Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Bài giảng di truyền học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.33 MB, 149 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG KHOA SINH – MÔI TRƯỜNG </b>

<b>***** </b>

<b>Bài giảng </b>

<b>DI TRUYỀN HỌC (Tài liệu lưu hành nội bộ) </b>

<b>Cán bộ giảng dạy: TS. TRƯƠNG THỊ THANH MAI </b>

<b>Đà Nẵng, 8/2023 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỞ ĐẦU 1. DI TRUYỀN HỌC LÀ GÌ ? </b>

<i>Theo quan niệm của Bateson (1906), di truyền học (genetics) là khoa học nghiên cứu </i>

<i>các đặc tính di truyền và biến dị vốn có của mọi sinh vật cùng với các nguyên tắc và phương pháp điều khiển chúng. Ở đây, tính di truyền (heredity) được biểu hiện ở sự giống nhau giữa </i>

con cái với cha mẹ; và tính biến dị (variability) biểu hiện ở sự sai khác giữa cha mẹ và con cái cũng như giữa các con cái với nhau.

Khái niệm cơ bản của di truyền học là gen (gen) với nội dung không ngừng được mở rộng cùng với sự phát triển của di truyền học.

<b>2. LƯỢC SỬ PHÁT TRIỂN CỦA DI TRUYỀN HỌC 2.1. Giai đoạn trước Mendel </b>

Từ thời xa xưa loài người đã quan tâm đến các hiện tượng di truyền và biến dị. Cách nay 6.000 năm, người Babilon đã tạc trên vách đá những thế hệ nối tiếp của một dòng ngựa và biết cho thụ phấn chéo một số cây trồng. Những phương pháp chọn lọc các giống cây trồng và vật ni, thuần hố và lai giống đã được tất cả các dân tộc cổ xưa áp dụng. Nhưng thời bấy giờ, loài người vẫn chưa đủ hiểu biết về các qui luật di truyền đầy bí ẩn nên có rất nhiều quan niệm ngây thơ và sai lầm. Ví dụ như: người Hy Lạp cổ xưa cho rằng Hươu cao cổ sinh ra là do lai giữa Lạc đà và Beo, Đà điểu là do lai giữa Lạc đà và chim ?!...

Về vấn đề nam nữ khác nhau về hình thái cũng mang đến nhiều sự giải thích rất thú vị. Thầy thuốc Empedoche (490-430 TCN) cho rằng: Nếu mầm sống của cha mẹ đều nóng thì con trai được sinh ra sẽ giống cha, còn ngược lại thì sinh con gái giống mẹ; nếu của cha nóng, của mẹ lạnh thì sinh con trai có khn mặt giống mẹ; nếu của mẹ nóng, cha lạnh thì sinh con gái giống cha”.

Cuối thế kỷ XVI, Kính hiển vi sơ khai được phát minh bởi A.van Leuvenhook (1632-1723) cho phép quan sát được tinh trùng trong tinh dịch và những sinh vật nhỏ bé khác. Và khoảng giữa thế kỷ XVII-XVIII ra đời hai trường phái:

+ Noãn luận (Ovison), đại diện là Y. Aromatari (Ý), cho rằng: cơ thể con người có đủ các bộ phận đã nằm sẵn trong tế bào trứng, tinh trùng chỉ kích thích sự phát triển của chúng.

+ Vi thể luận (Amimoalism) - đại diện là H. Hacsuckevo, A. Lovenhuc, cho rằng cơ thể nhỏ xíu đó đã nằm sẵn trong tinh trùng, tế bào trứng và cơ thể mẹ chỉ cung cấp chất dinh dưỡng cho nó lớn lên

Năm 1838, nhà thực vật học Ðức là Matthias Jakop Schleiden (1804 - 1881) đã cho rằng tất cả thực vật đều có cấu tạo tế bào và tế bào là đơn vị cấu trúc chủ yếu của sự sống. Là yếu tố nhỏ nhất cấu tạo nên một cơ thể hoàn chỉnh.Ðến năm sau, nhà sinh lý học Ðức Theodor Schwann (1810 - 1881) đã mở rộng và bổ sung nhận định đó. Ơng đi đến kết luận là đối với động vật và thực vật chỉ vốn có một quy luật duy nhất là cấu tạo từ các tế bào, từng tế bào có màng bao bọc cách biệt với thế giới bên ngồi, và những mơ khác nhau do Bisa mơ tả được cấu tạo từ những tế bào chuyên hóa đặc biệt. Và học thuyết tế bào chính thức được ra đời.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Vào thế kỷ 19, các phương pháp lai giống đã được sử dụng ở động vật và thực vật.

<i>Tuy nhiên, quan niệm phổ biến thời bấy giờ là sự di truyền hoà hợp, tức tính trạng của cha </i>

mẹ trộn lẫn nhau tạo nên tính trạng trung gian ở con cái, như lai cây hoa đỏ và hoa trắng cho

<i>ra cây hoa hồng. J. B. Lamarck chú ý nhiều đến sự di truyền tập nhiễm tức các biến đổi do </i>

luyện tập và tập nhiễm trong đời sống cũng được di truyền.

Thuyết di truyền gián tiếp tồn tại gần 23 thế kỷ, và R.C.Darwin cũng chịu ảnh hưởng

<i>của quan niệm này, phát triển thuyết pangen, cho rằng mỗi phần của cơ thể sinh sản ra những phần tử nhỏ là gemmule (mầm) theo máu từ các phần cơ thể tập trung về cơ quan sinh dục, </i>

mỗi cá thể sinh ra do sự hồ hợp tính di truyền của cả cha lẫn mẹ, hơn thế nữa, bao gồm cả tính tập nhiễm

Nhìn chung, quan niệm phổ biến thời bấy giờ là sự di truyền các tính trạng tập nhiễm (inheritance of acquired characters) do Lamarck đề xuất và sự di truyền hoà hợp (blending

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Trong những năm đầu của thế kỷ XX, nhờ ứng dụng di truyền Mendel, các nhà chọn giống đã phát hiện thêm các hiện tượng trội khơng hồn tồn, đồng trội, gen gây chết, đa alen, tương tác gen…Ở giai đoạn này, ngoài thuyết đột biến của Hugo De Vries năm 1901, cịn có hai sự kiện liên quan đến sự ra đời của thuyết di truyền NST và di truyền học Quần thể, đó là sự khởi xướng “thuyết nhiễm sắc thể” bởi Walterr Sutton và Thodor Bovary năm 1902 và việc thiết lập quy luật Hardy – Weingerg năm 1908.

<i>Trong thời kỳ này, một số thuật ngữ thông dụng đã được đề xuất như: di truyền học (genetics) bởi Bateson năm 1906, gen (gene), kiểu gen (genotype) và kiểu hình (phenotype) </i>

bởi W. Johannsen năm 1909.

<b>2.3. Sự ra đời và phát triển của thuyết di truyền nhiễm sắc thể </b>

Năm 1910, Thomas Hunt Morgan cùng với 3 cộng sự là Alfred H. Sturtevant, Calvin Bridges và Herman J. Muller đã xây dựng thành công thuyết di truyền nhiễm sắc thể dựa trên

<i>đối tượng nghiên cứu là ruồi giấm Drosophila melanogaster. Học thuyết này xác nhận rằng </i>

gen là đơn vị cơ sở của tính di truyền nằm trên NST (trong nhân); trên đó các gen sắp xếp Sự ra đời và phát triển của di truyền học gắn liền với

<b>cơng trình nghiên cứu của Gregor Mendel năm 1865 </b>

Với những ý tưởng nghiên cứu độc đáo trên đối tượng cây đậu Hà Lan, năm 1865, G.Mendel đã phát hiện ra các qui luật di truyền cơ sở đầu tiên và qua đó suy ra sự tồn tại tất yếu của các đơn vị di truyền đặc thù – nhân tố di truyền (genetic factor) – qui định các tính trạng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mà ngày nay gọi là gen. Tuy nhiên, giới khoa học đương thời không hiểu hết được những vấn đề Mendel đã đưa ra, do đó khơng thể đánh giá được tầm vóc vĩ đại của phát minh này.

Đến năm 1900, ba nhà thực vật học là Carl Correns của Đức, Hugo de Vries của Hà Lan và Erich von Tschermak của Áo độc lập nhau khám phá lại các qui luật di truyền của Mendel. Và di truyền học chính thức ra đời từ đây, và người

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

theo đường thẳng tạo thành nhóm liên kết. Những đóng góp đáng kể của những người cộng sự của Morgan đó là: Xây dựng bản đồ di truyền (Sturtevant 1913), chỉ ra cơ chế xác định các kiểu hình giới tính của ruồi giấm (Bridges 1916) và phát triển phương pháp gây đột biến bằng tia X (Muller 1927). Với đóng góp to lớn đó Morgan đã được trao giải Nobel năm 1933 và Muller năm 1946.

Năm 1931, Barbara McClintock và Harriet Creighton thu được bằng chứng vật lý trực

<i>tiếp về tái tổ hợp ở Ngơ. Sau đó, hiện tượng này được C. Stern quan sát ở Drosophila. Như </i>

vậy tái tổ hợp có thể được phát hiện cả về mặt vật lý lẫn di truyền ở động vật cũng như ở thực vật. Đến 1944, McClintock phát hiện các yếu tố di truyền vận động, và bà đã được trao giải Nobel năm 1983 về khám phá này.

<i><b>2.4. Sự ra đời và phát triển cuả di truyền học phân tử </b></i>

Sự ra đời của di truyền học phân tử (Molecular genetics) gắn liền với khám phá về ADN từ giữa thế kỷ XX trên đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các vi sinh vật. Tuy nhiên, trước đó Friedrich Miescher (1869) khám phá ra một hỗn hợp trong nhân tế bào gọi là nuclein mà thành phần chính của nó sau này được biết là ADN.

Về mối quan hệ giữa gen và protein, từ 1902 Archibald Garrod qua nghiên cứu bệnh Alcaptonuria ở người đã gọi ý rằng đây là một tính trạng lặn Mendel, có thể liên quan tới sự sai hỏng một enzyme. Bằng các thí nghiệm gây đột biến các gen liên quan đến con đường

<i>sinh hoá trên nấm mốc Neurospora, năm 1941 George Beadle và E.L.Tatum xác nhận mỗi </i>

gen kiểm sốt sự tổng hợp một enzyme đặc thù. Chính giả thuyết một gen - một enzyme nổi tiếng này đã mở đường cho sự ra đời của di truyền hoá sinh, và hai ông đã được trao giải Nobel cùng với Joshua Lederberrg năm 1958. Về sau, giả thuyết này được chính xác hố là một gen xác định một polypeptide - cấu trúc sơ cấp của các protein, trong đó có các enzyme.

Vậy bản chất của gen là gì ? Năm 1944, Oswald Avery và các cộng sự là MacLeod và McCarty bằng thí nghiệm biến nạp in vitro đã chứng minh rằng ADN là vật chất mang thông tin di truyền. Năm 1949, Erwin Chargaff công bố các kết quả đầu tiên về thành phần hoá học của ADN một số lồi.

<i><b>Hình 5: Từ trái qua phải: Miescher, Beadle, Tatum, Jacob và Monod </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Việc nghiên cứu cấu trúc phân tử ADN được bắt đầu từ 1951 với các dẫn liệu nhiễu xạ tia X của Rosalind Franklin và Maurice Wilkins. Các số liệu hoá học và vật lý này là cơ sở mà từ đó James Watson và Francis Crick đã xây dựng thành cơng mơ hình cấu trúc phân tử ADN năm 1953, còn gọi là chuỗi xoán kép (double helix). Phát minh vĩ đại này mở ra kỷ nguyên mới cho sự phát triển của di truyền học và sinh học nói chung. Với phát minh đó, Watson và Crick cùng với Wilkins được trao giải Nobel năm 1962

Sau sự ra đời cấu trúc chuỗi xoắn kép là hàng loạt các khám phá mới. Năm 1958 Matthew Meselson và Franklin Stahl chứng minh sự tái bản bảo toàn của ADN ; năm 1961 Seymour Benzer hoàn tất cơng trình nghiên cứu cấu trúc tinh vi của gen, Francois Jacob và Jacqué Monod tìm ra cơ chế điều hoà sinh tổng hợp Protein và đạt giải Nobel cùng với Andrre Lwoff năm 1965 ; S. Brenner, Jacob và Meselson khám phá ra ARN thông tin ; S.Brenner và F.Crick chứng minh mã di truyền là mã bộ ba ; cơng trình giải mã di truyền này được hoàn tất vào tháng 6 năm 1966 bởi hai nhóm nghiên cứu của Marshall Nirenberg và Har Gobind Khorana (giải Nobel năm 1968).

<b>2.5. Sự ra đời và phát triển của công nghệ ADN tái tổ hợp </b>

Nền tảng của công nghệ ADN tái tổ hợp được thành lập năm 1972 khi Paul Berg tạo ra phân tử ADN tái tổ hợp đầu tiên trong ống nghiệm. Một năm sau, Herbert Boyer và Stanley Cohen lần đầu tiên sử dụng plasmid để tạo dòng ADN. Lĩnh vực ứng dụng mới này của sinh học phân tử đã tạo ra một cuộc cách mạng mới trong sinh học. Đóng góp đang kể trong lĩnh vực này là khám phá về các enzyme giới hạn (restriction endonuclease) từ năm 1961-1969 của Werner Arber, Daniel Nathans và Hamilton Smith (giải Nobel năm 978) ; đề xuất các phương pháp xác định trình tự bazơ trong các axit nucleic năm 1977 bởi P.Berg, W.Gilbert và Frederick Sanger (giải Nobel hoá học năm 1980) ; sự khám phá ra các gen phân đoạn năm 1977 bởi Phillip Sharp và Richard Robert (giải Nobel năm 1993) ; sự phát minh phương pháp

<i><b>Hình 7: Từ trái sang phải: Watson, Crick, Khorana và Nirenberg Hình 6: Từ trái qua phải: Avery, Franklin, Wilkins và Chargaff </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

PCR của Kary B.Mullis năm 1985 và phương pháp gây đột biến định hướng của Michael Smith từ 1978-1982 (giải Nobel háo học năm 1993)...

