Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích sự cần thiết phải ban hành các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng và nội dung các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng theo quy định pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.58 KB, 15 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>A, MỞ ĐẦU</b>

An toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng (TCTD). Để đảm bảo an tồn trong kinh doanh của TCTD, pháp luật có những quy định có tính hạn chế quyền tự do kinh doanh của các TCTD. Các hạn chế đó được đặt ra nhằm bảo đảm an tồn cho chính các TCTD và đồng thời để bảo vệ lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Đó là sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn của cả hệ thống các TCTD, lợi ích của người gửi tiền và hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của TCTD. Để có kiến thức tồn diện hơn về vấn đề này, em

<i><b>xin chọn đề bài tập số 6 “Phân tích sự cần thiết phải ban hành các hạn chế nhằm đảm bảo an toànđối với hoạt động của các TCTD và nội dung các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt độngcủa TCTD theo quy định pháp luật” làm bài tập học kì.</b></i>

<b>B, NỘI DUNG</b>

<b>I, MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC HẠN CHẾ NHẰM ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONGHOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCTD</b>

<b>1, Khái niệm các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD</b>

<i><b> Khái niệm TCTD. Theo khoản 1 Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì “TCTD là doanh nghiệp thực</b></i>

<i>hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chứctín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mơ và quỹ tín dụng nhân dân”.</i>

<i><b>Khái niệm về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD. Theo từ điển Tiếng Việt, đảm</b></i>

bảo được hiểu là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.

<i>Theo đó, đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD là những hoạt động mà TCTD tiến hành đểthực hiện mục đích kinh doanh tiền tệ của mình được chắc chắn. Dưới góc độ pháp lý, đảm bảo an</i>

tồn trong hoạt động của TCTD được hiểu là một chế định pháp luật, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật về các biện pháp mà TCTD phải thực hiện để đảm bảo an toàn cho các hoạt động của TCTD.

<i><b> Khái niệm về các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD. Theo từ</b></i>

điển Tiếng Việt, hạn chế được hiểu là giữu lại, ngăn lại trong một giới hạn nhất định, không để cho vượt qua. Như vậy, các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD được hiểu là các biện pháp mà Nhà nước và TCTD cấm, hạn chế hoặc giới hạn TCTD khơng được làm trong q trình hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo cho sự an toàn đối với hoạt động của TCTD.

<b>2, Đặc điểm của các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD</b>

<b> Tất cả các chủ thể có liên quan đến hoạt động ngân hàng đều chịu tác động bởi các hạn chế đảm</b>

bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD.

<i> Về phía TCTD, TCTD là chủ thể chịu sự tác động và áp dụng nhiều nhất của các hạn chế này vì</i>

đây là chủ thể cung cấp và thường xuyên tiến hành hoạt động ngân hàng. Việc tác động của các hạn chế đó thơng qua từng thành viên của tổ chức đó.

<i> Về phía cơ quan quản lý Nhà nước, sự tác động của các hạn chế thể hiện ở chỗ đây là một trong</i>

những căn cứ pháp lý để các cơ quan quản lý Nhà nước áp dụng trong quá trình thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm. Đồng thời, đây là cơ sở cho các cán bộ có thẩm quyền xem xét các hoạt động của TCTD có tuân thủ đúng quy định của pháp luật hay chưa, nếu có vi phạm thì tính chất, mức độ đến đâu và cách xử lý vi phạm.

<i> Về phía khách hàng của TCTD, sự tác động của các hạn chế thể hiện ở chỗ khách hàng sẽ biết khả</i>

năng mà TCTD có thể cung ứng cho mình mà khơng rơi vào những hạn chế đó. Chẳng hạn tại khoản 1

<i>Điều 128 Luật các TCTD 2010 quy định: “Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàngkhơng được vượt q 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng...” thì khách hàng sẽ biết được mức tối đa</i>

được TCTD cấp tín dụng để có kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn sao cho hợp lý. Đảm bảo an toàn cho hoạt động của TCTD có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế và giữ vững được đất nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>II, SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH CÁC HẠN CHẾ NHẰM ĐẢM BẢO AN TOÀN ĐỐIVỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCTD</b>

Để thấy được sự cần thiết của việc đưa ra các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD trước hết phải hiểu được vai trò của TCTD và các hoạt động của TCTD đối với nền kinh tế như thế nào để thấy được tại sao hoạt động này cần thiết phải được đảm bảo an toàn và cách thức đảm bảo an toàn được thực hiện ra sao.

TCTD là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với vai trò là đối tượng trung gian cấp vốn và điều tiết vốn cho nền kinh tế. Thơng qua hoạt động của các TCTD đã góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thơng hàng hóa phát triển, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuấ kinh doanh qua đó làm kích thích sản xuất. Chẳng hạn như các doanh nghiệp vay vốn để sản xuất, mua sắm, trang bị máy móc thiết bị, xây dựng, mở rộng nhà xưởng...Bên cạnh đó, hoạt động tính dụng đáp ứng kịp thời các như cầu thanh tốn, có thể thanh tốn thuận tiện, khơng phân biệt khơng gian và thời gian, dẫn đến kích thích q trình lưu thơng hàng hóa phát triển. Việc mở tài khoản và giao dịch thanh tốn thơng qua hình thức chuyển khoản và bù trừ cho nhau khiến cho các mối quan hệ kinh tế được giải quyết nhanh chóng.

