sợ, nỗi lo lắng sự đàm tiểu di nghị của làng xóm xung quanh. Đây là suy nghĩ lệch lạc xuất phát từ hoàn cảnh khách quan đặc biệt, hơn cả là sự thiếu hiểu biết về mặt pháp luật nên dẫn đến hành vi phạm tội giết con mới đẻ của người mẹ
<small>trong vụ việc nói trên.</small>
Thứ hai, về việc phân loại đối tượng phạm tội theo độ tuôi thực hiện hành vi phạm
Dựa vào những vụ án xảy ra thực tế trên địa bàn cả nước trong những năm gần đây, có thể thấy hầu như khơng có các trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội ở độ tudi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi và trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi. Hầu hết các vụ án đã xảy ra thì đối tượng phạm tội đều đạt độ tuổi trưởng thành (từ 18 đến 40 tuổi) khi chính đối tượng đã nhận thức được đầy đủ hành vi của mình là đúng hay sai và hậu quả hành vi gây ra cho chính bản thân,
<small>gia đình và xã hội là như thê nào.”</small>
Tuy nhiên trong một vài năm trở lại đây, xuất hiện những trường hợp vứt bỏ trẻ sơ sinh mà trong đó người thực hiện hành vi đó lại là người mẹ ở trong độ ti cịn khá trẻ (từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi).
Ví dụ: Chiều tôi ngày 10/11/2012, người dân phát hiện một cháu bé mới sinh người tím ngắt, bị nhét trong chiếc cặp học sinh vứt ở bên đường Tôn Thất Thuyết (quận 4, thành phố Hồ Chí Minh). Cháu bé sau đó đã được đưa vào bệnh viện cấp cứu
bị nhiễm trùng vùng kín sau khi sinh. Gia đình đã xác nhận với bệnh viện, Thanh là
mẹ của đứa trẻ bị vứt bên đường kia. Điều đáng nói, Thanh sinh năm 1997, lúc đó
<small>đang là học sinh lớp 10 một trường THPT ở quận 4. Trước đó, nữ sinh này quen một35 Đồn Thị Vân (2015), 76¡ giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học,</small>
<small>Hà Nội, tr.65</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>thanh niên trên mạng và hai người đã có quan hệ tình dục. Người thanh niên này đã bỏ</small>
di, cắt đứt mọi liên lạc với Thanh. Trong những tháng dau, Thanh không hè biết mình mang thai, đến khi biết thì cái thai đã quá lớn. Vì sợ gia đình trách mắng và sợ hàng
<small>xóm di nghị, Thanh đã vứt bỏ đứa trẻ ngay sau khi vừa mới sinh.3637</small>
Tùy vào hoàn cảnh mà may mắn thay nhiều đứa trẻ bị bỏ rơi đã được phát hiện và cứu sống kip thời. Người mẹ tuy không phải chịu TNHS nhưng đây cũng là một tin hiệu đáng lo ngại cho thấy độ tuổi thực hiện hành vi vứt bỏ con mới đẻ có xu hướng ngày một “trẻ hóa”, thậm chí là ở lứa tuôi chưa thành niên. Đáng lo ngại hơn là vấn đề nhận thức về giới tính, về việc tránh thai ngoài ý muốn là rất kém. Nhiều người ở độ tudi vị thành niên, độ tuổi mới trưởng thành không được giáo dục về giới tính nên dễ dàng rơi vào tình trạng có thai ngồi ý muốn nhưng thay vì lựa chọn những giải pháp hợp ly, họ lại thực hiện hành vi vứt bỏ đứa con mới sinh của mình hoặc giết hại chúng
<small>đê trơn tránh trách nhiệm làm mẹ này.</small>
<small>cân xem xét như sau:</small>
<small>Thứ nhát, trong quá trình xét xử tội giêt hoặc vứt bỏ con mới dé van còn nhiềuvướng mac vé van dé định tội đôi với tội danh này.</small>
Qua một số vụ việc xảy ra trên thực tiễn, có thể thay việc xác định tội danh đối với tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ theo như quy định tại Điều 124 BLHS năm 2015 còn khá khó khăn, đặc biệt trong một số vụ án, nhiều ý kiến cho rằng việc xét xử theo tội danh giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là chưa phù hợp, nên chuyền sang tội giết người quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015. Bởi cả hai tội này đều có một số điểm khá giống nhau, nên khi xác định tội danh đối với người phạm tội cần căn cứ và xem xét kĩ ở nhiều khía cạnh. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong CTTP có quy định về dấu hiệu khi người mẹ thực hiện hành vi phạm tội “do ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng lạc hậu”
<small>3 Vụ “nữ sinh lớp 10 sinh con rồi vứt vào bụi cỏ”: Có dấu hiệu hình sự tại: </small>
<small> (truy cập lúc 20h39” ngày23/02/2021)</small>
<small>37 Tội lỗi của những bà mẹ giết con mới sinh tại:</small>
<small>https://zingnews. vn/toi-loi-cua-nhung-ba-me-giet-con-moi-sinh-post340611.html (truy cập lúc 20h45” ngày</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37"><small>hoặc “do hoàn cảnh khách quan đặc biệt”, nên trong quá trình xác định tội danh ở đây</small>
cần phải làm sáng rõ được có một trong hai dấu hiệu đó hoặc cả hai dấu hiệu đó hay khơng. Và nếu như người mẹ đó khơng có một trong hai dấu hiệu đã được quy định như vậy thì có nên xem xét chuyên sang chịu trách nhiệm hình sự với tội giết người theo Điều 123 BLHS năm 2015 hay khơng.