Cùng với những thành tựu ứng dụng ly kỳ trong sản xuất và đời sống xã hội, như việc sản xuất các chế phẩm y sinh học bằng công nghệ ADN tái tổ hợp, sử dụng các liệu pháp gen trong điều trị bệnh di truyền, tạo các giống sinh vật mới bằng con đường biến đổi gen, dự án bộ gen người cũng gây không ít hoài nghi, tranh cãi xung qanh các vấn đề về đạo lý sinh học (biothics) và an toàn sinh học (biosafety).

<b>3. BA NHÁNH NGHIÊN CỨU CHÍNH CỦA DI TRUYỀN HỌC </b>

Trong giai đoạn đầu, đối tượng của di truyền học là thực vật, động vật, người và vi sinh vật. Từ đó dẫn tới sự hình thành các lĩnh vực nghiên cứu tương ứng là di truyền học thực vật, di truyền học động vật, di truyền học người và di truyền học vi sinh vật, trong đó di truyền học tế bào là cơ sở. Giai đoạn này kéo dài thời Mendel cho đến thập niên 1940, với đặc trưng là nghiên cứu qui luật di truyền các tính trạng qua các thế hệ. Vì vậy nó thường được gọi là giai đoạn di truyền học Medel hay di truyền học cổ điển (Mendelian or clasical genetics).

Từ thập niên 1950 đên nay, với sự ra đời của di truyền học phân tử, đối tượng nghiên cứu là tổ chức, cấu trúc, chức năng và cơ chế hoạt động của các bộ gen, các gen và các sản phẩm của chúng. Đặc biệt với sự ra đời của các kỹ thuật tạo dòng gen từ thập niên 1970, việc nghiên cứu cơ bản cũng như ứng dụng trở nên hết sức thuận lợi. Sự phân hoá thành các chuyên ngành lúc này là vô cùng phong phú và đa dang như: di truyền học bệnh, di truyền học ung thư, di truyền học phát triển, công nghệ sinh học...

Một hướng khác của di truyền học là chuyên nghiên cứu cấu trúc di truyền của các quần thể và giữa các quần thể. Đó là di truyền học quần thể mà nguyên lý cơ sở của nó được G.Hardy (Anh) và W.Weinberg (Đức) độc lập đưa ra năm 1908. Tuy nhiên lĩnh vực nghiên cứu này chỉ thực sự bắt đầu từ thập niên 1930 với các cơng trình của R.A.Fisher, J.B.S.Haldane và Sewall Wright. Ngày nay các nhà di truyền học khơng cịn thiên về nghiên cứu sự biến đổi ở mức kiểu hình mà tập trung vào sự biến đổi phân tử trong một quần thể nhằm tìm hiểu ý nghĩa tiến hố của các biến đổi đó. Và di truyền học quần thể trở thành nền tảng cho các thuyết tiến hoá hiện đại.

<b>4. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA DI TRUYỀN HỌC * Các phương pháp kinh điển đặc thù </b>

<i><b>Hình 8: Từ trái sang phải:P. Berg, H.Boyer and S.Cohen, F.Sanger, W.Gilbert </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- Phương pháp tự thụ phấn dùng để chọn cácdòng thuần làm bố mẹ trong các phép lai, các phương pháp lai một hoặc đồng thời nhiều tính trạng giữa các bố mẹ do Mendel đề xuất. Trong đó bao gồm cả các hình thức lai thuận nghịch và lai phân tích nhằm kiểm tra kiểu gen hoặc dung để thiết lập bản đồ di truyền.

- Đối với nghiên cứu di truyền người và một số vật nuôi giao phối cận huyết, đặc trưng là phương pháp phân tích phả hệ nhằm xác định đặc điểm di truyền trội lặn của một tính trạng hoặc bệnh tật; nghiên cứu trẻ sinh đôi cùng trứng và khác trứng nhằm xác định hệ số di truyền của tính trạng; phương pháp gây đột biến kết hợp lai hữu tính dùng trong nghiên cứu và chọn tạo giống, đặc biệt là ở thực vật…

<b>* Phương pháp toán học </b>

Toán thống kê và sác xuất được dùng để phân tích định lượng và lý giải các kết quả nghiên cứu. Chính điều này làm cho di truyền học trở thành một khoa học chính xác và mang tính dự báo. Điều này thể hiện rõ trong các cơng trình nghiên cứu của Mendel, Morgan cũng như các nghiên cứu di truyền số lượng và di truyền quần thể.

<b>* Phương pháp vật lý và hoá học </b>

Trong nghiên cứu di truyền, đặc biệt là di truyền phân tử và tế bào đòi hỏi phải sử dụng các kỹ thuật và phương pháp của vật lý và hoá học. Chảng hạn, trong nghiên cứu hình thái NST khơng thể thiếu các loại kính hiển vi quang học và điện tử, các kỹ thuật nhuộm băng; nghiên cứu thành phần hoá học và cấu trúc ADN đòi hỏi các phương pháp sắc ký và nhiễu xạ tia X…

<b>* Phương pháp tế bào học </b>

Trong nghiên cứu di truyền tế bào có rất nhiều phương pháp được sử dụng để quan sát hình thái NST và thiết lập kiểu nhân của các lồi cũng như để chẩn đốn các bệnh tật liên quan đến sự biến đổi số lượng và cấu trúc NST.

Ngồi ra cịn có các kỹ thuật ni cấy mô, kỹ thuạt hiện băng, kỹ thuật lai huỳnh quang tại chỗ và các kỹ thuật miễn dịch tế bào…

<b>* Phương pháp sinh học phân tử </b>

Sự tiến bộ nhanh chóng của sinh học phân tử và công nghệ sinh học là nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các kỹ thuật ADN tái tổ hợp, lai phân tử,sử dụng các mẫu dò và phương pháp đánh dấu khác nhau, kỹ thuật PCR, kỹ thuật dấu vân ADN, các phương pháp xác định trình tự axit nucleic, phương pháp biến đổi vật liệu di truyền…Chính những cơng cụ kỹ thuật hiện đại này cho phép đi sâu nghiên cứu tổ chức và cấu trúc của các gen và của cả bộ gen, các cơ chế điều hoà và biến đổi di truyền ở mức phân tử cũng như các thành tựu ứng dụng mới trong y sinh học, nông nghiệp và các lĩnh vực khác

<b>5. CÁC NGUYÊN TẮC NGHIÊN CỨU DI TRUYỀN HỌC </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

- Tế bào là đơn vị cấu trúc, chức năng và phát triển của mọi cơ thể sống, nghĩa là có tính tồn năng.

- Thơng tin di truyền chứa trong bộ gen của tế bào chi phối mọi biểu hiện sống của nó mà các gen là đơn vị di truyền cơ sở.

- Sự hoạt động của các gen trong quá trình phát triển cá thể là đặc trưng cho từng gen trong từng giai đoạn cụ thể.

- Các quá trình trong hệ thống sống được điều hồ và kiểm sốt để đảm bảo cho sự tồn tại của nó là liên tục, phổ biến là sự tự điều chỉnh bằng cơ chế phản hồi thơng tin.

- Tính thống nhất giữa cấu trúc và chức năng biểu hiện ở tất cả các mức độ tổ chức khác nhau của sự sống.

- Tất cả các tổ chức và quá trình sống đều tuân theo các quy luật vật lý và hoá học. - Sự sống trên trái đất trải qua quá trình tiến hố khoảng 3.5 tỷ năm qua, vì vậy khi so sánh, những nét tương đồng giữa chúng cho thấy tính thống nhất về mặt nguồn gốc và những nét dị b iệt cho thấy tính phát trỉên, sự phân hoá đa dạng tất yếu của chúng

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>CHƯƠNG I. VẬT CHẤT DI TRUYỀN 1. CÁC TIÊU CHUẨN CỦA VẬT CHẤT DI TRUYỀN ( VCDT) </b>

VCDT đóng vai trị trọng yếu trong cấu tạo và hoạt động của tế bào và cơ thể, do đó nó phải có đầy đủ các tiêu chuẩn sau:

<b>(1) Mang thơng tin di truyền đặc trưng cho lồi (Đặc tính thơng tin – information) </b>

VCDT phải chứa đựng thơng tin ở dạng bền vững cần thiết cho việc sản sinh ra các phân tử cần cho cấu tạo và hoạt động của tế bào.

Tiêu chuẩn này bao gồm:

<i>+ Tính chất của gen cấu trúc: VCDT phải có khả năng đặc trưng cho cấu trúc của các </i>

phân tử khác trong tế bào. Từng đoạn các nucleotide trên ADN gen cấu trúc với thành phần và trình tự sắp xếp riêng, qui định từng đoạn axit amin trên một polypeptid.

<i>+ Tính chất của gen điều hồ: VCDT phải có khả năng điều hồ hoạt động của gen. </i>

<b>Một số vùng của ADN trên một operon, có các gen điều hồ và gen khởi động, hoạt động như </b>

các khố hãm để ngắt ( kìm hãm, ức chế) hoặc mở ( kích thích, cảm ứng) hoạt động của gen.

<b>(2) Tính chất tự sao, có khả năng tái bản một cách chính xác (Đặc tính tái bản – </b>

Replication)

VCDT phải có khả năng tự tái tạo một cách chính xác để thơng tin di truyền của thế hệ sau giống như của thế hệ trước.

<b>(3) VCDT phải có khả năng biến đổi (Đặc tính đột biến – mutation) </b>

VCDT trong quá trình tái bản dù cho chính xác đến đâu vẫn phải xảy ra các sai sót (đột biến) vì đột biến là nguồn biến đổi cơ sở cần thiết cho sự tiến hố của một lồi, trong khi vẫn duy trì sự ổn định cần thiết.

<b>(4) Thơng tin di truyền chứa trong VCDT phải được sử dụng để tạo ra những phân tử cần thiết cho tế bào. (Đặc tính truyền thơng tin đến sản phẩm – transmission) </b>

<b>2. AXIT NUCLEIC </b>

<b>2. 1. Chứng minh axit nucleic mang thông tin di truyền </b>

Trong một thời kỳ dài, một số nhà nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu protein, tin rằng chính gen là protein, nhiễm sắc thể chứa các mơ hình điều khiển mọi protein cần thiết cho tế bào, các enzim và protein hoạt động trong tế bào được sao chép từ các mô hình điều khiển này.

Những năm sau đó, giả thuyết này khơng cịn đứng vững vì nhiều thực nghiệm đã chứng minh protein khơng có khả năng tái sinh - một tiêu chuẩn cơ bản của VLDT.

<b>2.1.1. Thí nghiệm Griffith </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Năm 1928, Frederick Griffith, một nhà vi khuẩn học đã làm thí nghiệm trên

<i>Pneumococcus, vi khuẩn gây viêm phổi. </i>

Vi khuẩn này có hai dạng:

+ Dạng có vỏ polysaccharide độc, gây bệnh.

+ Dạng khơng có vỏ polysaccharid là dạng lành, khơng gây bệnh. Đây là một dạng đột biến của dạng gây bệnh.

Griffith đã tiêm cho chuột động thời cả hai dạng vi khuẩn độc đã chết vì nhiệt với vi khuẩn sống lành. Nếu tiêm cho chuột từng dạng riêng nhau thì khơng gây bệnh. Nhưng khi tiêm chung cả hai loại cho chuột thì tất cả chuột đều chết.

<i><b>Hình 1.1 : Thí nghiệm của Griffith năm 1928 (A), của Avery và cộng sự năm 1944 (B) </b></i>

Qua mổ xác chuột để phân tích, ơng các nhận các chuột này chết chính là do yếu tố độc của vi khuẩn độc, có vỏ, tuy đã chết nhưng vẫn truyền được yếu tố độc này cho vi khuẩn lành và sống, biến các vi khuẩn sống này từ chỗ lành, không vỏ, thành dạng độc, có vỏ và gây ra viêm phổi ở chuột thí nghiệm.

<b>(A) </b>

<b>(B) </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Vài năm sau, các thí nghiệm này được lặp lại trong ống nghiệm, đã phát hiện chính xác là những chất tách ra từ vi khuẩn chết, có vỏ, độc đem bổ sung cho vi khuẩn lành, không vỏ, sẽ có khả năng biến những vi khuẩn lành này thành dạng độc và có vỏ. Khi đã được biến đổi, các vi khuẩn mới này có khả năng truyền lại các đặc điểm mới thu nhận cho thế hệ sau.

Năm 1944, O.T.Avery và cộng sự đã xác định chất hoá học trong dịch chiết tế bào của vi khuẩn chết truyền sang cho vi khuẩn sống chính là ADN.

<b>2.1.2. Các chứng minh trên thực thể khuẩn </b>

Năm 1940, Max Delbruck và Salvador Luria đã bắt đầu sử dụng một loại đối tượng mới là các virut lây nhiễm, kí sinh trong các vi khuẩn, gọi là thực thể khuẩn (Bacteriophage, hay gọi đơn giản là phage).