Hoạt động của các TCTD đã góp phần kiểm soát được các hoạt động kinh tế khác; Ổn định tiền tệ và giá cả, giúp vận chuyển tiền tệ từ nơi thừa sang nơi thiếu làm cho nền kinh tế khơng lạm phát; Góp phần tạo cơng ăn việc làm, ổn định trật tự xã hội; Góp phần tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thơng... Tuy nhiên, hoạt động của các TCTD mang tính rủi ro cao do quan hệ kinh doanh giữa TCTD và khách hàng thường diễn ra trong thời gian khó kiểm sốt chứa đựng nhiều nguy cơ xấu ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của TCTD. So với phía khách hàng, phía các TCTD là phía chịu rủi ro gấp nhiều lần, TCTD vừa bị phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng mà còn phải chịu rủi ro của nền kinh tế. Hoạt động của TCTD là đi vay để cho cho vay một số tiền với số lượng lớn, nếu chủ thể đi vay khơng hồn trả được thì phía TCTD cũng khơng có tiền để trả nợ cho khách hàng gửi tiền khi đến hạn. Lúc đó, lợi ích của người gửi tiền bị ảnh hưởng, họ đồng loạt rút tiền khiến cho TCTD có thể bị rơi vào tình trạng mất kiểm sốt. Nhưng nếu một TCTD rơi vào tình trạng mất kiểm sốt khơng chỉ dừng lại ở chính bản thân nó mà cịn ảnh hưởng có tính chất dây chuyền đến các TCTD khác gây ra những tác động tiêu cực đến toàn hệ thống TCTD.

Với vai trò quan trọng và tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế như vậy, cho nên hoạt động của các TCTD cần đảm bảo tính an tồn và ổn định mới góp phần ổn định nền tài chính quốc gia, là cơ sở để phát triển nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới. Nhưng các hạn chế chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi nó được quy định trong các văn bản pháp luật. Do vậy, pháp luật hiện hành đã nghiên cứu nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng để ban hành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, buộc các TCTD không được phép làm hoặc bị giới hạn trong quá trình hoạt động nhằm bảo vệ an toàn trong hoạt động của TCTD. Nếu không quy định các hạn chế nhằm đảm bảo an tồn trong hoạt động của TCTD thì tín dụng phát triển tràn lan, hoạt động của các TCTD khơng được kiểm sốt một cách chặt chẽ hoặc khơng hiệu quả sẽ khiến nền kinh tế bị lạm phát, ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế xã hội.

Pháp luật các nước đều có quy định về các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của TCTD. Chẳng hạn, tại Điều 40 Luật Ngân hàng thương mại Trung Quốc năm 1995 quy định: Cấm ngân hàng thương mại chấp thuận khoản vay khơng có bảo đảm cho các thành viên hội đồng quản trị, thành viên của ban thanh tra, cans bộ, nhân viên quản lí tín dụng của tổ chức mình. Đạo luật số 372 Luật các tổ chức tài chính và ngân hàng năm 1989 của Malaysia quy định về cấm tổ chức tín dụng cho vay đối với giám đốc, nhân viên (Điều 62 Chương IV). Ngồi ra, pháp luật nhiều nước cịn quy định cấm TCTD cho vay đối với một khách hàng vượt quá mức cho phép như Luật Ngân hàng Trung Quốc năm 1995 quy định ngân hàng thương mại không được cho khách hàng vay vượt quá 10% vốn góp tự có của ngân hàng thương mại đó, khơng khống chế này ở Pháp là 40%.

Như vậy, việc ban hành các quy định về các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD là cần thiết và phù hợp với xu thế chung của thế giới, đồng thời cũng là để bảo vệ lợi ích chung

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

của Nhà nước và xã hội đó là sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn của cả hệ thống TCTD và lợi ích của người gửi tiền.

Tuy nhiên, khi đưa ra các quy định pháp luật về các hạn chế nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD, các nhà làm luật phải dựa trên những nguyên tắc nhất định đó là những nguyên lý, tư tưởng cơ bản có ý nghĩa làm cơ sở quyết định điều chỉnh bằng pháp luật nhằm hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD. Các quy định về các hạn chế phải bao quát hết các rủi ro của hoạt động TCTD; đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh, tránh gây khó khăn cho TCTD, khơng hạn chế tăng trưởng tín dụng; đảm bảo sự công bằng, công khai, minh bạch; phù hợp với chính sách Nhà nước về hoạt động của các TCTD và thông lệ quốc tế.

<b>III, PHÁP LUẬT VỀ CÁC HẠN CHẾ NHẰM ĐẢM BẢO AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNGCỦA TCTD</b>

<b>1, Quy định về các hạn chế nhằm đảm bảo an tồn trong q trình thành lập một TCTD</b>

Để đảm bảo an tồn trong q trình hoạt động của TCTD thì pháp luật nước ta đưa ra những quy định chặt chẽ và đầy đủ ngay từ giai đoạn thành lập một TCTD, chỉ khi một TCTD thành lập bảo đảm sự chắc chắn thì mới có thể tiến hành hoạt động kinh doanh được an toàn. Luật các TCTD năm 2010 đã đưa ra điều kiện cụ thể khi thành lập một TCTD bao gồm các điều kiện về vốn, điều kiện về chủ sở hữu của TCTD, người quản lý, người điều hành, thành viên ban kiểm soát, điều kiện về điều lệ và đề án thành lập, phương án kinh doanh.

<i><b> Điều kiện về vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định. Điều 19 Luật các</b></i>

<i>TCTD 2010 quy định “Chính phủ quy định mức vốn pháp định đối với từng loại hình tổ chức tíndụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngồi phải duytrì giá trị thực của vốn điều lệ hoặc vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định”. Mức vốn pháp</i>

định theo quy định hiện hành là 3000 tỷ đồng hoàn toàn hợp lý. Bởi khi đưa ra số liệu cụ thể, nhà làm luật đã dự liệu tính tốn số vốn tối thiểu đối với từng loại doanh nghiệp ở từng lĩnh vực phải có thì mới đáp ứng được đề án kinh doanh, nếu số vốn điều kệ tối thiểu khơng bằng mức vốn pháp định thì hoạt động kinh doanh không thể tiến hành trên thực tế. Vốn đối với các TCTD có vai trị quyết định để đánh giá khả năng tài chính dài hạn và khả năng thanh toán của các TCTD cũng như niềm tin của công chúng vào hoạt động của các TCTD. Việc đưa ra yêu cầu về số vốn pháp định đối với TCTD về phía TCTD nhằm đảm bảo khả năng thực tiễn và mục đích kinh doanh chân chính của chính các TCTD, về phía khách hàng sẽ bảo hộ quyền lợi của những tổ chức, cá nhân có mối quan hệ với TCTD.