Ví dụ: Bản án số 123/2019/HSST ngày 08/05/2019 của Tịa án nhân dân quận H xét xử vụ án người mẹ giết con mới đẻ ở Linh Đàm, Hà Nội gây rúng động dư luận hồi
<small>tháng 10 năm 2018 có nội dung như sau:</small>
<small>D.T.V.A (Sinh năm 1997), là sinh viên năm 4 trường Dai học Văn hóa Hà Nội.</small>
V.A có quan hệ yêu đương với Trần Tiến S cũng là sinh viên một trường đại học trên địa bàn Hà Nội từ tháng 09/2015 đến tháng 02/2018 thì chia tay. Trong thời gian yêu nhau, V.A và S thường xuyên quan hệ tình dục và phá thai 02 lần. Sau đó, V.A quen biết và yêu T (Sinh năm 1998) là sinh viên trường đại học M từ tháng 04/2018. Lúc này V.A biết mình đã có thai với S nhưng vẫn quan hệ tình dục với T và khơng cho T biết. Đến cuối tháng 07/2018 thì T với V.A chia tay. Đầu tháng 10/2018, thông qua
<small>mạng xã hội Facebook, V.A quen và yêu D (Sinh năm 1996). Đêm ngày 15/10/2018,</small>
sau khi đưa V.A đi ăn tối thì D chở V.A về nhà D (là căn hộ chung cư) và V.A ở lại đây cho đến ngày 18/10/2018. Khoảng 9h00? ngày 18/10/2018, V.A kêu dau bụng và bảo D đi mua thuốc về uống nhưng không đỡ, D bảo đưa đi khám nhưng V.A không đi. Đến khoảng 20h00”, tại nhà vệ sinh của nhà D, V.A sinh được cháu bé, do hoảng sợ nên không biết thai nhi còn sống hay chết, là trai hay gái, V.A dùng kéo trong nhà vệ sinh cắt dây rồn, bỏ cháu bé vào túi nilon đen, đặt cháu bé lên cửa số nhà vệ sinh rồi dùng tay đây xuống qua cửa sô nhà vệ sinh rơi xuống sân làm cháu bé tử vong.
<small>V.A xác nhận chau là con của S, V.A khai nhận có thai khoảng 08 tháng, trong q</small>
trình mang thai không ai biết, không khám ở bat cứ bệnh viện nào. Việc V.A mang thai ngoài ý muốn, V.A sợ sinh con ra khi chưa lập gia đình sẽ bị bố mẹ và bạn bè phản đối về việc sinh con ngoài giá thú nên khi sinh em bé, V.A đã cho cháu vào túi nilon và đặt lên tường cửa số của nhà vệ sinh rồi dùng tay đây xuống đường.
Ngày 19/10/2018, Viện sức khỏe tâm thần bệnh viện B đã khám và kết luận đối với tình trạng của V.A: Tình trạng bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt, khơng có hoang
<small>tưởng áo giác, hành vi hiện ôn định, cảm xúc đôi lúc căng thăng nhưng giữ được bình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">tĩnh, khơng có vấn đề bất thường, người mệt mỏi, ngủ được. Hiện qua thăm khám
<small>khơng có rồi loan tâm thân cap tính.”</small>
Tại phần nhận định của Tịa án tại bản án hình sự sơ thẩm, Tịa án nhân dân quận
<small>H đã có nhận định: “Khi thực hiện hành vi phạm tội, BỊ cáo D.T.V.A còn trong trạngthai mới sinh con, dang trong trạng thai tâm sinh lý khơng bình thường do tac động</small>
của việc sinh con”. Vì vậy nên Bi cáo D.T.V.A bị xét xử với tội giết con mới đẻ theo quy định tại khoản 1 Điều 124 BLHS năm 2015.