<i>Thí nghiệm được tiến hành trên 7 loại virut gây nhiễm E. Coli, được gọi là nhóm thực </i>

thể khuẩn T, đánh số từ T1 đên T7. Tế bào vi khuẩn bị nhiễm virut này, của khoảng sau 20 phút là bị tan vỡ, giải phóng hàng trăm virut mới, tất cả đều là những bản sao chính xác của virut ban đầu.

Các phân tích hoá học trên thực thể khuẩn cho thấy chúng gồm có ADN và protein, nhưng những năm 1940, người ta vẫn chưa rõ về hai loại chất này, chất nào là VCDT, người ta chưa rõ các gen của virut, VCDT mà từ đó sinh ra các virut mới trong tế bào vi khuẩn là nằm trên ADN hay protein.

<b>2.1.3. Thí nghiệm Hershey – Chase </b>

Năm 1952, A.D.Hershey và trợ lý của ông là M.Chase dùng hai mẫu virut, một mẫu trên ADN được đánh dấu bằng đồng vị phóng xạ 32P, mẫu kia trên protein được đánh dấu

<i>bằng động vị phóng xạ 35S. E.Coli là vật chủ, được phát triển trên môi trường đồng vị phóng </i>

xạ. Sau một chu kỳ sinh trưởng, các virut mới sinh ra đều chứa một đồng vị phóng xạ 32P và 35S, được dùng là chất đánh dấu đặc thù để phân biệt ADN với protein.

<i>Một dịng E.Coli ni cấy được lây nhiễm phage đánh dấu 32P, dịng kia 35S. Sau khi </i>

chu trình lây nhiễm bắt đầu, các tế bào lây nhiễm được ly tâm để tách các mảng virut cịn bám ngồi tế bào. Hai mẫu, một chứa vật chất bên trong tế bào và một chứa vật chất ngoài tế bào, được đem phân tích phóng xạ. Người ta phát hiện 35S nằm lại ngoài tế bào vi khuẩn với vỏ bọc virut trống rỗng và 32P thì nằm bên trong tế bào, trong số này sau khi lây nhiễm vào vi khuẩn sinh sản cho thế hệ virut mới. Chứng minh VCDT của T2 là ADN.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<i><b>Hình 1.2 : Thí nghiệm Hershey – Chase </b></i>

<b>2.2. Cấu trúc phân tử của ADN và ARN 2.2.1. ADN (axid deoxyribonucleic) </b>

Lịch sử nghiên cứu cấu trúc ADN gắn liền với lịch sử phát triển của di truyền học hiện đại và sự ra đời của di truyền học phân tử.

1890, Mise (Đức) đã phát hiện phân tử ADN cùng với những protein kết hợp với nó trong nhân tế bào.

1924, R.Feulgen bằng phương pháp nhuộm màu và định vị ADN đã cho thấy ADN nằm trong Nhiễm sắc thể.

1944, Avery, Macleod, Mc Carti đã chứng minh được ADN là VCDT.

Wilkin bằng phương pháp nhiễu xạ chiếu các chùm ronghen qua ADN tinh khiết cho thấy rằng các nucleotide trong ADN được phân bố từng cặp.

Sau đó, Năm 1953, Watson (Mỹ) và Crick (Anh) đã nghiên cứu tiếp và nêu ra mơ hình cấu trúc phân tử ADN dưới dạng chuỗi xoắn kép.

ADN là một phân tử trùng hợp (polymer), gồm nhiều đơn phân (monomer) gọi là các nucleotide.

Một nucleotide có cấu tạo gồm 3 thành phần:

- Đường pentose, 5 carbon,là đường deoxyribose ( C<small>5</small>H<small>10</small>O<small>4</small>) - Nhóm phosphat.

- Bazơ nitơ

Nhóm phosphat gắn vào carbon số 5’ của đường deoxyribose, còn bazơ nitơ gắn vào carbon số 1’. Có 4 loại nuceotit được phân biệt bởi bản chất của bazơ nitơ. Có 4 loại bazơ ni tơ, trong đó:

- Dẫn xuất của purin, gồm Adenin (A) và Guanin (G)

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

- Dẫn xuất của pyrimidin gồm Timin (T) và Xytodin (X)

Một bazơ nitơ liên kết cộng hoá trị với gốc đường ở vị trí thứ nhất tạo nên nucleoside. Nucleoside liên kết với một nhóm phosphate tạo nên nucleotide. Các nucleotide được nối với nhau thành chuỗi polynucleotide, qua các nhóm phosphat và đường pentose - mỗi gốc axit phosphoric liên kết với nguyên tử carbon số 5’ của một gốc đường khác, qua các liên kết phosphodieste.

Hai mạch đơn polynucleotide xoắn nhau thành một chuỗi xoắn kép, trong đó bazơ nitơ của mạch này liên kết với bazơ nitơ của mạch kia bằng cầu nối hyđro, theo nguyên tắc bổ sung:

+ A của mạch này liên kết với T của mạch kia bằng 2 liên kết Hydro. + G của mạch này liên kết với X của mạch kia bằng 3 liên kết Hydro.

Mơ hình ADN dạng B của Watson và Crick cho thấy mỗi vòng của chuỗi xoắn kép gồm 10 cặp bazơ nitơ và có chiều dài 34A<small>0</small>, vì khoảng cách giữa 2 cặp bazơ liền nhau là 3.4A<small>0</small>.

Hai sợi trong phân tử ADN có tính chất định hướng ngược chiều và đặc biệt của liên kết 3’-5’ phosphodieste, dẫn đến tính chất phân cực đối ngược, song song ngược chiều nhau của 2 sợi, từ 3’-5’ và ngược lại 5’-3’.

ADN có cấu tạo đa phân, do nhiều đơn phân hợp lại, có cấu tạo nhiều bậc, dẫn đến tính đa dạng và đặc trưng của sinh giới. Ở mỗi loài, ADN có trình tự nuceotide riêng đặc thù và có số lượng nucleotide khác nhau, có thể từ 5000 ở một virut đơn giản nhất đến 5000 tỷ trong bộ 46 nhiễm sắc thể ở người.

Trong hai chuỗi polynucleotide, đường carbon và phosphat đều giống nhau ở mọi phân tử ADN. Tính đặc thù của từng loại ADN là do các kiểu liên kết khác nhau của 4 loại bazơ nitơ A, G, T, X.

E. Chargaff, qua thực nghiệm thuỷ phân ADN, đã phát hiện “Bao giờ tổng số các bazơ purin trong bất kỳ phân tử ADN nào cũng bằng tổng số các bazơ pyrimidin”.

Trong các loại tổ chức ở động vật và thực vật, luôn luôn về mặt số lượng đều có:

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

A=T, tức A/T=1 G=X, tức G/X=1

Như vậy bao giờ cũng có tỷ lệ: A+G/T+X=1

Điều này chứng minh rằng: Trong phân tử ADN, bao giờ một bazơ purin cũng đứng trước một bazơ pyrimidin và ngược lại.

Tỷ số A+T/G+X khác 1 trong phần lớn trường hợp rất khác nhau trong các loại ADN của các loài sinh vật, nhưng lại là đặc trung cho loài. Ở mỗi loài tỷ số này lại là một hằng số. Người ta gọi đây là tỷ số bazơ.

Nguyên lý bổ sung có tầm quan trọng đặc biệt đối với hiện tượng di truyền, đảm bảo cấu trúc đặc trưng của axit nucleic, biểu hiện không chỉ trong cấu trúc của ADN mà còn trong các cơ chế tự sao ADN, cơ chế sao mã, dịch mã.

Ngày nay người ta đã phát hiện trên 20 dạng xoắn phải khác (điển hình là các dạng A,C,D..) phân biệt với ADN dạng B về khoảng cách giữa các bazơ, cũng như độ nghiêng của các bazơ so với trục và sự phân bố của chúng trên chuỗi xoắn kép.

Gần đây người ta còn phát hiện một dạng ADN có bộ khung ziczắc, cả phân tử đóng xoắn theo chiều xoắn trái và trên mỗi vịng xoắn có đến 12 cặp bazơ. Cấu trúc này được gọi là ADN dạng Z (Theo Watson và Rich, đây là một dạng chuyển dạng của ADN dạng B ).

<b>2.2.2. ARN (Axit Ribonucleic) </b>

ARN là vật chất mang thông tin di truyền ở một số đối tượng sinh vật, như ở virus

<i>khảm thuốc lá (Tabaco mosaic virus, TMV), là virus chỉ chứa lõi ARN và vỏ Protein. Thông </i>

tin di truyền của virus này chứa trong ARN, khơng phải trong protein. ARN có vai trị trung gian, làm cầu nối giữa ADN với protein.

Về mặt cấu trúc, ARN cũng là một chất trùng hợp, gồm nhiều nucleotide gắn nhau, giống như chuỗi đơn của phân tử ADN, hình thành một chuỗi đơn polynucleotide.

Cấu trúc phân tử ARN khác với ADN ở 3 đặc điểm: - Đường của ARN là đường ribose (C<small>5</small>H<small>10</small>O<small>5</small>). - Thay vào Timin(T) là Uraxyl (U).

<i><b>Hình 1.4. Mơ hình liên kết hydro và cấu trúc xoắn kép dạng B , dạng Z</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

- ARN chỉ là một sợi đơn polynucleotide.

Ở prokaryote và Eukaryote đều có 3 loại ARN được phiên mã, sau đó được sửa đổi để tham gia vào quá trình dịch mã

<i><b>Hình 1.5. Sơ đồ cấu trúc của đoạn </b></i>

<i><b>phân tử ARN <sup>Hình 1.6. : Sơ đồ cấu trúc chung của </sup>mARN ở prokaryote và eukaryote 2.2.2.1. ARN thông tin (messenger RNA, mARN) </b></i>

Là loại ARN quan trọng nhất, có cấu trúc mạch thẳng, được dùng làm khuôn mẫu để tổng hợp chuỗi polypeptid. Mỗi mARN nói chung có 3 phần chính:

<i>- Đoạn dẫn đầu (leader): Nằm ở đầu 5’, không được dịch mã nhưng cần thiết để cho </i>

tiểu đơn vị bé ribosome bám vào.

<i>- Đoạn mã hoá (coding): Nằm kế cạnh đoạn dẫn đầu, chứa thông tin cấu trúc của </i>

chuỗi polypeptid được tổng hợp. Đoạn này ở các mARN khác nhau thì khác nhau về số lượng, thành phần, trật tự các ribonucleotid.

Phân tử mARN eukaryote chỉ mang thông tin cấu trúc của một polypeptid (monocistron) vì vậy trình tự mã hố của mARN trưởng thành là liên tục, nhưng phân tử mARN prokaryote nói chung thường mang thơng tin cho nhiều polypeptid (polycistron). Vì vậy trong đoạn mã hố có nhiều đoạn đệm tách biệt giữa chúng.

<i>- Đoạn theo sau (trailer): Nằm ở phía 3’, ngay sau đoạn dịch mã, khơng được mã hố. </i>

<i><b>2.2.2.2. ARN vận chuyển (transfer RNA, tARN) </b></i>

Các tARN có chức năng chính là vận chuyển các axit amin đến vị trí tổng hợp protein trên phức hệ mARN-ribosom trong quá trình dịch mã. tARN có số lượng nucleotid khoảng 75-90. Trong thành phần của nó thường có một số bazơ hiếm như Inosin(I), ribotimidin(T)...tập trung ở các “vịng “ (loop) là nơi khơng có hiện tượng kết cặp bazơ nội phân tử

Về cấu trúc, tARN có cấu hình khơng gian ba chiều dạng “lá chẻ ba” vững chắc là nhờ sự kết cặp của các bazơ ở một số đoạn sau khi phiên mã. Nói chung, các tARN thường rất giống nhau ở nhiều đoạn và sai khác chủ yếu là ở anticodon. Mỗi tARN thường có 3 – 4 vịng chức năng như sau:

+ Vòng 1 chứa 8-12 bazơ, còn gọi là vịng DHU, có chức năng nhận biết enzym aminoaxyl-tARN synthetase ( kết hợp a.amin vào đầu 3’ của tARN).

+ Vòng 2 chứa 7 bazơ, gọi là vòng đối mã, có chức năng đọc mã trên tARN bằng cách kết cặp các bazơ của anticodon với codon.

+ Vòng 3 cịn gọi là tay phụ, có thể khơng có ở một số tARN.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

+ Vòng 4 chứa 7 bazơ, gọi là vịng TYC có chức năng nhận biết ribosom để đi vào đúng vị trí tiếp nhận aminoaxyl-tARN.

Đoạn mạch thẳng –CCA-OH (3’) là nơi gắn a.amin vào.

<i><b>Hình 1.7. Cấu trúc tổng quát của một phân tử tARN 2.2.2.3. ARN ribosom (Ribosom RNA, rARN) và ribosom </b></i>

Các rARN là thành phần cùng với các protein đặc trưng cấu tạo nên ribosom. Ở vi khuẩn có 3 loại rARN khác nhau với hệ số lắng là 23S,16S,5S. Ở các eukaryote có 4 loại rARN với hệ số lắng là 28S,18S,5.8S,5S.

Mỗi ribosom gồm có hai tiểu đơn vị: tiểu đơn vị bé là nơi bám của mARN trong quá trình dịch mã và tiểu đơn vị lớn chứa enzym peptidyl transferase có hai vị trí là A (nơi bám của aminoaxyl-tARN) và P (nơi đính của peptidyl-tARN). Hai tiểu đơn vị này chỉ hợp nhất tạo ra ribosom trong q trình dịch mã.