Trong thời gian các TCTD chưa đảm bảo mức vốn pháp định theo quy định, Ngân hàng nhà nước không xem xét mở rộng mạng lưới hoạt động (chí nhánh, văn phịng đại diện, đơn vị sự nghiệp, các loại hình hiện diễn khác theo quy định pháp luật) và việc mở rộng nội dung hoạt động của TCTD. Quy định này ban hành có ý nghĩa tích cực đối với việc giảm bớt áp lực về thời gian tăng vốn cho các TCTD chưa hề tăng đủ mức vốn pháp định. Đồng thời cũng góp phần xử lý đối với những TCTD không đáp ứng được yêu cầu về vốn, tạo điều kiện cho những TCTD có thực lực phát triển thị trường kinh doanh hoạt động an toàn. Mặc dù quy định tăng vốn điều lệ bước đầu gây ra khó khăn ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các TCTD nhưng xét về mức độ an tồn lâu dài của TCTD và từ phía khách hàng thì việc tăng vốn như vậy là cần thiết và hợp lý.

<i><b> Điều kiện về chủ sở hữu đối với pháp nhân phải đang hoạt động hợp pháp, cá nhân có năng lực</b></i>

<i>hành vi dân sự đầy đủ “ Chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thànhviên, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là pháp nhân đang hoạt động hợp pháp và có đủ năng lựctài chính để tham gia góp vốn; cổ đông sáng lập hoặc thành viên sáng lập là cá nhân có năng lựchành vi dân sự đầy đủ và có đủ khả năng tài chính để góp vốn.” (điểm b, khoản 1 Điều 20 Luật các</i>

TCTD 2010). Nếu chủ sở hữu là pháp nhân hoạt động không hợp pháp hoặc cá nhân không đủ năng lực hành vi dân sự sẽ khơng có khả năng điều hành hoạt động của TCTD. Ngoài điều kiện về năng lực pháp luật thì điều kiện về khả năng tài chính hay cịn gọi là vốn chủ sở hữu là một điều kiện quan

<i>trong và cần thiết đối với việc thành lập một TCTD “ Tổ chức tín dụng được cấp Giấy phép khi có đủcác điều kiện sau đây: a) Có vốn điều lệ, vốn được cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định” (điểm a,</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

khoản 1 Điều 20 Luật các TCTD 2010). Các nhà đầu tư, chủ sở hữu phải có một số vốn nhất định thì hoạt động kinh doanh mới khả thi, mới đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD và quyền lợi của khách hàng. Trường hợp năng lực tài chính khơng đảm bảo gây nên mất an toàn đã từng diễn ra ở một số ngân hàng ví dụ như Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank). Theo báo cáo của Công ty Cổ phần Truyền thông Tài chính StoxPlus, tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ROE của Habubank trượt 4 quý đến 30/09/2011 là 11,1% (năm 2010 là 14,04%). Đồng thời tỉ suất hiệu quả sử dụng tài sản ROA của Habubank trượt 4 quý đến 20/09/2011 là 1% (năm 2010 là 1,42%). Mặc dù nguyên nhân khiến Habubank rơi vào tình trạng mất kiểm soát do nhiều yếu tố khác nhau như thua lỗ trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, tỉ lệ nợ xấu cao trong đó đáng chú ý là gánh nặng các khoản nợ vay từ nhóm khách hàng Vinashin nhưng khả năng tài chính của chủ sở hữu khơng đảm bảo tỉ lệ ăn tồn cũng góp phần ảnh hưởng đến an toàn trong hoạt động của ngân hàng Habubank.

<i><b> Điều kiện về kinh nghiệm làm việc, trình độ, bằng cấp đối với người quản lý, điều hành, thànhviên Ban kiểm soát chi tiết và phù hợp với từng chức danh và năng lực quản trị. Ngồi ra, pháp luật</b></i>

cịn quy định hạn chế đảm nhiệm chức vụ khi có mối quan hệ đối với những chức danh quản lý khác trong TCTD là điểm tiến bộ của Luật các TCTD 2010 so với các văn bản pháp luật ngân hàng trước đó nhằm ngăn ngừa khả năng lũng đoạn hoạt động ngân hàng của các cá nhân, tổ chức là cổ đông lớn.

<i><b> Điều kiện về Điều lệ của TCTD không được trái với Luật các. TCTD 2010 và văn bản có liên</b></i>

quan là hợp lý. Bởi lẽ, Điều lệ là một trong những văn bản thống nhất trong việc điều hành, quản lý, thậm chí có thể coi là bản Điều luật riêng của một TCTD. Điều lệ của TCTD phải phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành thì các hoạt động của TCTD mới không vi phạm pháp luật, hoạt động của TCTD mới được an tồn, lấy được lịng tin của khách hàng.

<i><b> Điều kiện về đề án, phương án kinh doanh phải “Có Đề án thành lập, phương án kinh doanh</b></i>

<i>khả thi, không gây ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng; khơng tạo ra sựđộc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ chức tíndụng.” (điểm đ, khoản 1 Điều 20 Luật các TCTD 2010). Pháp luật đã quy định và kiểm soát khá chặt</i>

chẽ các đề án kinh doanh của TCTD để không ảnh hưởng đến sự an toàn của nền kinh tế.

<b>2, Quy định về các hạn chế nhằm đảm bảo an tồn trong q trình hoạt động của TCTD</b>

Hoạt động chủ yếu của TCTD là nhận tiền gửi và cấp tín dụng. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động nhận tiền gửi chính là hoạt động giúp các TCTD huy động vôn để tăng vốn kinh doanh, hoạt động này mang lại lợi ích kinh tế cho TCTD cịn hoạt động gây mất an toàn nhất cho TCTD là hoạt động cấp tín dụng. Do vậy, để đảm bảo an tồn trong q trình hoạt động của TCTD thì vấn đề cốt lõi chính là đảm bảo an tồn trong hoạt động cấp tín dụng.