Theo quan điểm của nhóm tác giả, có thể thấy đối với vụ án trên, Tòa án nhân dân quận H trong việc xác định tội danh đối với D.T.V.A chưa đủ sức thuyết phục. Việc
<small>Toa án nhận định khi thực hiện hành vi phạm tội thì BỊ cáo cịn trong trạng thái mớisinh con, đang trong trạng thái tâm sinh lý khơng bình thường do tác động của việc</small>
sinh con nên mới dẫn tới hành vi trên là khá chung chung, tuy mới sinh con xong
nhưng như theo kết luận của Viện sức khỏe tâm thần bệnh viện B thì tình trạng bị cáo hồn tồn tỉnh táo, hành vi ơn định, khơng có vấn đề bất thường và khơng có dấu hiệu rỗi loạn tâm thần cấp tính. Do đó, nếu Tòa án nhân dân quận H sử dụng dấu hiệu “do hoàn cảnh khách quan đặc biệt” trong việc xác định tội danh đối với bị cáo V.A thì cũng không đủ căn cứ. Nghị quyết số 04-HDTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phan các tội phạm của Bộ luật Hình sự tuy không đưa ra những quy định cụ thé và chi tiết rằng thé nào là “hoàn cảnh khách quan đặc
biệt”, nhưng từ một số ví dụ trong Nghị quyết có nêu ra cùng việc xem xét trên thực tế
thì việc Tịa án cho rằng bị cáo V.A đang ở hồn cảnh khách quan đặc biệt là không thuyết phục. Bởi khi xác định tội danh đối với bị cáo, cần có sự xem xét kĩ lưỡng về tình tiết vụ án. Bản thân V.A khơng hề sống ở nơi có điều kiện kinh tế khó khăn, khó tiếp cận với những kiến thức pháp luật cơ bản hay chịu ảnh hưởng bởi yếu tố khách quan ngặt nghèo nào. Bị cáo cũng có lịch sử tình trường dày đặc, V.A sau khi biết mình mang thai con của S (chia tay hồi tháng 02/2018) mà trong khi yêu T (chia tay hồi tháng 07/2018) cũng không cho T biết và vẫn quan hệ tình dục bình thường với T. Hơn nữa, trong quá trình yêu S, nữ sinh này cũng đã nhiều lần quan hệ tình dục dan đến việc có thai ngồi ý muốn và phải phá thai 02 lần. Và đến khi yêu D (chủ căn
chung cư nơi xảy ra vụ án) V.A cũng khơng hê nói cho D biết mình có thai, vẫn quan
<small>38 Trần Anh Duy 2019, Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong Bộ luật hình sự năm 2015, luận văn thạc sĩ luật</small>
<small>học, Trường Dai học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.55</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">hệ bình thường với anh này và khi đau bụng thì nhờ D đi mua thuốc về uống như khơng hề có gì. Tình tiết này đặt ra câu hỏi rằng liệu V.A có đang ở trong “hồn cảnh
<small>khách quan đặc biệt”, có trong trạng thái tâm lý lo sợ bị phát hiện việc mình có thai</small>
hay lo lắng lời đị nghị nghi ngờ từ phía bạn bè, gia đình và những người u của mình
<small>hay khơng? V.A hoàn toàn đủ nhận thức được việc bản thân đã mang thai nhưng</small>
khơng hề nói cho ai biết, cũng trong lúc mang thai ấy vẫn quan hệ tình dụ với người
<small>yêu mà không may may lo sợ bi phát hiện. Thậm chí bị cáo D.T.V.A cịn sang ở nhà</small>
bạn trai và tại đây trực tiếp sinh con trong nhà vệ sinh rồi thực hiện hành vi tàn độc là day con từ cửa số tầng 31 khu chung cư xuống đất. Như vậy, dé cho rằng V.A thực
<small>hiện hành vi giét con mới đẻ do hoàn cảnh khách quan đặc biệt là chưa đủ căn cứ.</small>
Bên cạnh đó, néu xem xét việc định tội D.T.V.A với tội danh giết con mới đẻ theo do ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng lạc hậu cũng chưa hoàn toàn đúng đắn. Bản thân V.A ở day là một người có trình độ học vẫn (là sinh viên năm 4 trường Đại học Văn hoa Hà Nội — một trong những ngôi trường danh giá trên địa bàn). Đồng thời, V.A cũng khơng sinh sống ở địa bàn khó khăn lạc hậu hay ảnh hưởng từ những tư tưởng cũ lỗi thời hoặc hủ tục dân tộc. Theo như tìm hiểu, trong q trình theo học tại đây V.A khơng có vi phạm về học tập, kỷ luật nhà trường. Mọi người nhận xét, Vân Anh là người hát hay, múa