* Ngồi các loại ARN tế bào chất, ở eukaryote cịn có hai loại ARN nhân: ARN nhân nhỏ (snARN) có trọng lượng phân tử thấp, là thành phần của enzym cắt nối quan trọng trong quá trình chế biến ARN thông tin sơ cấp; ARN nhân không đồng nhất (HnARN) có kích thước rất khác nhau (5000-50000 nucleotid) và dài gấp 10-100 lần so với mARN tế bào chất, chúng chính là tiền thân của mARN sau này.

* Các dạng ARN này đều thực hiện chức năng chung là truyền thông tin di truyền từ ADN đến protein (thể hiện tính trạng di truyền). Đặc biệt chỉ có mARN là bản phiên mã di truyền chứa các mã bộ ba (codon) tương ứng với một axit amin của phân tử protein. Thực hiện chức năng trực tiếp chuyển tải thông tin di truyền từ phân tử ADN đến bản dịch mã biểu hiện ở phân tử protein.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<b>2.3 Tái bản ADN (Replication) </b>

Sự tái bản của ADN, còn gọi là tự sao, tự nhân đôi của ADN, dựa trên cơ sở sự tái sinh của nhiễm sắc thể (NST), bảo đảm cho sự tái tạo trong nhân tế bào con mới được hình thành qua phân bào tồn bộ thơng tin di truyền đặc trưng của tế bào ban đầu.

Quá trình tái bản ADN trong tế bào sống đã được chứng minh qua thực nghiệm là khơng mang tính chất tự động. Để thực hiện quá trình này thì trong tế bào chất của tế bào đã phải có những quá trình sinh tổng hợp mới, các nucleotide được tạo ra trong tế bào do sự kết hợp các chất đường ribose, axit amin, CO<small>2</small> và NH<small>3</small>, hoặc bằng cách hình thành từ các axit nucleic trong tế bào bị phân huỷ, chuyển hoá trở lại thành các nucleotide cần thiết cho tổng hợp axit nucleic.

<b>2.3.1. Hệ enzym tái bản ADN </b>

Trong toàn bộ hệ thống enzym sửa đổi điều chỉnh axit nucleic đã được phát hiện trong tế bào thì hệ enzym tham gia tái bản ADN chiếm vị trí quan trọng nhất, trong đó chủ yếu phải kể đến ADN polymerase.

<i><b>(1). ADN polymerase ở E.Coli </b></i>

Gồm có 3 loại là: ADN polymerase I, ADN polymerase II, ADN polymerase III được ký hiệu là Pol I, Pol II, Pol III. Pol III là enzym có hoạt tính polymerase cao nhất và đóng vai trò chủ chốt trong tổng hợp kéo dài các sợi ADN mới; Pol II có hoạt tính thấp nhất và vai trị trong tái bản khơng rõ ràng; Pol I có hai vai trị chính là tổng hợp ADN thay thế và cắt bỏ đoạn mồi nhờ hoạt tính polymerase và exonuclease 5’-3’.

<i><b>Bảng 1.1 Đặc tính của các ADN polymerase ở E.Coli </b></i>

<i><b>Hình 1.8. Sơ đồ cấu tạo các ribosom của prokaryote và eukaryote </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Đặc điểm Pol I Pol II Pol III

polC (hoặc dnaE)

<i><b>(2). ADN polymerase ở sinh vật nhân chuẩn </b></i>

Ở sinh vật nhân chuẩn, sự tái bản ADN cũng cần có sự xúc tác của enzym polymerase, cụ thể đã được xác định có 3 loại ở các sinh vật bậc cao. Trong tổng số 3 loại enzyme này, người ta đã phát hiện trong nhân tế bào có hai loại là ADN polymerase α và ADN polymerase β, còn ADN polymerase γ được phát hiện trong ti thể. Nói chung, các enzym này rất biến đổi, khác nhau về nhiều đặc tính, như đặc tính sắc kí, tính mẫn cảm với muối, trọng lượng phân tử ….Đồng thời có sự sai khác giữa các lồi sinh vật, và có chức năng khác nhau.

ADN polymerase α có chức năng tái bản ADN của nhân. ADN polymerase β được sử dụng vào việc sửa đổi ADN.

ADN polymerase γ chỉ làm nhiệm vụ tái bản hệ gen ADN ti thể. Cả 3 loại ADN polymerase trên đều khơng có hoạt tính đọc sửa.

<b>2.3.2. Cơ chế tái bản ADN theo phát hiện của Okazaki: tái bản nửa gián đoạn </b>

(semidiscontinous replication)

<i><b>(1). Hiện tượng duỗi xoắn </b></i>

Dưới tác dụng của enzym duỗi xoắn hoặc mở xoắn (enzym derulase hoặc pivotase), xảy ra hiện tượng biến tính và dãn xoắn của chuỗi xoắn kép ADN, có sự đứt liên kết hydro giữa các bazơ nitơ, dẫn đến giải phóng các chuỗi đơn polynucleotide của ADN, tạo nên chạc tái bản (replication fork) hình chữ Y. Ở sinh vật nhân ngun thuỷ thì có vòng tái bản (replycation bubble).

Ở bước này có sự tham gia của một enzym gọi là enzym SSB(single-strand binding), tức là một protein bám sợi đơn, gắn trên ADN một sợi để sợi luôn ln ở tình trạng mở xoắn và được bền vững. Mỗi SSB bám vào 8 bazơ nitơ của sợi đơn ADN. Mỗi chạc tái bản có khoảng 250 SSB.

<i><b>(2). Bước khởi đầu tái bản ADN bằng ARN mồi </b></i>

Các ADN polymerase không thể thực hiện việc khởi đầu cho sự tái bản ADN, do đó giai đoạn này địi hỏi có một yếu tố mồi (primer) làm chức năng khởi động.

Như ta đã biết, sự lắp ráp nucleotide tự do trong môi trường tế bào vào sợi khuôn, bao giờ cũng chỉ bắt đầu từ đầu 3’ của sợi, nói cách khác, sự kéo dài (elongation) được thực hiện do gắn thêm nucleotide vào đầu OH của carbon 3’ tự do. ADN polymerase chỉ xúc tác sự gắn của một deoxyribonucleotide triphosphat trên cực 3’ OH, khơng có khả năng xúc tác sự gắn của nucleotide trên cực 5’P của chuỗi đối diện, nhưng ngay lúc đầu, chưa có đầu OH tự do ở

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

ngay điểm gốc tái bản. Vì thế, enzym ARN polymerase hoạt động tổng hợp nên đoạn ARN mồi ngắn, tạo đầu 3’OH tự do, để sau đó enzym ADN polymerase III bắt đầu hoạt động tái

<i>bản. Ở E.Coli, đoạn mồi là một đoạn ARN ngắn được sinh ra bởi enzym privase. Trình tự các </i>

bazơ nitơ của đoạn mồi được định hướng theo trình tự nucleotide của sợi ADN khn.

<i><b>(3). Loại bỏ ARN mồi và hình thành những phân đoạn Okazaki </b></i>

Sau khi ARN mồi được tổng hợp thì ADN polymerase I có hoạt động loại bỏ ARN mồi nhờ cắt từ đầu 5’ – 3’ và thay vào chỗ của ARN mồi một đoạn ADN khác.

R.Okazaki (Nhật), 1969 là người đầu tiên phát hiện kiểu tái bản nửa gián đoạn của ADN, do đó người ta còn gọi cơ chế này là sự tổng hợp Okazaki.

Okazaki đã chứng minh phần lớn ADN mới tái bản đều là những đoạn ngắn từ 1000-2000 nucleotit. Người ta gọi đây là những phân đoạn Okazaki được bắt đầu bằng một đoạn ARN mồi ngắn, khoảng 10 đơn vị. Đoạn mồi này được dùng là chất mồi để kéo dài chuỗi polydeoxyribonucleotit, nucleotit được gắn vào đầu 3’OH tự do và nối dài chuỗi ra theo chiều 5’-3’. Sau khi loại bỏ đoạn mồi và lấp đầy khoảng trống bằng tác dụng của ADN polymerase I thì các phân đoạn Okazaki được nối lại với nhau bằng enzym nối ADN ligase.

<i><b>Hình 1.9. Tái bản kiẻu nủa gián đoạn </b></i>

Sợi ADN được tổng hợp bằng cách nối các đoạn Okazaki với nhau được gọi là sợi ra chậm (lagging strand), hoặc sợi đi theo, là sợi được tổng hợp không liên tục, dùng khn sợi cũ có định hướng 5’-3’.

Sợi kia đựơc tổng hợp liên tục, dựa trên khuôn sợi cũ theo chiều 3’-5’, chiều mở của chạc ba, gọi là sợi dẫn đầu (leading strand). Đây là sợi mang đoạn mồi.

Kiểu tái bản như trên đã trình bày, một sợi mới được tổng hợp liên tục theo khuôn sợi cũ, theo chiều 3’-5’, chiều mở của chạc ba, sợi mới kia được tổng hợp gián đoạn, khơng liên tục, dùng khn sợi cũ có định hướng 5’-3’, được gọi là kiểu tái bản nửa gián đoạn.

<i><b>(4). Nối các phân đoạn Okazaki nhờ enzym nối ligase </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Khi sợi đi theo được hình thành thì đoạn mồi ARN được loại bỏ bởi ARN nuclease và những đầu tận cùng 5’ và 3’ của ADN được đồng thời đóng lại bởi ADN polymerase. Cuối cùng các phân đoạn Okazaki được nối lại bởi ligase, tạo thành một sợi ADN mới liên tục như sợi dẫn đầu.

Về các bước của quá trình nối các phân đoạn, khi xem xét cơ chế nối hai phân đoạn kế tiếp nhau, người ta thấy đầu 3’ của phân đoạn vừa mới được tổng hợp chỉ tiếp cận chứ không nối liền ngay với đoạn mồi ở đầu 5’ của phân đoạn được tổng hợp trước. ADN polymerase III vừa hoàn thành tổng hợp phân đoạn mới sẽ tách khỏi ADN, ADN polymerase I sẽ thế chỗ, tiếp tục tổng hợp phân đoạn mồi theo chiều 5’-3’, đồng thời do có hoạt tính exonuclease, nó lại loại bỏ đoạn mồi của phân đoạn Okazaki trước đó theo chiều 5’-3’. Khi ADN polymerase I kết thúc, thì tồn tại một khe hở giữa 2 phân đoạn Okazaki kế tiếp nhau. Khe hở này được lấp kín bởi sự xúc tác của enzym nối ADN ligase.

* Ở prokaryote, quá trình tái bản được xảy ra tại một khởi điểm, gọi là điểm OriC. Trong khi đó, hệ gen ở sinh vật nhân chuẩn (Eukaryote) là một hệ gen có kích thước lớn, do đó trong một thời gian ngắn, địi hỏi phải có nhiều khởi điểm được tái bản gần như đồng thời để đảm bảo cho cả phân tử ADN của hệ gen được nhân đơi, trên cùng một NST có nhiều khởi điểm tái bản.

<b>2.3.4. Các hình thức tái bản ở các ADN khác nhau </b>

<i><b>2.3.4.1. Tái bản ADN ở các hệ ADN vòng nhỏ: ADN plasmid và ADN virus </b></i>

Hệ ADN này sử dụng cơ chế vòng lăn (hay còn gọi là lăn đai thùng) để thực hiện quá trình sao chép. Bước đầu tiên trong cơ chế này là hình thành một vết cắt trên một sợi đơn cho phép tháo xoắn sợi ADN chứa đầu 5’.

Đầu tự do này nhanh chóng được phủ bởi protein SSB theo sau là sự kết hợp của primosome để tổng hợp mồi ARN và khởi đầu tổng hợp ADN nhờ ADN polymerase. Đầu 3’ được mở rộng như hình thức sợi dẫn đầu trong sao chép ADN thông thường. Đầu 5’ được tiếp tục “bóc” ra khỏi vịng lăn và các đoạn Okazaki mới được tổng hợp sẽ được nối lại với nhau. Sau khi hoàn thành xong một vòng lăn, một sợi ADN vòng mới sẽ được tổng hợp, các đầu cuối của ADN thẳng sẽ được nối lại hình thành vịng thứ hai. Và mỗi ADN mới cũng chứa một sợi cũ theo nguyên tắc bán bảo tồn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

<small>Ki Ĩu s ao c hÐp v ß n g l ă n</small>

Ngoi ra, i vi h ADN vũng nh cịn có một hình thức tái bản nữa, đó là sự tái bản

<i>kiểu Theta (()). ở vi khuẩn, như E.Coli, plasmid có dạng vịng, phân tử ADN trong đó cũng </i>

có dạng vịng, sự tái bản bắt đầu tại một điểm mở đầu và đi theo hai chiều quanh vịng trịn, vì thế cịn gọi là kiểu tái bản hai chiều (bidirectional). Đây còn gọi là kiểu tái bản theta vì các phân tử tái bản giống chu Hy Lạp theta. Riêng đối với virus HSV có cả hai hình thức tái bản nói trên.