<b>2,1 Hạn chế đảm bảo an toàn trong hoạt động nhận tiền gửi</b>

Trong các hình thức huy động vốn của các TCTD thì hình thức huy động vốn bằng nhận tiền gửi là hình thức quan trọng và chiếm tỉ lệ lớn trong tổng nguồn vốn huy động ở mỗi TCTD. Đây là hình thức huy động vốn dễ dàng, nhanh chóng, tiện lợi, thường xun, tốn ít chi phí. Hoạt động nhận tiền gửi của các TCTD là một trong những hoạt động ngân hàng đặc thù có liên quan đến sự ổn định tiền tệ quốc gia, đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng và sự ổn định, phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, nghiệp vụ nhận tiền gửi lại chứa đựng những rủi ro nhất định do các TCTD dễ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn, khơng bảo vệ được quyền lợi của người gửi tiền, người đầu tư. Do vậy, pháp luật rất chú trọng đến vấn đề này để đảm bảo an toàn cho các TCTD và khách hàng gửi tiền. Pháp luật quy định về các loại tiền gửi mà tùy từng loại hình TCTD được nhận, ví dụ như theo

<i>quy định tại Điều 98 Luật các TCTD 2010 thì Ngân hàng thương mại được phép nhận tiền gửi “khơngkỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác”, cịn đối với loại hình TCTD</i>

phi ngân hàng theo Điều 108, Điều 112 Luật các TCTD 2010 công ty cho thuê tài chính chỉ được phép nhận tiền gửi của tổ chức.

Quy định về các tỷ lệ đảm bảo trong hoạt động nhận tiền gửi: Theo Điều 130 Luật các TCTD 2010 gồm tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn mà TCTD được phép sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã đưa ra những con số,

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

tỷ lệ cụ thể để bảo đảm khi có rủi ro xảy ra các TCTD vẫn đảm bảo được một lượng nhất định để đảm bảo tính thanh khoản cho khách hàng gửi tiền và duy trì được hoạt động của TCTD.

Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 là hành lang pháp lý quan trọng nhằm tăng cường hiệu quả việc bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, góp phần nâng cao niềm tin công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng. Luật bảo hiểm tiền gửi 2012 được xây dựng trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới; hệ thống ngân hàng chịu sự tác động mạnh mẽ của bối cảnh trong nước và quốc tế, niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng bị suy giảm, trong khi đó chính sách bảo vệ quyền lợi người gửi tiền mà cụ thể là chính sách bảo hiểm tiền gửi hiện hành có nhiều nội dung chưa phù hợp với thực tiễn. Luật bảo hiểm tiền gửi 2012 nhằm hướng tới mục tiêu bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền, tăng cường thiết chế đảm bảo an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới. Một số vấn đề quan trọng về chính sách bảo hiểm tiền gửi được điều chỉnh như: nâng cao hạn mức trả tiền bảo hiểm; chuyển đổi cách tính phí từ đồng hạng sang áp dụng mức phí trên cơ sở rủi ro; khẳng định rõ hơn địa vị pháp lý của Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.

<b>2,1 Hạn chế để bảo đảm an tồn trong hoạt động cấp tín dụng 2,1,1 Những trường hợp khơng được cấp tín dụng </b>

Những trường hợp không được cấp tín dụng được quy định tại Điều 126 Luật các TCTD 2010 sửa đổi 2017 (trích luật ở phần phụ lục).

Tại quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 126 Luật TCTD 2010 quy định khơng được cấp tín dụng

<i>đối với “…các chức danh tương đương”. Theo quy định tại khoản 32 Điều 4 Luật các TCTD 2010quy định “các chức danh tương đương theo quy định tại Điều lệ TCTD”. Em cho rằng, đây là một</i>

điểm thiếu sót quan trọng vì rủi ro tín dụng xảy ra phần lớn nguyên nhân từ khâu cấp tín dụng. Nếu cấp tín dụng khơng được thực hiện chặt chẽ, lợi dụng khe hở quy định khơng rõ ràng và cụ thể, TCTD vẫn cấp tín dụng cho những đối tượng đáng lẽ phải thuộc trường hợp hạn chế hoặc cấm khơng được cấp tín dụng cho những đối tượng này sẽ ảnh hưởng đến mức độ an toàn của TCTD.

Tại điểm b khoản 1 Điều 126 Luật các TCTD 2010 quy định TCTD, chi nhánh ngân hàng nước

<i>ngồi khơng được cấp tín dụng cho “cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thànhviên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc(phó giám đốc) và các chức danh tương đương”. Nhưng luật cũng không xác định hoặc chỉ dẫn để</i>

xác định thế nào là cha, mẹ, vợ, chồng, con. Về nguyên tắc, nếu Luật các TCTD không quy định thì sẽ áp dụng theo quy định của Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014. Nhưng trong các quan hệ trên, Luật Hơn nhân và Gia đình chỉ điều chỉnh cụ thể cha mẹ ruột với con đẻ, cha mẹ nuôi với con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú, quan hệ vợ chồng. Vậy con rể với cha mẹ vợ, con dâu với cha mẹ chồng có áp dụng điều luật này hay khơng? Em cho rằng pháp luật cịn bỏ ngỏ mối quan hệ này trong các trường hợp không được cấp tín dụng.