giỏi và từng được nhận nhiều bằng khen, giấy khen vì tích cực tham gia các hoạt động của trường. Do đó hồn tồn có thê nhận thấy, đây là người mẹ có trình độ học vấn tốt, có khả năng nhận thức được những hành vi đúng sai và hoàn tồn có thể khơng thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, cũng từ việc bản thân có lối song thiếu lành mạnh, quan hệ tinh dục khơng an tồn từ những lần yêu đương chớp nhoáng đã dẫn đến sự việc dau lòng trên. 3?”Như vậy, việc áp dung dấu hiệu ảnh hưởng nặng nề bởi tư tưởng lạc hậu trong việc định tội đối với D.T.V.A là không thuyết phục. Chính vi vậy nên có nhiều ý kiến cho rằng với vụ án trên, phải xét xử bị cáo D.T.V.A với tội danh giết người theo Điều 123 BLHS năm 2015 mới là chính xác. Hơn nữa, nếu xem xét từ góc độ xã hội, hành vi giết con của V.A đã vi phạm những quy tắc chuẩn mực đạo đức của dân tộc, đi ngược lại với những lễ giáo, thuần phong mỹ tục
<small>* Vụ nữ sinh ném con ở chung cư Linh Đàm tại: </small>
<small> (truy cập lúc 14h00” ngày 25/02/2021)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">xấu đặc biệt là cho thế hệ trẻ ngày nay. Do đó việc xét xử bị cáo D.T.V.A với tội danh
<small>giêt con mới đẻ van còn nhẹ nhàng, chưa đủ sức ran đe nghiêm khắc.</small>
Thứ hai, còn nhiều khúc mắc về tính hợp lý của hình phạt áp dụng hình phạt doi với các bị cáo.
Vấn đề hình phạt được đặt ra dựa trên mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Chính vì vậy nên tính nguy hiểm cho xã hội càng lớn thì hình phạt mà các bị cáo phải chịu sẽ càng cao. Đối với tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, theo như quy định tại Điều 124 BLHS năm 2015 thì hình phạt được áp dụng với người phạm tội ở đây là phạt tù có thời hạn hoặc phạt cải tạo khơng giam giữ. Tùy theo tính chất mức độ của hành vi phạm tội mà có thể áp dụng mức hình phạt tương ứng. Cụ thể hơn, về tội giết con mới đẻ trong BLHS năm 2015 quy định mức hình phạt cao nhất được áp dụng là 03 năm tù, còn đối với tội vứt bỏ con mới đẻ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là 02 năm tù. Như vậy có thê thấy, các nhà làm luật quy định tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ là tội phạm ít nghiêm trọng theo như khoản 1 - Điều 9 BLHS năm 2015. Điều này đặt ra vẫn đề tranh cãi rằng, liệu hình phạt áp dụng đối với tội này có đang ở mức quá nhẹ nhàng, chưa đủ sức răn đe hay khơng. Vì xét đến cùng bản chất của hành vi phạm tội này đều rất tàn nhẫn, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tính mạng, quyền được sống, quyền được bảo hộ về tính mạng của con người, đồng thời xâm phạm nghiêm trọng đạo đức xã hội, đó là tình "mẫu tử", xâm phạm quyền sống của trẻ em tại Điều 12 của Luật trẻ em năm 2016. Đây là hành vi rất đáng lên án và cần phải có sự trừng trị nghiêm khắc. Nhưng bên cạnh mục đích trừng trị, thì mục đích hướng tới chủ yếu của hình phạt vẫn là dé nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sông xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới cũng như giúp họ trở thành người có ích cho cuộc sống sau này. Đây được xem là mục đích chính và là nội dung cơ bản của bản chất hình phạt trong luật hình sự nước ta. Hơn nữa, do đặc điểm của chủ thê ở tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ khá đặc biệt hơn so với loại tội phạm xâm phạm đến tính mạng con người khác, ở đây chủ thể thực hiện hành vi phạm tội chi có thé là người mẹ trực tiếp sinh ra đứa trẻ. Bên cạnh đó, còn những dấu hiệu đi kèm với đặc điểm của chủ thé đó là do chịu ảnh hưởng nặng nè của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mới dẫn đến việc người mẹ
<small>giêt hoặc vứt bỏ con mình. Nêu nhìn nhận từ góc độ đời sơng xã hội, họ cũng chính là</small>
</div>