<i><b>2.3.4.2. Sao chép ở E. coli- NST vi khuẩn chỉ có một điểm khởi đầu tái bản duy nhất </b></i>

<i>Hệ gen vi khuẩn của E. coli chỉ chứa sợi ADN dài 4.6x10</i><small>6</small>bp. Sự nhân đôi ADN bắt đầu tại một điểm khởi đầu tái bản, hai chạc tái bản được hình thành ở đó và di chuyển về 2 hướng (tốc độ khoảng 500 - 1000 Nu/giây) đối diện nhau cho đến khi gặp nhau ở điểm đối

<i>diện bên kia của vòng ADN. Chỉ ở điểm này, E. coli có thể điều khiển sự tái bản là điểm khởi </i>

đầu origin. Sau khi hai chạc tái bản được hình thành chúng di chuyển gần như với tốc độ không đổi cho đến khi kết thúc quá trình tự sao. Hình thành một cấu trúc kiểu Theta (()). Vì thế sự khởi đầu tự sao là một quá trình điều hoà rất chặt chẽ, bắt đầu khi protein khởi đầu gắn vào vị trí khởi đầu đặc hiệu trong origin, và quấn ADN quanh chúng hình thành phức hợp ADN - protein. Sau đó phức hợp này gắn vào helicase. Cụ thể là phức hợp này đưa enzyme lên vùng ADN đơn ngay gần kề, các base của nó được bộc lộ ra trong quá trình hình thành phức hệ ADN - protein khởi đầu. ADN primase kết hợp với helicase di chuyển ra xa chạc tái bản để tổng hợp đoạn mồi. Ngay lập tức các protein còn lại cũng sẽ tập hợp hình thành 2 chạc tái bản với các phức hệ protein di chuyển về hai hướng ngược nhau tính từ origin. Tiếp theo phức hệ enzyme này sẽ tiếp tục tổng hợp ADN cho đến khi toàn bộ sợi ADN phía sau origin được hồn tất. Sau đó enzyme topo II sẽ hồn thành nốt cơng việc còn lại là phân ly hai sợi ADN cài xen vào nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<i>Ở E. coli có sự điều hồ rất nghiêm ngặt mối quan hệ tương tác giữa protein khởi đầu </i>

và origin tái bản, sao cho sự khởi đầu tái bản chỉ xảy ra trong điều kiện môi trường giàu dinh dưỡng, phức hệ origin - protein có thể hình thành trên phân tử ADN ngay khi chưa tổng hợp xong. Bên cạnh sự điều hoà của protein khởi đầu, sự metyl hố cũng góp phần vào sự kiểm sốt này (sự tự sao bị ngăn chặn khi các Nu A bị metyl hoá).

<b>2.3.5. Tái bản của các bộ gen ARN </b>

Phương thức tái bản ở các bộ gen ARN của virus khác với hệ thống tái bản ADN đã biết. Trước hết, các enzyme tổng hợp ARN khơng cần mồi, vì vậy khơng có cơ hội cho việc đọc sửa. Ngoài ra về mặt di truyền, ARN là một phân tử kém bền vững so với ADN bởi nhóm hydroxyl có mặt ở nguyên tử C<small>2</small> của gốc đường cho phép thuỷ phân liên kết photphodiester giữa hai ribonucleotide và tạo thành dạng photphodiester vịng giữa các nhóm hydroxyl của C<small>2</small> và C<small>3</small> trong cùng một gốc đường; sau đó cấu trúc vòng này mở ra và để lại nhóm phosphate ở vị trí C<small>3</small>. Sự kết hợp của hai đặc điểm trên là nguyên nhân hạn chế kích thước của bộ gen ARN. Các bộ gen này không thể sinh trưởng quá lớn hoặc không thể tránh khỏi tỷ lệ sai sót cao quang q trình tái bản (10<small>-3</small>-10<small>-4</small>). Trên thực tế, bộ gen ARN có kích thước lớn nhất là bộ gen của virus gây bênh viêm phổi cấp (SARS) thuộc họ coronavirus có kích thước 29.000bazơ. Đây cũng chính là lý do tại sao các virus ARN cho nhiều biến thể khác nhau đến vậy, mặc dù kích thước bộ gen khơng lớn. Điều này thực sự trở thành mối hiểm hoạ bởi vì chúng có thể tiến hố nhanh để xâm nhập vào các hệ thống miễn dịch của vật chủ. Chẳng hạn, các bộ gen HIV có nhiều biến thể gây khó khăn cho việc bào chế các vaccine và thuốc chống lại tất cả các biến thể của nó.

Có hai phương thức tái bản chính ở bộ gen ARN:

<i><b>Hình 1.13 : Cơ chế tái bản ở E. Coli </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<i><b>2.3.5.1. Tái bản của bộ gen ARN thông qua nội bộ ARN </b></i>

Kiểu truyền thông tin trực tiếp từ ARN sang ARN xảy ra trong các tế bào lây nhiễm virus ARN như: virus đốm thuốc lá và nhiều virus thực vật khác, kể cả phage ARN như MS2…Bộ gen ARN của các virus này có mang gen mã hoá enzyme tái bản đặc thù. Sau khi được tổng hợp trong tế bào vật chủ, enzyme này sử dụng bản thân ARN virus làm khuôn để tổng hợp các phân tử ARN bổ sung. Đến lượt mình các ARN bổ sung này lại làm khn để tổng hợp lại các phân tử ARN của các virus thế hệ con.

<i><b>2.3.5.2 Phiên mã ngược (reverse transcription) </b></i>

Phiên mã ngược là kiểu truyền thông tin từ ARN sang ADN chỉ xảy ra ở các tế bào động vật và người bị lây nhiễm bởi một số virus mang một sợi ARN có khả năng gây khối u hoặc hai sợi ARN như trường hợp HIV chẳng hạn. Trên mỗi sợi ARN của virus này có mang một enzyme phiêm mã ngược (reverse transcriptase). Khi xâm nhập vào tế bào vật chủ, enzyme này sử dụng ARN của virus làm khuôn để tổng hợp sợi ADN bổ sung (complement DNA-cADN). Sau đó sợi cADN này có thể làm khuôn để tổng hợp trở lại bộ gen của virus (cADN→ARN) hoặc tổng hợp ra sợi ADN thứ hai bổ sung với nó tạo ra một cADN kép. Phân tử cADN kép này có thể xen vào hệ gen của vật chủ và ở trạng thái tiền virus (provirus). Provirus này có thể được truyền lại cho tế bào con thơng qua sự tái bản ADN vật chủ.

<i><b>Hình 1.14. Mơ hình lây nhiễm và tái bản của virus HIV trong tế bào vật chủ </b></i>

<b>3. NHIỄM SẮC THỂ VÀ SỰ PHÂN BÀO </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Nhiễm sắc thể là những cấu trúc hiển vi trong nhân tế bào, có khả năng tự nhân đơi, bắt màu và giữ được màu basic, nhìn thấy được qua kính hiển vi thường trong quá trình tế bào phân chia, bao gồm ADN và các phân tử khác nằm trong một tổ chức phức tạp, chứa các gen của cá thể sinh vật.

Qua các phương pháp nuôi cấy tế bào ngồi cơ thể và phân tích tế bào học các tổ hợp nhiễm sắc thể đã cho phép, qua khảo sát thực nghiệm, xác định rằng nhiễm sắc thể mang tính chất đặc trưng cho từng lồi sinh vật, về mặt số lượng, hình thái, cấu trúc, đây là kết quả q trình tiến hố lịch sử lâu đổi của từng loài. Nhiễm sắc thể tồn tại trong nhân tế bào soma của sinh vật nhân chuẩn bao giờ cũng thành từng cặp, gồm hai nhiễm sắc thể giống nhau về hình dạng, kích thước và cấu trúc đặc trưng được gọi là cặp nhiễm sắc thể cùng nguồn (hay cặp nhiễm sắc thể đồng dạng), trong đó có một nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ mẹ, nhiễm sắc thể kia có nguồn gốc từ bố.

<b>3.1. Sinh sản hữu tính và sự ổn định bộ nhiễm sắc thể </b>

Ở các Eukaryote có hai kiểu sinh sản chính, vơ tính và hữu tính. Sự sinh sản vơ tính (asexual reproduction) xảy ra khi một cá thể đơn độc tạo ra một cá thể mới giống nó; đây là phương thức sinh sản phổ biến ở thực vật và động vật đơn bào. Sự trinh sinh (parthenogenesis) là một trường hợp đặc biệt, sinh con không qua thụ tinh, con cái sinh ra giống với bố mẹ về mặt di truyền. Sự sinh sản hữu tính (sexual reproduction) xảy ra khi các cá thể tạo ra các tế bào sinh dục đực và cái, hay gọi là các giao tử (gametes), đến lượt chúng kết hợp với nhau tạo thành một tế bào trứng được thụ tinh gọi là hợp tử (zygote), là một tế bào hồn chỉnh mà từ đó phát triển thành một cá thể mới. Hình thức sinh sản này xảy ra ở tồn bộ các nhóm sinh vật, kế cả các động vật đơn giản nhất, các thực vật, và thậm chí cả vi sinh vật. Thơng thường các giao tử đực và cái bắt nguồn từ các cá thể khác nhau, cho nên đời con sinh ra khác với bố mẹ chúng về nhiều chi tiết.

<i><b>Bảng 1.2. Số lưỡng bội (2n) nhiễm sắc thể của một số loài </b></i>

Ong mật (Apis mallifera) Chuột nhà (Mus musculus)

Ruồi dấm (Drosophila melanogaster)

<i>Thực vật: </i>

Lúa gạo (Oryza Saviva) Ngô (Zea mays)

Khoai tây (Solanum tuberosum)

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Mỗi bộ đơn bội chứa n nhiễm sắc thể khác nhau nằm trong tế bào sinh dục, mỗi chiếc chỉ có mặt một lần và chứa các gen khác nhau. Tập hợp toàn bộ các gen trong một bộ nhiễm sắc thể đơn bội như thế được gọi là bộ gen (genome). Số lượng 2n nhiễm sắc thể trong tế bào soma được gọi là lưỡng bội, các nhiễm sắc thể tồn tại theo từng cặp gồm hai chiếc giống nhau về hình dạng, kích thước và trật tự phân bố các gen - một có nguồn gốc từ bố và một có nguồn gốc từ mẹ gọi là các nhiễm sắc thể tương đồng (homologus chromosomes). Ở sinh vật đa bào, hợp tử tăng số lượng nhờ quá trình nguyên phân (mitosis), là kiểu phân chia tế bào tạo ra các tế bào con có số lượng nhiễm sắc thể 2n được giữ nguyên. Khi cơ thể đạt đến độ thành thục sinh dục, một số tế bào ở cơ quan sinh sản trải qua giảm phân (meiosis), tức kiểu phân chia tế bào tạo ra các phân tử có số lượng nhiễm sắc thể giảm đi một nửa(n). Quá trình này được gọi là phát sinh giao tử (gametogenesis) ở động vật và phát sinh bào tử (sporogenesis) ở thực vật. Sau đó, trong quá trình thụ tinh (fertilization), các giao tử cái hay trứng (egg) và giao tử đực hay tinh trùng (sperm) hợp nhất với nhau tạo thành các hợp tử đời con. Các hợp tử mới này lại bắt đầu đi vào một chu kỳ mới y hệt như vậy.

Nhiễm sắc thể là sản phẩm của sự tiến hố, có số lượng đặc trưng cho lồi. Bộ nhiễm sắc thể là một khái niệm đồng nghĩa với số lượng nhiễm sắc thể, chỉ số nhiễm sắc thể có thực trong nhân tế bào.

Người ta đã thấy là các loài sinh vật khác biệt nhau về mặt tiến hố, khơng phải ở số lượng nhiễm sắc thể, mà chủ yếu là về bản chất di truyền, thành phần gen chứa trong bộ nhiễm sắc thể.

<b>3.2. Hình thái và các loại nhiễm sắc thể Eukaryote </b>

Để mơ tả bộ nhiễm sắc thể của một lồi và xác định các nhiễm sắc thể của nó, cần phải thiết lập kiểu nhân (karyotype) và sử dụng một hệ thống các quy ước dựa trên kích thước của chúng, vị trí tâm động và các kiểu băng. Kiểu nhân là một khái niệm đồng nghĩa một phần với bộ nhiễm sắc thể, nhưng trong kiểu nhân, ngồi só lượng cịn có cả hình dạng, kích thước của nhiễm sắc thể. Hình vẽ hay hình chụp bộ nhiễm sắc thể ở kỳ giữa nguyên phân được phóng đại, cắt rời từng chiếc, sắp xếp theo thứ tự từng cặp tương đồng (vai ngắn quay lên trên và vai dài quay xường dưới) rồi sắp xếp, đánh số theo thứ tự từ chiếc lớn nhất đến chiếc nhỏ nhất về kích thước. Ví dụ ở người, các nhiễm sắc thể khơng phải giới tính gọi là nhiễm sắc

Củ cải (Beta vulgaris)

Cà chua (Lycopersicum osculentum)

18 24

<i><b>Hình 1.15 . Bộ NST Ruồi giấm đực và cái </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

thể thường được đánh số từ 1-22, các nhiễm sắc thể giới tính được xếp riêng và đánh số 23; vai ngắn của nhiễm sắc thể được biểu thị bằng p và vai dài được biểu thị bằng q dựa trên vị trí tâm động; mỗi vai được chia thành nhiều vùng và sau đó được xác định bằng các băng. Ví dụ ký hiệu 9q34 nghĩa là vai dài của nhiễm sắc thể số 9, vùng 3, băng 4-là nơi khư trú của gene xác định hệ nhóm máu ABO.

Các nhiễm sắc thể thường khác nhau về vị trí tâm động-vị trí hạt trung tâm (centromere), là nơi bám của sợi thoi vô sắc trong các chu kỳ phân bào, nhìn rõ ở kỳ giữa và kỳ sau của nguyên phân. Thường thì mỗi nhiễm sắc thể chỉ có một eo thắt chứa một tâm động gọi là eo sơ cấp (primary constriction), dựa người ta phân biệt 3 kiểu hình thái:

+ Nhiễm sắc thể tâm cân, hình chữ V, có hai cánh bằng nhau. + Nhiễm sắc thể tâm lệch, 1 cánh ngắn, 1 cánh dài.