Ngồi ra, pháp luật còn cấm cho vay đối với những trường hợp không đáp ứng được các điều kiện vay vốn. Ngân hàng khơng cấp tín dụng cho những khoản vay không đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn như: mục đích sử dụng vốn vay là bất hợp pháp hoặc khơng có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả hoặc khơng có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định pháp luật chẳng hạn như đi vay trả nợ thuế… Quy định này đưa ra nhằm bảo vệ sự an tồn cho chính TCTD. Trên thực tế, về ngun tắc các TCTD sẽ khơng cấp tín dụng đối với những khách hàng không đủ các điều kiện vay vốn như trên vì nếu TCTD vẫn tiến hành cấp tín dụng, khách hàng khơng đủ điều kiện kinh doanh sinh lời để có thể hồn trả gốc và lãi cho TCTD thì TCTD đã thực hiện khơng đúng mục đích kinh doanh của mình, khó thu hồi được gốc chứ chưa tính đến khoản lãi có thể sinh ra. Tuy nhiên, pháp luật vẫn cần thiết phải quy định trường hợp này để mức độ an toàn trong hoạt động của TCTD được bảo đảm chặt chẽ.

Luật các TCTD 2010 sửa đổi, bổ sung 2017 cịn cấm TCTD khơng được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong trường hợp thuộc khoản 4, 5 và 6 Điều 126. Sở dĩ có quy định này nhằm tránh sự thao túng và lũng đoạn thị trường chứng khốn. Bởi nếu TCTD cấp tín dụng trong những trường hợp này sẽ làm tăng giá trị cổ phần của TCTD, phần trăm số vốn đầu tư của TCTD tại những công ty

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

này sẽ tăng lên dẫn đến việc quản trị, điều hành dần chuyển sang cho chính TCTD gây nên tình trạng lũng đoạn ảnh hưởng đến sự ổn định của nền kinh tế.

<b>2,1,2 Hạn chế cấp tín dụng</b>

Điều 127 Luật các TCTD 2010 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về những trường hợp hạn chế cấp tín dụng (trích luật ở phần phụ lục).

<i> Theo đó, tại khoản 1 Điều 127 Luật các TCTD 2010 quy định: “TCTD, chi nhánh ngân hàng nướcngồi khơng được cấp tín dụng khơng có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho các đốitượng sau đây…”. Như vậy, đối với những đối tượng đó, khi cấp tín dụng thì phải có bảo đảm. Nhưng</i>

<b>“có bảo đảm” phải hiểu theo nghĩa nào? Bảo đảm bằng tài sản hay bảo đảm khơng bằng tài sản? Vì</b>

bảo đảm có thể bằng nhiều biện pháp khác nhau như bảo đảm bằng tài sản trên cơ sở cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và bảo đảm không bằng tài sản. Hiện nay, mỗi ngân hàng thương mại hầu như đã xây dựng quy định về các biện pháp bảo đảm tiền vay để áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống. Tuy nhiên, trên thực tế đã gặp khơng ít khó khăn, vướng mắc liên quan đến việc xử lý, định giá tài sản bảo đảm dẫn đến việc đưa khoản tín dụng lâm vào tình trạng nợ xấu, nợ khó địi khi những giao dịch bảo đảm không phát huy giá trị theo đúng nghĩa. Hệ thống pháp luật nước ta quy định khá cụ thể về các giao dịch bảo đảm, từ Bộ luật Dân sự 2015 đến các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, Bộ, ngành liên quan. Điều này xuất phát từ nhu cầu thực tế nhằm tạo ra một hành lang pháp lý bình ổn cho các bên. Song, điều đó khơng đồng nghĩa với việc, tất cả các hoạt động cấp tín dụng khơng có điều kiện bảo đảm là trái luật, vì pháp luật dân sự tôn trọng tối đa sự thỏa thuận và quyền tự định đoạt của các bên, luật quy định về các hình thức bảo đảm nhưng khơng cấm việc giao kết tín dụng khơng có bảo đảm. Do vậy, khi xem xét có lựa chọn các biện pháp bảo đảm hay không, các bên cần nghiên cứu đồng thời các quy định của pháp luật và Điều lệ cũng như quy định quản lý nội bộ của ngân hàng, vì nếu các quy định của Điều lệ không vi phạm vào điều cấm của pháp luật, các bên buộc phải có nghĩa vụ tuân thủ, mà trong trường hợp này, pháp luật không cấm các ngân hàng đề ra các biện pháp bảo đảm tiền vay. Vì vậy, nếu quy định nội bộ của ngân hàng yêu cầu bắt buộc phải áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay, thì cán bộ ngân hàng sẽ vi phạm pháp luật nếu cho vay khơng có bảo đảm.

Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định một số trường hợp cụ thể cho vay khơng cần có bảo đảm. Theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP Về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nơng nghiệp, nông thôn và Nghị định 116/2018/NĐ-CP Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/ND-CP ngày 09 tháng 6 năm 2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nơng nghiệp, nơng thôn quy định cụ thể về mức cho vay tối đa trong trường hợp cho vay khơng có bảo đảm (trích luật ở phần phụ lục).

<b>2,1,3 Giới hạn cấp tín dụng</b>

Tại Điều 128 Luật các TCTD 2010 đã quy định về giới hạn cấp tín dụng, theo đó tổng mức dư nợ đối với một khách hàng không được vượt quá 15%, đối với một khách hàng và người có liên quan khơng q 25% vốn tự có của ngân hàng thương mại; cịn đối với TCTD phi ngân hàng thì tổng mức dư nợ đối với một khách hàng không được vượt quá 25%, đối với một khách hàng và người có liên quan khơng q 50% vốn tự có. Quy định này là hợp lý vì việc giới hạn tỷ lệ cấp tín dụng đối với khách hàng tránh những rủi ro khi khách hàng và người liên quan vay với tỷ lệ cao mà có rủi ro xảy ra sẽ ảnh hưởng lớn đến độ an toàn của TCTD. Việc quy định về giới hạn cấp tín dụng khác nhau giữa ngân hàng thương mại và TCTD phi ngân hàng xuất phát từ đặc trưng của từng loại hình TCTD, tạo điều kiện phát triển phù hợp cho mỗi loại hình TCTD.

Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan áp dụng đối với TCTD phi ngân hàng theo Luật các TCTD 2010 được quy định cao hơn so với các mức áp dụng đối với ngân hàng thương mại. Quy định này phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động của các TCTD vì các TCTD phi ngân hàng không nhận tiền gửi của cá nhân và cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng nên mức độ rủi ro ảnh hưởng đến hệ thống TCTD thấp hơn nhiều so với các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, quy định này sẽ tạo điều kiện cho các TCTD phi ngân hàng phát triển và hoạt động hiệu quả hơn. Tuy nhiên

<b>trên thực tế có những trường hợp TCTD vi phạm quy định này dẫn đến mất an tồn. Ví dụ ở Ngân</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

hàng Sacombank, các khoản cho vay liên quan đến cơng ty gia đình ơng Đặng Văn Thành là cựu chủ tịch Sacombank - và nhóm cơng ty liên quan đến Công ty Thành Thành Công của gia đình ơng là trái quy định với tỉ lệ cho vay vượt quá 51% so với vốn điều lệ. Luật các TCTD 2010 cũng quy định mở đối với các trường hợp đặc biệt, để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà khả năng hợp vốn của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn của một khách hàng thì Thủ tướng Chính Phủ có thể quyết định mức cấp tín dụng tối đa vượt quá các giới hạn quy định đối với từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, tổng các khoản cấp tín dụng vượt giới hạn khơng vượt q 04 lần vốn tự có của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và cũng quy định các ngân hàng có quyền cấp tín dụng hợp vốn nếu trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng và người liên quan vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng thương mại và 25% vốn tự có của TCTD phi ngân hàng là quy định mở và tạo điều kiện cho cả hai bên cùng có lợi.

<b>2,2 Hạn chế trong việc góp vốn, mua cổ phần </b>

Nội dung về hạn chế trong việc góp vốn, mua cổ phần được quy định tại Điều 129 Luật các TCTD 2010. Theo đó, luật có quy định cấm TCTD góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD (cấm sở hữu chéo). Tuy nhiên do yếu tố lịch sử, trên thực tế, hiện vẫn cịn một số TCTD góp vốn tại nhiều TCTD khác hoặc có sở hữu cổ phần lẫn nhau (xảy ra từ trước khi Luật các TCTD 2010 có hiệu lực hoặc có một số trường hợp TCTD thơng qua các

<b>cơng ty con của mình sở hữu cổ phần của TCTD khác. Chẳng hạn: một ngân hàng A nào đó đầu tư</b>

vào ngân hàng B, B đầu tư cho ngân hàng C, rồi C lại đầu tư vào A. Việc đầu tư chéo này có thể cơng khai trên sổ sách nhưng cũng có thể là khơng. Việc tồn tại nhóm các TCTD sở hữu cổ phần lẫn nhau gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực như làm gia tăng rủi ro hệ thống tạo điều kiện cho các hành vi chuyển vốn lòng vòng, tăng vốn điều lệ khơng thực chất. Có 3 rủi ro lớn xuất phát từ sở hữu chéo trong hoạt

<i>động ngân hàng, đó là: thâu tóm ngân hàng, nợ xấu và tăng vốn ảo, từ đó dẫn đến rủi ro mang tính hệ</i>

thống. Một rủi ro nữa từ sở hữu chéo gây ra, đó là tình trạng cho vay thiếu kiểm sốt có thể tăng

<b>mạnh. Chẳng hạn: khi một TCTD chiếm cổ phần chi phối một ngân hàng khác và biến nhà băng này</b>

thành sân sau của mình, họ có thể buộc ngân hàng bị chi phối cấp tín dụng cho những dự án khơng an tồn hoặc cho doanh nghiệp có quan hệ thân thiết. Ngoài ra, khi các ngân hàng sở hữu cổ phần của nhau, sẽ tạo thành một mạng lưới mà từ đó dễ nảy sinh độc quyền nhóm. Điều này có thể gây xáo trộn trên thị trường và thiệt hại cho nền kinh tế, sở hữu chéo giảm tính minh bạch, giảm khả năng giám sát và tăng khả năng đổ vỡ của một định chế tài chính, khi đó người gửi tiền sẽ chịu thiệt hại. Do đó, cần phải xử lý kiên quyết vấn đề sở hữu chéo theo lộ trình phù hợp.

Sở hữu chéo ln có tác động hai chiều đối với nền kinh tế và với bản thân mỗi chủ thể tập đoàn,

<i>ngân hàng và doanh nghiệp tham gia các sở hữu loại này. Một mặt, sở hữu chéo góp phần cải thiện sự</i>

hỗ trợ vốn, công nghệ, kinh nghiệm và hiểu biết lẫn nhau giữa các đối tác; thúc đẩy hoạt động liên kết kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và quốc tế; góp phần nâng cao năng lực quản trị, tài chính, cơng nghệ, nhân sự, mở rộng quy mô, thị phần, cải hiện sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, nhất là đối

<i>với doanh nghiệp và ngân hàng nhỏ Mặt khác, trong nhiều trường hợp, sở hữu chéo gây hệ lụy khôn</i>

lường cả vi mô và vĩ mơ, nhất là khi nó bị lạm dụng để phục vụ lợi ích nhóm hay để che giấu tình trạng ọp ẹp về tài chính của các doanh nghiệp và ngân hàng có liên quan. Sở hữu chéo gây tình trạng mù mờ về sở hữu thực, thực trạng lỗ, lãi và trách nhiệm giải trình, dẫn đến làm giảm hiệu lực và hiệu

<b>quả quản lý đối với doanh nghiệp và ngân hàng. Thực tế, Ngân hàng nhà nước đã tiến hành thanh tra</b>

27 TCTD trong năm 2012, nhiều TCTD bị chi phối bởi một nhóm cổ đơng, thơng qua sự chi phối ở các khoản vay. Ở một số ngân hàng, thậm chí 90% tổng dư nợ thuộc về các khoản vay kiểu này.