+ Nhiễm sắc thể tâm mút, một cánh hết sức ngắn.

Ngoài eo sơ cấp, một số nhiễm sắc thể cịn có eo thứ cấp (secondary constriction), nếu eo này nằm ở gần đầu mút và xảy ra sự thắt sâu sẽ tạo nên một vệ tinh của nhiễm sắc thể (ở ngưới, đó là các nhiễm sắc thể 13, 14, 15, 21 và 22). Eo thứ cấp thường chứa các gen tổng hợp rARN, tích tụ tạm thời và hình thành nên cấu trúc gọi là hạch nhân (nucleolus). Hai đầu mút của nhiễm sắc thể ở eukaryote có cấu trúc đặc biệt gọi là telomere.

<i><b>Hình 1.16. Kiểu nhân bộ nhiễm sắc thể người </b></i>

Bằng các kỹ thuật tế bào học hiện đại, căn cứ các mặt chức năng, cấu trúc, hình thái và đặc thù trong hoạt động, người ta đã phân biệt các loại nhiễm sắc thể khác nhau:

+ Nhiễm sắc thể thường, tức nhiễm sắc thể A (Autosomes) giống nhau ở cả hai giới đực và cái.

+ Nhiễm sắc thể giới tính (sex chromosomes) khác nhau giữa giống đực và giống cái. + Nhiễm sắc thể B còn được gọi là nhiễm sắc thể bổ sung hoặc nhiễm sắc thể phụ, được phát hiện ở một số lồi thực vật như Ngơ, mạch đen, ngồi số nhiễm sắc thể A bình thường.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Các nhiễm sắc thể B ít gặp hơn trong các giống đã được chọn lọc của các lồi nói trên. Nhiễm sắc thể B cũng có ở nhiều sâu bọ, giun dẹt, nhưng bé và không có hiệu quả di truyền rõ rệt.

Ngồi ra ở một số tổ chức, cơ quan ở một số lồi, có dạng nhiễm sắc thể đặc biệt như nhiễm sắc thể khổng lồ, nhiễm sắc thể kiểu chổi đèn.

<i><b>* Nhiễm sắc thể khổng lồ (polytene chromosome) </b></i>

Đây là một loại nhiễm sắc thể có hình dạng và hoạt động đặc trưng có trong một số cơ

<i>quan, tuyến nước bọt, tuyến Manpighi, màng ruột một số côn trùng bộ 2 cánh (Diptera). </i>

E. Balbiani, người Ý, năm 1881 phát hiện đầu tiên nhiễm sắc thể khổng lồ ở tuyến

<i>nước bọt ấu trùng Chironomus. </i>

Người ta còn gọi đây là nhiễm sắc thể đa sợi (polytene) vì chúng có số lượng sợi nhiễm sắc thể nhiều gấp hàng ngàn lần so với nhiễm sắc thể thường, có thể chứa tới 1500-1600 sợi nhiễm sắc, mỗi sợi này tương đương với một chromatide. Nguyên nhân của hiên tượng này là do cơ chế nội nguyên phân hay nội phân bào (endomitosis), nhiễm sắc thể tự nhân đơi, tái bản bình thường, nhưng sau đó lại khơng phân ly, nhân tế bào không phân chia, do đó mà bộ nhiễm sắc thể khổng lồ có dạng chùm nhiều sợi nhiễm sắc (chromoeme), bề ngang to phình ra thành dạng bó sợi, đường kính lớn, chiều dài của những nhiễm sắc thể khổng lồ có thể tới 250-300m, do các nhiễm sắc thể này khơng đóng xoắn mà ln ở dạng

<i><b>dây đơi dài, có thể gấp 100-200 lần nhiễm sắc thể thường. </b></i>

Các sợi nhiễm sắc thể ở trạng thái xoắn không đồng đều, dọc theo trục của nhiễm sắc thể khổng lồ, phân hoá rõ rằng theo chiều dài thành những khoanh bắt màu xẫm, nhạt, không đồng nhất, dẫn đến tính có vân, dọc theo chiều dài nhiễm sắc thể khổng lồ, như các đĩa sang tối xen nhau. Người ta cho rằng các đĩa xẫm màu là nơi tích luỹ nhiều ADN, được tạo ra hoặc do độ xoắn định khu dày đặc hoặc do tập trung nhiều hạt nhiễm sắc (chromomere). Quan sát

<i>ruồi dấm D. melanogastes thấy rằng các biến dị cấu trúc có liên quan với vị trí các đĩa màu cụ </i>

thể. Trình tự sắp xếp của các gen trên nhiễm sắc thể, tức các locus của chúng, có trùng với các đĩa màu nhất định- ở mỗi lồi có hình ảnh về sự sắp xếp và hình dạng các đĩa màu đặc thù của lồi.

<i><b>Hình 1.17. Hình ảnh NST khổng lồ (trái) và NST chổi đèn (phải) </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Với sự phát hiện của nhiễm sắc thể khổng lồ, di truyền tế bào học đã mở rộng khả năng kiểm tra về mặt tế bào học các quá trinh di truyền. Nghiên cứu tế bào học nhiễm sắc thể khổng lồ tuyến nước bọt ruồi dấm đã cho phép xác định đúng vị trí của hàng loạt gen trên nhiễm sắc thể để thiết lập bản đồ tế bào học.

<i><b>* Nhiễm sắc thể kiểu chổi đèn </b></i>

Được phát hiện trong nhân các tế bào trứng động vật có xương sống ở kỳ trước I giảm phân. Mỗi nhiễm sắc thể chổi đèn gồm hai nhiễm sắc thể tương đồng gắn nhau bởi tâm động, mỗi nhiễm sắc thể tương đồng gồm 2 chromatid chị em, mỗi chromatid có một số các vòng ở bên, che nhánh ở trục chính. Các vịng này quấn cả trong và ngồi nhiễm sắc thể (giống như các bọng trên nhiễm sắc thể khổng lồ - là nơi tổng hợp nhiều ARN)

<b>3. 3. Cấu trúc nhiễm sắc thể </b>

Những năm gần đây nhất đã có nhiều thực nghiệm theo hướng làm rõ vấn đề cấu trúc, tổ chức của nhiễm sắc thể, đảm bảo cho chức năng di truyền quan trọng của chúng, là cơ quan trong nhân tế bào, mang ADN, chứa thông tin di truyền đặc trưng của loài.

Về chức năng, người ta thấy rõ vai trị của nhiễm sắc thể, phải tạo ra được mơi trường vật lý cho các phân tử ADN trong đó, có thể tác động qua lại với cả hệ thống trao đổi chất trong tế bào.

Vấn đề mấu chốt, quyết định là nhiễm sắc thể phải có một tổ chức, một kiểu sắp xếp đặc biệt mới tạo thuận lợi cho hoạt động của ADN chứa trong đó, bảo đảm cho q trình tái bản ADN và phân phối các bản sao ADN về các tế bào con, được hình thành qua nguyên phân và giảm phân.

Hệ thống sắp xếp, cách tổ chức, bố trí ADN trong nhiễm sắc thể rõ ràng vơ cùng phức tạp, tinh tế, mới đảm bảo để một tế bào, nhất là tế bào ở sinh vật nhân chuẩn, có thể chứa nhiều nhiễm sắc thể , trong đó bao gồm cả một độ dài tổng số cực lớn ADN, dài gấp nhiều lần so với kích thước của tế bào.

Nghiên cứu , thực nghiệm để làm rõ cách sắp xếp của ADN trong nhiễm sắc thể có nhiều khó khăn vì:

- Tính chất phức tạp của cấu trúc nhiễm sắc thể .

- Các phương pháp, kỹ thuật để nghiên cứu nhiễm sắc thể thường lại làm mất đi hoặc giảm hoạt tính của nhiễm sắc thể.

- Từ trước đến nay, các nghiên cứu tế bào học ở sinh vật nhân chuẩn thường chỉ tập trung trên các tế bào đang phân chia ( nguyên phân và giảm phân).

Tuy vậy, cho đến nay, người ta cũng đã thu được nhiều kết quả qua thực nghiệm, nêu ra được giả thuyết về cách sắp xếp của ADN trong nhiễm sắc thể.

Các kết quả thực nghiệm còn cho thấy cách tổ chức, cấu trúc nhiễm sắc thể tiêu biểu cho một mối tương tác phức tạp nhất giữa cấu trúc và chức năng trong tế bào sống.

<b>3.3.1. Tổ chức của ADN trong nhiễm sắc thể sinh vật nhân nguyên thuỷ: nucleoic (vùng </b>

nhân)

Nhân trong tế bào sinh vật nhân nguyên thuỷ chỉ mới ở dạng nucleoic (vùng nhân), là vùng chứa ADN, trong đó ADN được gấp và cuộn thành nhiều vòng xoắn: Qua kính hiển vi

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

điện tử, người ta thấy được dạng siêu xoắn của ADN này, tính chất siêu xoắn ở đây chịu sự kiểm soát của enzym topoisomerase.

<i>Bằng thực nghiệm, người ta đã tách được ADN từ tế bào E.Coli thành khối đặc, tức </i>

nucleoic, trong đó có tác động lẫn nhau giữa ARN với ADN để hình thành cuộn gấp.

Nhiễm sắc thể của sinh vật nhân nguyên thuỷ cũng có phần protein gắn ở trong đó. Đây là loại histon có một đoạn axit amin tương ứng với histon 2B của sinh vật nhân chuẩn, là histon ổn định nhất, vì đoạn axit amin này là chung cho mọi sinh vật nhân chuẩn.

Một trong các vai trị của histon có thể là để bảo vệ ADN khỏi bị thuỷ phân bởi nhiều nuclease có mặt trong tế bào. Vì vậy, ta thấy mọi ADN trong tế bào sinh vật nhân nguyên thuỷ đều có histon kết hợp. Người ta cũng thấy virut SV-40 ở động vật có vú cũng có ADN hai sợi kết hợp với histon.

<b>3.3.2. Tổ chức ADN trong nhiễm sắc thể sinh vật nhân chuẩn: nucleosome ( thể nhân) </b>

Việc nghiên cứu cách tổ chức, sắp xếp của ADN trong nhiễm sắc thể đã được tiến hành bởi Wood-Cock, Oluis 1974 và Oudet, 1975. Ngày nay, người ta đã xác định rõ trong nhân eukaryote có ít nhất 2 nhiễm sắc thể với hàm lượng ADN lớn hơn nhiều. Các ADN liên kết với nhiều loại protein khác nhau, chủ yếu là các histon (có bản chất bazơ) và các protein phi histon (có bản chất axit), để tạo ra phức hợp nucleoprotein gọi là chất nhiễm sắc (chromatin).

Protein histon trong các tế bào sinh vật nhân chuẩn gồm có 5 loại, với tỷ lệ gần như nhau, bao gồm H<small>1</small>, H<small>2A</small>, H<small>2B</small>, H<small>3</small>, H<small>4</small>. Riêng hàm lương H<small>1</small> chỉ bằng khoản ½ các loại kia.

<i><b>Hình 1.18. Cấu tạo một nucleosome (trái) và các bậc </b></i>

<i><b>cấu trúc của NST (Phải) </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Trong nhiễm sắc chất, ADN được cuộn xoắn, co ngắn lại ít nhất trên hàng 100 lần, có nhiều mức độ cuộn vịng, co xoắn khác nhau. Mức đơn giản nhất là thể nhân, tức nucleosome được xem là đơn vị cấu tạo cơ sở theo chiều dọc của nhiễm sắc thể, có phần protein là 8 phân tử histon (octamer), được cuộn quanh bởi ADN.

Trong nucleosome, octamer histon gồm:

- 2 phân tử H<small>3</small> và 2 phân tử H<small>4</small> liên kết ở vùng trung tâm. - 2 phân tử H<small>2A</small> và 2 phân tử H<small>2B</small> liên kết ở phía ngồi.

Trong mỗi nucleosme, octamer histon được quấn bởi 1<small>3</small>/4 vòng sợi ADN, ứng với khoảng 140-160 bp. Mỗi nucleosome có đường kính 100A<small>0</small>. Nucleosome này nối với nucleosome kia bằng một đoạn ADN nối dài 15-100bp, có gắn các phân tử histon H<small>1</small> tạo thành một dãy nhiều nucleosome tạo nên sợi cơ bản của nhiễm sắc thể có đường kính khoản 100A<small>0</small>.

Sợi cơ bản này được xoắn tiếp một mức nữa là xoắn bậc 2, tạo nên sợi nhiễm sắc, có đường kính khoảng 250A<small>0</small>. Bước cuộn xoắn này liên quan đến vai trị của histon H<small>1</small>, có vai trò đặc biệt quan trọng tạo ra sự bền vững trong liên kết của các nucleosome, để hình thành cuộn xoắn bậc 2, còn được gọi là solenoit. Trong kỳ trung gian, solenoit được cuộn xoắn một lần nữa, tạo nên một ống rỗng, đường kính khoảng 2000A<small>0</small>, cuối cùng là một lần cuộn xoắn tiếp của ống rỗng, tạo thành cuộn xoắn lớn hơn, có đường kính 6000A<small>0</small>, đây là các chromatide ở kỳ giữa.

Cấu trúc nucleosome được giữ trong suốt chu kỳ của tế bào. Các phân tử histon trong đó được duy trì suốt q trình tiến hố, chứng tỏ vai trị quan trọng của chúng đối với cấu trúc của nhiễm sắc thể, chúng ln có số lượng ổn định.

<b>3.3.3. Dị nhiễm sắc chất và đồng nhiễm sắc chất </b>

Trong chiều dài của nhiễm sắc thể, nhiễm sắc chất cũng khơng đồng đều. Có đoạn là dị nhiễm sắc chất (heterochromatin)-là dạng nhiễm sắc chất kết xoắn nhiều nhất, được phát hiện quanh tâm động và trên nhiễm sắc thể Y, nhuộm màu nhanh hơn, giữ màu lâu hơn. Phần này của nhiễm sắc thể chỉ giữ vai trò cấu trúc trong sự vận động của nhiễm sắc thể trong nguyên phân và giảm phân. Đoạn dị nhiễm sắc chất kết xoắn trước các đoạn khác, không mang hoặc mang ít gen, hầu như khơng có hoạt tính di truyền, tự sao muộn hơn, khơng sao mã, duy trì trạng thái cuộn xoắn cả trong kỳ trung gian. Người ta chia làm hai loại dị nhiễm sắc chất: Loại dị nhiễm sắc chất không ổn đinh và loại dị nhiễm sắc chất ổn định.

Những đoạn khác trên nhiễm sắc thể là những đoạn đồng nhiễm sắc chất (euchromatin) bắt màu bình thường, ngưng kết, đóng xoắn bình thường, có hoạt tính sao mã, mang gen, tái bản sớm hơn trong giai đoạn tổnghợp ADN.

<b>3. 4. Chu kỳ tế bào và nguyên phân </b>

Nguyên phân (mitosis) là quá trình phân chia tế bào trong đó các tế bào con được tạo ra có số lượng nhiễm sắc thể giống với các tế bào bố mẹ. Kiểu phân bào này đặc trưng cho các tế bào soma, kế cả các tế bào sinh dục (2n) ở pha sinh sản của sự phát sinh giao tử, xảy ra theo cấp số nhân với bội số bằng 2, nghĩa là từ một tế bào mẹ ban đầu, qua k lần nguyên phân sẽ tạo ra 2<small>k</small> tế bào giống nó. Nhờ vậy cơ thể lớn lên và các tế bào trong cơ thể thường xuyên được đổi mới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<b>3.4.1. Chu kỳ tế bào (cell cycle) </b>

Các quá trình sinh sản, sinh trưởng và phát triển của tế bào diễn ra vừa có tính liên tục vừa có tính đồng thời và trong một thời gian nhất định có tính chu kỳ, đó là chu kỳ tế bào.

Chu kỳ này gồm các pha của sự phân chia tế bào nguyên nhiễm (M) và kỳ trung gian (interphase) với 3 pha G<small>1</small>, S và G<small>2</small>. Thời gian của toàn bộ quá trình này thay đổi phụ thuộc vào loại tế bào.

Toàn bộ một chu kỳ tế bào gồm 4 pha theo thứ tự sau đây :

+ Thời kỳ trước tổng hợp G1 (giai đoạn G1-first gap) : Thời kỳ này thực hiện việc tổng hợp các protein đặc trưng và các quá trình khác để chuẩn bị cho việc tổng hợp ADN.

+ Giai đoạn S (DNA synthesis): ADN được nhân đôi đồng thời với nhân đôi của histon và một số protein khác.

+ Giai đoạn G2 (second gap): ADN tiếp tục sữa chữa các sai sót khi nó tự nhân đơi, chuẩn bị cho quá trình nguyên phân.

+ Giai đoạn M (mitosis): Thực hiện quá trình nguyên phân.

<b>3.4.2. Nguyên phân (mitosis) </b>

Quá trình nguyên phân được chia thành 4 giai đoạn khác nhau, diễn biến theo một trình tự: kỳ trước (prophase), kỳ giữa (metaphase), kỳ sau (anaphase) và kỳ cuối (telophase). Mỗi giai đoạn có một nét đặc trưng riêng và gắn liền với tập tính của nhiễm sắc thể.

<i><b>(1). Kỳ trước </b></i>

Sau khi tự nhân đôi ở kỳ trung gian (pha S) và hoàn tất việc chuẩn bị bước vào nguyên phân ở pha G2, lúc này các nhiễm sắc thể tiếp tục đóng xoắn và cơ đặc, nhờ vậy chúng hiện rõ dần dưới kính hiển vi quang học, lúc này mỗi nhiễm sắc thể gồm hai chromatide chị em dính nhau ở tâm động. Theo nguyên tắc, các chromatide này hoàn toàn giống nhau. Trong giai đoạn này, hạch nhân thường biến mất và màng nhân bắt đầu tan vỡ. Trung thể (centriole)

<i><b>Hình 1.19. Sơ đồ mô tả chu kỳ tế bào. </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

phân chia và hình thành xung quanh nó một cấu trúc mới gồm rất nhiều sợi thoi trải dài tới các cực của tế bào, một số sợi thoi đính trực tiếp vào tâm động của nhiễm sắc thể.

<i><b>(2). Kỳ giữa </b></i>

Vào kỳ giữa, màng nhân tan biến hồn tồn, các sợi thoi đính vào tâm động của các nhiễm sắc thể và đẩy chúng về mặt phẳng xích đạo của tế bào và xếp thành một vịng. Lúc này các nhiễm sắc thể đóng xoắn cực đại với cấu trúc điển hình đặc trưng cho từng loài.

<i><b>(3). Kỳ sau </b></i>

Vào đầu kỳ sau, tại mỗi nhiễm sắc thể xảy ra sự phân tách tâm động, các chromatid chị em rời nhau và được gọi là các nhiễm sắc thể con. Kế đó, các sợi thoi co rút và gây ra sự chuyển động của các nhiễm sắc thể con giống nhau về hai cực. Chính sự sắp xếp thành một vòng của nhiễm sắc thể ở kỳ giữa và sự phân ly đồng đều của chúng về hai cực ở kỳ sau là quy luật đặc trưng cho quá trình nguyên phân.

<i><b>(4). Kỳ cuối </b></i>

<i><b>Hình 1.20. Chu trình nguyên phân </b></i>

<i><b>Theo thứ tự A, B, C, D-E, F: Kỳ trung gian, kỳ trước, kỳ giữa, kỳ sau, kỳ cuối </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Vào kỳ cuối, hai bộ nhiễm sắc thể con đã về tới các cực đối diện và bắt đầu mở xoắn. Lúc này màng nhân xuất hiện trở lại và bao bọc các bộ nhiễm sắc thể, các thoi vô sắc tan biến, hạch nhân và các nhân được hình thành trở lại.

Kế đó, ở động vật, màng tế bào hình thành một eo thắt từ ngồi vào trong; ở thực vật, một phiến tế bào phát triển từ trung tâm ra ngoài. Điều này làm phân cách hai bộ nhiễm sắc thể con và tế bào chất giữa hai tế bào con. Các tế bào con có số lượng nhiễm sắc thể giống với tế bào ban đầu. Như vậy, nguyên phân gồm hai quá trình phân chia: phân chia nhân và phân chia tế bào chất; nhưng về thực chất là sự phân chia nhân.

<b>3.4.3. Giảm phân, phát sinh giao tử và thụ tinh </b>

<i><b>3.4.3.1. Giảm phân (meiosis) </b></i>

Giảm phân là kiểu phân bào đặc trưng cho các tế bào sinh dục, trong đó các tế bào con sinh ra (gọi chung là các giao tử) có số lượng nhiễm sắc thể giảm đi một nửa.

Giảm phân xảy ra ở pha trưởng thành sau khi bộ nhiễm sắc thể đã được nhân đôi ở kỳ trung gian thuộc pha sinh trưởng. Quá trình giảm phân gồm hai lần phân chia nối tiếp nhau, giảm phân I và giảm phân II. Mỗi lần phân chia này cũng được chia làm bốn kỳ: Giảm phân I còn được gọi là phân bào giảm nhiễm vì số lượng nhiễm sắc thể 2n giảm xuống còn n. Trong giảm phân I, các chromtid chị em vẫn cịn dính nhau trong khi các nhiễm sắc thể tương đồng phân ly. Giảm phân II còn gọi là phân chia đồng đều và rất giống với nguyên phân ở chỗ phân tách các chromatid chị em và số lượng nhiễm sắc thể giữ nguyên.

<i><b>Hình 1.21. Kết quả của giảm phân với hai lần phân chia. Sơ đồ này còn cho thấy hiậu quả của sự tái tổ hợp và phân chia giảm nhiễm trong giai đoạn giảm phân I </b></i>

Giảm phân là quá trình di truyền căn bản và quan trọng nhất ở cấp độ tế bào, là sơ sở cho việc lý giải các qui luật di truyền và biến dị. Giảm phân cùng với sự thụ tinh sau đó cho phép duy trì số lượng nhiễm sắc thể ở các lồi sinh sản hữu tính; giảm phân I cho phép các nhiễm sắc thể bố và mẹ khác nhau phân ly ngẫu nhiên về mỗi giao tử; sự trao đổi chéo giữa các chromatid trên các cặp nhiễm sắc thể tương đồng ở kỳ trước trong giảm phân I tạo ra các tổ hợp alen mới ở các gene khác nhau.

<i><b>(1) Giảm phân I </b></i>

<i><b>a. Kỳ trước I (prophase I) </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Đây là pha phức tạp nhất của tồn bộ q trình giảm phân, được chia thành 5 giai đoạn khác nhau:

+ Leptitene (sợi mảnh): các nhiễm sắc thể xuất hiện ở dạng sợi mảnh

+ Zygotene (sợi kết hợp): các nhiễm sắc thể tương đồng tiến lại gần nhau và các gen tương ứng đứng đối diện nhau. Quá trình kết hợp của các nhiễm sắc thể tương đồng sau đó gọi là sự tiếp hợp, là nét đặc trưng phân biệt giữa nguyên phân và giảm phân. Cấu trúc gồm hai nhiễm sắc thể tương đồng chứa 4 chromatid chị em gọi là thể lưỡng trị.

+ Pachytene (sợi dày): các thể lưỡng trị ngắn lại, dày lên và sự tiếp hợp hoàn tất. Trong giai đoạn này có thể xảy ra sự trao đổi chéo hay tái tổ hợp.

+ Diplotene (sợi kép): các nhiễm sắc thể tương đồng bắt đầu tách ra, đặc biệt là ở các vùng nằm hai bên tâm động. Thông thường mỗi cặp nhiễm sắc thể tương đồng có thể có một hoặc hai vùng trong đó chúng vẫn còn kề sát nhau hoặc tiếp xúc với nhau, gọi là các hình chéo-là bằng chứng cho sự tái tổ hợp xảy ra sau khi các nhiễm sắc thể tương đồng đã tiếp hợp. Dọc trên các nhiễm sắc thể có thể có một số hình chéo.

+ Diakinesis: các nhiễm sắc thể co ngắn lại và chấm dứt các hình chéo. Điều đó có nghĩa là các hình chéo bị đẩy về các đầu mút của nhiễm sắc thể. Hạch nhân và màng nhân biến mất.

<i><b>b. Kỳ giữa I (metaphase I) </b></i>

Trong kỳ này, các nhiễm sắc thể xếp trên mặt phẳng xích đạo thành 2 vịng và các tâm động được đính vào các sợi thoi vô sắc sao cho cứ hai nhiễm sắc thể của mỗi cặp tương đồng (thể lưỡng trị) nằm đối diện nhau qua mặt phẳng xách đạo với các hình chéo xếp thẳng hàng dọc theo nó. Là cơ sở cho sự phân chia giảm nhiễm và phân ly ngẫu nhiên của các nhiễm sắc thể ở kỳ sau I

<i><b>c. Kỳ sau I (anaphase I) </b></i>

Ở kỳ sau I, hai tâm động trong các nhiễm sắc thể tương đồng của mỗi thể lưỡng trị đẩy nhau ra xa, sao cho một nhiễm sắc thể của mỗi cặp tương đồng đi về một cực. Khi các nhiễm sắc thể tương đồng đẩy nhau ra, các hình chéo hoàn toàn chấm dứt. Các chromatid chị em vẫn cịn dính nhau ở tâm động.

<i><b>d. Kỳ cuối I (telophase I) </b></i>

Ở hầu hết các sinh vật, sau khi các nhiễm sắc thể di chuyển tới các cực thì màng nhân hình thành xung quanh chúng và tế bào này phân chia thành 2 tế bào con. Tuy nhiên, các chi tiết chính xác về mặt tế bào học của kỳ cuối I vẫn còn nhiều sai biệt, đặc biệt ở thực vật.

<i><b>(2). Giảm phân II </b></i>

Giữa giảm phân I và giảm phân II có một kỳ trung gian rất ngắn gọi là interkinesis, không xảy ra sự tổng hợp ADN, mỗi tế bào chứa một bộ nhiễm sắc thể đơn bội (n), trong đó mỗi nhiễm sắc thể chứa hai chromatid chị em. Kỳ trước II thường xảy ra rất nhanh và khơng rõ nét; các kỳ cịn lại tương tự như trong nguyên phân. Cụ thể, ở kỳ giữa II, các tâm động dính vào các sợi thoi và di chuyển về mặt phẳng xích đạo; vào đầu kỳ sau II, các nhiễm sắc

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

thể tách nhau ở tâm động và sau đó các nhiễm sắc thể con phân ly về các cực đối diện; kỳ cuối II bắt đầu khi tại mỗi cực có một bộ nhiễm sắc thể đơn bội đơn (n) và màng nhân hình thành xung quanh chúng.