Ngoài ra, tại Điều 134 Luật các TCTD 2010 bổ sung quy định về quyền và trách nhiệm của cơng ty kiểm sốt (những công ty mà theo định nghĩa quy định tại Luật các TCTD 2010, nắm giữ, sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp trên 20% vốn điều lệ của một Ngân hàng thương mại) nhằm hạn chế các quan hệ tín dụng, hùn vốn, góp vốn chéo (góp vốn, mua cổ phần lẫn nhau) giữa TCTD với các cơng ty có quan hệ về vốn liếng, tránh rủi ro cho các Ngân hàng thương mại do sự can thiệp quá mức của các cơng ty kiểm sốt. Để đạt được mục đích này, Luật đưa ra các quy định buộc phải minh bạch hố các quan hệ giữa cơng ty kiểm soát với các Ngân hàng thương mại, giữa Ngân hàng thương mại với các cơng ty con của mình; quy định không cho phép Ngân hàng thương mại và các công ty con, liên kết của cùng một công ty kiểm sốt được sở hữu chéo cổ phần; cơng ty con, công ty liên k ết của cùng

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

một TCTD khơng được góp vốn, mua cổ phần của TCTD; TCTD là công ty con, công ty liên kết của cơng ty kiểm sốt khơng được góp vốn, mua cổ phần của cơng ty kiểm sốt. Ngồi ra, Điều 141 cũng có quy định u cầu các cơng ty con, công ty liên kết của TCTD phải gửi báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động của mình cho Ngân hàng nhà nước khi được yêu cầu. Thực tế, việc tìm thơng tin về các TCTD mua cổ phần của các TCTD khác là điều hết sức khó. Rất ít ngân hàng cơng khai tỷ lệ đầu tư vào các tổ chức tín dụng khác. Những trường hợp cơng bố chính thức như Vietcombank, Vietinbank khơng nhiều. Khơng những vậy, những con số cũng có thể chưa phản ánh hết thực tế việc sở hữu giữa các ngân hàng. Thuyết minh báo cáo tài chính của Ngân hàng ACB cho thấy số tiền đầu tư vào TCTD khác của ngân hàng này lên tới 950 tỉ đồng, tuy nhiên không ghi rõ đây là những tổ chức nào.

Như vậy, giữa quy định trong luật và thực tế là một khoảng cách khá xa. Dù có bị giới hạn về tỷ lệ sở hữu thì cá nhân và TCTD vẫn tìm cách tránh. Giữa năm 2010, ước tính số vốn để các ngân hàng tăng vốn điều lệ lên mức tối thiểu 3.000 tỉ đồng theo quy định của pháp luật vào khoảng hơn 30.000 tỉ đồng. Bất chấp sự khó khăn của thị trường tài chính, cuối cùng tất cả các ngân hàng cũng đạt được mục tiêu. Tuy nhiên, số vốn này không thực chất do các ngân hàng sở hữu chéo lẫn nhau hoặc các ông chủ ngân hàng dùng tiền vay để tăng vốn. Hệ quả là vốn điều lệ và vốn chủ sở hữu của toàn hệ thống tăng mạnh nhưng vốn thực góp lại khơng tăng tương ứng. Điều này đồng nghĩa với các hệ số đo lường độ an toàn của các ngân hàng như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR, vốn chủ sở hữu/tổng tài sản không cịn chính xác.

<b>2,3 Tỷ lệ đảm bảo an tồn </b>

Tại Điều 130 Luật các TCTD 2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an tồn mà TCTD phải duy trì, bao gồm: tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% hoặc cao hơn, tỷ lệ tối đa của vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Các tỷ lệ bảo đảm an toàn mới được bổ sung gồm: trạng thái ngoại tệ, vàng tối đa so với vốn tự có; tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi và các tỷ lệ tiền gửi trung, dài hạn so với tổng dư nợ cho vay trung, dài hạn. Ngân hàng nhà nước sẽ quy định cụ thể các tỷ lệ bảo đảm an toàn nói trên đối với từng loại hình TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra, Luật các TCTD 2010 còn bổ sung quy định Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng quốc gia phải nắm giữ số lượng tối thiểu giấy tờ có giá được phép cầm cố tại Ngân hành nhà nước theo quy định của Ngân hành nhà nước trong từng thời kỳ. TCTD phải đảm bảo về khả năng chi trả: khả năng chi trả được xác định bằng tỷ lệ giữa tài sản “Có” có thể thanh tốn ngay so với các loại tài sản “Nợ” phải thanh toán tại một thời điểm của TCTD. Về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn: pháp luật quy định TCTD khơng được sử dụng tồn bộ nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn mà phải duy trì ở một tỷ lệ nhất định. Luật các TCTD 2010 cũng quy định rõ tổng số vốn của một TCTD đầu tư vào TCTD khác, công ty con của TCTD dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần và các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần nhằm nắm quyền kiểm sốt các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khốn phải trừ khỏi vốn tự có khi tính các tỷ lệ an tồn.

Luật các TCTD 2010 còn trao quyền cho Ngân hàng nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết khi các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngồi khơng duy trì được hoặc có khả năng khơng duy trì được tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định, bao gồm cả việc hạn chế phạm vi hoạt động, xử lý tài sản của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm bảo đảm để TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu

<b>2,4 Dự phòng rủi ro</b>

Do q trình hoạt động của các TCTD ln gặp phải những rủi ro cho nên pháp luật quy định các TCTD phải trích lập dự phịng rủi ro tại Điều 131 Luật các TCTD 2010 sửa đổi, bổ sung 2017 để đảm bảo trạng thái ổn định của nguồn vốn tín dụng, khắc phục hậu quả do rủi ro. Dự phịng rủi ro rất quan trọng, nó đóng vai trị lớn trong việc tạo an tồn và ổn định cho TCTD qua việc phục hồi những thiệt hại xảy ra do rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra. Do đó các TCTD cần phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định này để đảm bảo khắc phục những rủi ro phát sinh.