<b>3.4.3.2. Sự phát sinh giao tử </b>

Giảm phân là thời kỳ quan trọng nhất của quá trình phát sinh giao tử ở động vật và phát sinh bào tử ở thực vật. Hai quá trình này về căn bản là giống nhau nhưng cũng có sự khác nhau cơ bản.

<i><b>(1). Sự phát sinh giao tử ở động vật </b></i>

Ở động vật, sự tạo thành giao tử đực hay tinh trùng gọi là sự sinh tinh xảy ra trong tinh hồn-cơ quan sinh sản đực. Q trình này bắt đầu với sự sinh trưởng của một tế bào lưỡng bội chưa biệt hoá gọi là tế bào mẹ tinh trùng. Tại pha sinh sản, tế bào này thực hiện nhiều lần nguyên phân để gia tăng số lượng tế bào mẹ tinh trùng (2n). sau đó, các tế bào này chuyển qua pha sinh trưởng, biệt hoá thành một tinh bào sơ cấp (2n kép). Kế đó, tế bào này trải qua pha trưởng thành với hai lần phân chia liên tiếp của giảm phân. Sau giảm phân I, một tinh bào sơ cấp cho ra hai tinh bào thứ cấp (n kép). Sau giảm phân II, mỗi tế bào này phânc hia thành 2 tinh tử (n). Bước cuối cùng là sự biệt hoá tinh tử thành các tế bào tinh trùng có cấu tạo đầy đủ các bộ phận như đầu, cổ và đuôi dài.

Sự sinh trứng ở động vật xảy ra trong các buồng trứng, cơ quan sinh sản cái. Quá trình này cũng bắt đầu bằng một tế bào mẹ của trứng (2n). Sau khi trải qua pha sinh sản, mỗi tế bào sinh nỗn này biệt hố thành nỗn bào sơ cấp (2n kép) ở pha sinh trưởng với kích thước tăng trưởng một cách đặc biệt. Tại pha trưởng thành, sau giảm phân I, từ noãn bào sơ cấp tạo ra một noãn bào thứ cấp (n kép) và thể cực thứ nhất. Sau lần giảm phân II, từ oãn bào thứ cấptạo ra một noãn tử (n) và một thể cực, còn thể cực kia tạo ra hai thể cực thứ hai. Kết quả của cả q trình nói trên là từ một tế bào sinh nỗn tạo ra 1 nỗn có kích thước rất lớn và 3 thể cực kích thước rất nhỏ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i><b>Hình 2.22. Sơ đồ minh hoạ quá trình sinh tinh và sinh trứng ở động vật. </b></i>

<i><b>(2). Sự phát sinh giao tử ở thực vật </b></i>

Ở thực vật bậc cao, sự hình thành các giao tử được gọi là sự hình thành hạt phấn hay phát sinh tiểu bào tử. Sự hình thành nỗn cịn gọi là sự hình thành túi phơi hay phát sinh đại bào tử. Các quá trình này tương tự như giảm phân ở động vật, nhưng sản phẩm của chúng có sự khác nhau đáng kể.

<i><b>Hình 1.23. Vòng đời của hoa Lys, một đại diện của thực vật bậc cao. a. Sự hình thành hạt phấn </b></i>

Trong các bao phấn của cơ quan sinh sản đực (nhị), mỗi tế bào mẹ hạt phấn hay tế bào mẹ tiểu bào tử (2n) trải qua giảm phân với 2 thoi vơ sắc thẳng góc nhau tạo ra một cụm bốn tiểu bào tử hay 4 hạt phấn non (n). Sau đó mỗi tiểu bào tử nguyên phân lần thứ nhất cho ra hai nhân đơn bội, gồm một nhân sinh dưỡng (n) và một nhân sinh sản (n); kế đó, nhân sinh sản nguyên phân lần thứ hai cho ra 2 nhân sinh sản con, gọi là các tinh tử. Cấu trúc hạt phấn với 3 nhân đơn bội như vậy gọi là hạt phấn chín có khả năng tham gia vào q trình thụ phấn.

<i><b>b. Sự hình thành túi phơi </b></i>

Tại bầu nhuỵ của cơ quan sinh sản cái (nhuỵ), mỗi tế bào mẹ bào tử cái hay tế bào mẹ đại bào tử (2n) trải qua giảm phân với hai thoi phân bào cùng chiều tạo ra 4 đại bào tử (n), trong đó chỉ có một cái phát triển gọi là noãn và 3 cái kia teo biến. Tế bào noãn (n) trải qua 3 lần nguyên phân liên tiếp tạo ra một cấu trúc chứa 8 nhân đơn bội gọi là túi phơi có cấu trúc phân cực gồm cụm 3 tế bào ở phía dưới, cụm 3 tế bào đối cực ở phía đối diện và ở giữa là hai nhân cực.

<b>3.4.3.3. Sự thụ tinh </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Nói chung, sự thụ tinh là sự kết hợp ngẫu nhiên giữa các giao tử đực và các giao tử cái mang bộ nhiễm sắc thể đơn bội (n) tạo thành các hợp tử mang bộ nhiễm sắc thể lưỡng bội (2n). Thông thường một trứng chỉ được thụ tinh bởi một tinh trùng vào tạo ra một hợp tử.

<i><b>Hình 1.24. Sơ đồ mơ tả cấu trúc tinh trùng và quá trình thụ tinh ở động vật. </b></i>

Ở thực vật bậc cao có q trình thụ tinh kép. Nếu gặp điều kiện thuận lợi, hạt phấn rơi trên núm nhuỵ sẽ nảy mầm. Hai tinh tử tiếp cận lỗ nỗn và xâm nhập vào túi phơi. 1 tinh tử sẽ kết hợp với noãn tạo thành hợp tử (2n), tinh tử kia sẽ kết hợp với nhân nội nhũ tạo thành một nhân nội nhũ (3n). Nhân nội nhũ này sẽ phát triển và nuôi phôi trong q trình phát triển của phơi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

<b>CHƯƠNG II: GEN VÀ QUÁ TRÌNH SINH TỔNG HỢP PROTEIN I. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHÁI NIỆM GEN </b>

<b>I.1. Gen là gì? </b>

Một cách tổng quát, gen là đơn vị thông tin được truyền từ cha mẹ cho con cái. Đây là khái niệm trung tâm của di truyền học. Việc định nghĩa và phân loại gen cho đên nay cịn gặp nhiều khó khăn và phức tạp. Với sự phát triển của các thành tự khoa học công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực Sinh học phân tử, khái niệm gen vẫn còn đang được nghiên cứu và phát triển.

- G. Mendel (1865) là người đầu tiên định nghĩa gen dựa trên giả thuyết là các nhân tố (factor) di truyền nằm trên các nhiễm sắc thể và được xem là một đơn vị di truyền tách biệt.

- Thuật ngữ “gen” được W. Jonhansen đưa ra năm 1909, thuật ngữ này nhanh chóng được thừa nhận trong di truyền học và trở nên thông dụng.

- T.H.Morgan (1926) được xem là người đầu tiên cụ thể hoá khái niệm gen: Gen là đơn vị di truyền nằm trên nhiễm sắc thể không thể chia nhỏ hơn và đóng 3 vai trị sau:

+ Gen là một đơn vị chức năng, nó hoạt động như một đoan vị thống nhất qui định một tính trạng của cơ thể.

+ Gen là đơn vị tái tổ hợp, không phân chia được qua trao đổi chéo.

+ Gen là một đơn vị đột biến, tức là gen phát sinh đột biến như một đơn vị hoàn chỉnh. Năm 1941, để giải quyết vấn đề chức năng của gen, Beadle và Tatum bằng các thí

<i>nghiệm gây đột biến tia X ở Neurosporora đã đề xuất giả thuyết “một gen - một enzyme”, mở đường cho sự ra đời của di truyền sinh hoá. Về sau quan niệm này mở rộng thành “một gen - </i>

<i>một protein” và tiếp tục chính xác hoá bằng “một gen - một polypeptide” bởi V. Ingram </i>

(1956) chủ yếu dựa trên các nghiên cứu hemoglobin của người.

<i>Cho đên nay, định nghĩa về gen là dựa trên giả thuyết này: gen là một đơn vị của </i>

<i>ADN mã hoá cho một polipeptid hoặc một phân tử ARN cấu trúc. Thực ra định nghĩa này là </i>

định nghĩa chức năng.

Sau khi Watson và Crick khám phá ra cấu trúc ADN, quan niệm về gen không ngừng được phát triển và thay đổi.

S.Benzer (1955-1961) cho rằng gen theo quan niệm của Morgan có thể chia thành những đơn vị nhỏ hơn, và ông đã đề xuất các thuật ngữ muton, recon và cistron để định nghĩa các đơn vị không chia nhỏ tương ứng là đột biến, tái tổ hợp và chức năng. Dựa trên việc phân tích tỷ mỷ hằng trăm thể đột biến vùng rII của phage T4 ông đã khẳng định rằng phần lớn các hoạt động trao đổi chéo diễn ra ngay trong một gen và gen bị phân chia thành những đơn vị nhỏ hơn thông qua tái tổ hợp và đột biến. Tuy nhiên, kích thước của muton và recon được coi là tương đương với một cặp nucleotide nên ngày nay tự thân nó đã khơng cịn giá trị. Cịn thuật ngữ cistron của Benzer có nghĩa là một đơn vị chức năng di truyền không chia nhỏ. Vậy cistron là gì? Cistron là một đoạn xác định của ADN mang thông tin cấu trúc của một

<i>polypeptide cụ thể mà giới hạn của nó được xác định bằng trắc nghiệm cis-trans. Kích thước trung bình của một cistron là 1.200 cặp base. Như vậy, cistron chính là gene cấu trúc theo </i>

nghĩa hẹp hay gene mã hóa protein.

<i>Một cách tương đối, theo nghĩa rộng, có thể định nghĩa gen là một đọan xác định của bộ </i>

<i>gen mã hóa thơng tin của một polypeptid hoặc một phân tử RNA chức năng (như tRNA, rRNA...). </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Tuy vậy, định nghĩa này không thể bao gồm đầy đủ chức năng và cấu trúc của gene trong tồn bộ sinh giới, bởi vì các chiến lược cho sự biểu hện gene và tổ chức bộ gene ở các vi khuẩn và eukaryote là rất khác nhau.

<b>I.2. Phân loại gen </b>

Các phân tử ADN trong các hệ gen khác nhau của eukaryote, prokaryote và ở nhiều virus (ở một số ít virus là ARN ) được phân thành các vùng chức năng đặc thù gọi là các gen. Có thể phân biệt như sau:

- Các gen cấu trúc hay cistron, thường gọi tắt là gen, mang thông tin cho tổng hợp các chuỗi polypeptid hoặc các ARN cấu trúc. Các gen điều hồ đặc trưng của prokaryote do đó cũng thuộc loại này.

- Các gen mang thông tin cho tổng hợp ARN vận chuyển (gen tARN). - Các gen mang thông tin cho tổng hợp ARN ribosom (gen rARN).

- Các vùng điều hoà dặc thù ở prokaryote thường vẫn được gọi là gen mặc dù chúng khơng mã hố một polypeptid hoặc ARN nào, đó là các vùng khởi động (promoter) và vùng chỉ huy (operator).

- Các vùng đệm (spacer) giữa các gen.

- Các vùng mã hố các tín hiệu khởi đầu và kết thúc phiên mã và một số vùng thực hiện hàng loạt các chức năng hiện chưa hồn tồn sáng tỏ.

Nhìn chung, theo quan niệm ngày nay có thể coi ADN (hay ARN ở một số virus) có hai loại gen: Một phần là các gen cấu trúc mang thông tin cần cho sự tổng hợp các protein, tARN, rARN. phần lớn ở dạng dự trữ, chúng thực hiện một loạt chức năng liên quan tới sự điều hồ hoạt tính ở các phần của bộ gen.

<b>I.3. Khuyếch đại gen (Gene amplification) </b>

<i><b>I.3.1. Gen phức (multiple gene) </b></i>

Phần lớn các gen cấu trúc của eukaryote là gen đơn, một số là gen phức đã được phát hiện.

Ví dụ: Các phân tử rARN 18S và 28S được phiên mã từ một vùng khởi động chung, còn rARN 5S được phiên mã tách biệt từ các gen của nó.

Ở cóc Xenopus (Châu Phi), có khoảng 300 bản sao của gen mã hoá 3 loại rARN trên một genom đơn bội, tất cả lặp lại trên 1 nhiễm sắc thể, hình thành vịng để tạo ra hạch nhân. Giữa các gen có các đoạn nối, chiều dài và thành phần có khác nhau. Gen rARN 5S có khoảng 20000 bản sao, nằm trên một nhiễm sắc thể khác.

Các tế bào người chứa khoảng 200 bản sao của 3 gen rARN, trải trên 10 nhiễm sắc thể khác nhau.

<i><b>I.3.2. Khuyếch đại gen </b></i>

Phần lớn các gen phức nói trên đêù thuộc phần ổn định trong genome. Tuy vậy ở một số trường hợp, khi cần thiết có các bản sao của gen được tạo thành.

Ví dụ: Ở nỗn bào Cóc Xenopus, các gen rARN được khuếch đại khoảng hàng ngàn nếp cuộn, tạo ra nhiều rARN tự do, nhiều đoạn ADN. Riboxom được hình thành trên những đoạn này được sử dụng để tổng hợp ra nhiều protein cần thiết cho sự phát triển của trứng cóc,

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×