<b>3, Quy định về Các hạn chế để bảo đảm an tồn trong quy chế kiểm sốt đặc biệt</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Kiểm soát đặc biệt là việc một TCTD bị đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng nhà nước do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán hoặc vi phạm nghiêm trọng pháp luật dẫn đến nguy cơ mất an toàn hoạt động. Tùy vào thực trạng tài chính, mức độ rủi ro và vi phạm pháp luật của TCTD, Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định đặt TCTD vào tình trạng kiểm sốt đặc biệt dưới hình thức giám sát đặc biệt (giám sát hoạt động hàng ngày của TCTD) hoặc kiểm sốt tồn diện (kiểm sốt trực tiếp và toàn diện hoạt động hàng ngày).

Trong trường hợp TCTD bị đặt trong diện kiểm soát đặc biệt, Thống đốc Ngân hàng nhà nước có thẩm quyền quyền yêu cầu chủ sở hữu TCTD đó thực hiện tăng vốn điều lệ để đảm bảo giá trị thực của vốn điều lệ không thấp hơn vốn pháp định, đảm bảo các tỷ lệ an toàn hoạt động trong một thời hạn được xác định cụ thể; hoặc yêu cầu chủ sở hữu TCTD bị kiểm soát đặc biệt xây dựng, trình Ngân hàng nhà nước kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại với các TCTD khác trong trường hợp TCTD đó khơng có khả năng hoặc không thể tăng được vốn điều lệ theo yêu cầu của Ngân hàng nhà nước.

Ngân hàng nhà nước có quyền trực tiếp thực hiện hoặc chỉ định TCTD khác thực hiện việc tham gia góp vốn, mua cổ phần của TCTD được kiểm soát đặc biệt trong trường hợp TCTD không thể thực hiện được yêu cầu tăng vốn điều lệ và không bảo đảm các tỷ lệ an toàn hoạt động hoặc khi Ngân hàng nhà nước xác định số lỗ lũy kế của TCTD đã vượt quá giá trị thực của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ của TCTD được kiểm soát đặc biệt ghi trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán gần nhất và việc chấm dứt hoạt động của TCTD được kiểm sốt đặc biệt có thể gây mất an tồn hệ thống TCTD.

Quyết định kiểm sốt đặc biệt sẽ được thông báo tới Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên của TCTD được kiểm sốt đặc biệt. Thơng tin về việc kiểm sốt đặc biệt được Thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định cơng bố thơng qua một hoặc một số hình thức: Đăng tải trên báo, qua họp báo; qua website của TCTD hoặc Trang tin điện tử của Ngân hàng nhà nước, công bố tại Đại hội đồng cổ đông của TCTD đó; trường hợp Quỹ tín dụng nhân dân được kiểm soát đặc biệt do Giám đốc Ngân hàng nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố quyết định công bố thơng tin.Việc cơng bố thơng tin về việc kiểm sốt đặc biệt với TCTD là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai xử lý các yếu kém của TCTD đó.

Thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định thành phần, số lượng và cơ cấu Ban kiểm sốt đặc biệt phù hợp với hình thức kiểm sốt đặc biệt. Trong đó, thành viên của Ban kiểm sốt đặc biệt là cán bộ của Ngân hàng nhà nước, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, các chuyên gia ngân hàng, cán bộ của TCTD do Ngân hàng nhà nước trưng tập. Trưởng Ban kiểm soát là cán bộ lãnh đạo cấp Vụ hoặc các chức danh tương đương của Ngân hàng nhà nước, thành viên Ban kiểm soát đặc biệt khơng được là người có liên quan với thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và cổ đơng lớn của TCTD bị kiểm sốt đặc biệt.

Ban kiểm sốt đặc biệt có nhiệm vụ chỉ đạo TCTD được kiểm soát đặc biệt xây dựng phương án củng cố tổ chức và hoạt động; chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc triển khai các nội dung giám sát đặc biệt, nội dung kiểm sốt tồn diện và các giải pháp được nêu trong phương án đã được duyệt. Ban kiểm sốt đặc biệt có quyền u cầu TCTD kiểm kê tồn bộ tài sản hiện có hoặc thuê tổ chức kiểm toán độc lập, cơ quan chuyên mơn đánh giá thực trạng tài chính, định giá tài sản và xác định giá trị doanh nghiệp của TCTD được kiểm soát đặc biệt. Thời hạn kiểm soát đặc biệt sẽ do Thống đốc quy định trong Quyết định kiểm soát đặc biệt. Quyết định gia hạn hay chấm dứt kiểm sốt đặc biệt sẽ được thơng báo tới các cơ quan và tổ chức như khi công bố quyết định kiểm soát đặc biệt.

TCTD được chấm dứt kiểm soát đặc biệt trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 152 của Luật các TCTD 2010. Khi TCTD được Ngân hàng nhà nước chấm dứt kiểm sốt đặc biệt do khơng khơi phục được khả năng thanh toán, Ngân hàng nhà nước sẽ gửi văn bản tới Tòa án về việc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi thanh toán và yêu cầu TCTD đó làm đơn u cầu Tịa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Khi có nguy cơ hoặc đã lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, Hội đồng quản trị (Hội đồng thành viên), hoặc Tổng giám đốc của TCTD có trách nhiệm phải báo cáo ngay Thống đốc Ngân hàng nhà nước (qua Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng) và Giám đốc Ngân hàng nhà nước chi nhánh nơi đặt trụ sở chính.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Những quy định về đảm bảo an toàn trong quy chế kiểm soát đặc biệt đã ngày càng được hoàn thiện là một điểm tiến bộ của các nhà làm luật khi đưa ra các quy định hợp lý phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện tại góp phần đáp ứng mục tiêu tái cấu trúc những TCTD yếu kém.

<b>CHƯƠNG IV, HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC HẠN CHẾ NHẰM ĐẢM BẢO ANTOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TCTD</b>

Xuất phát từ mục tiêu bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và an toàn cho cả hệ thống tín dụng. Xuất phát từ những bất cập trong các quy định của pháp luật về các hạn chế nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Xuất phát từ rủi ro thực tế trong hoạt động của TCTD, em xin đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật như sau:

<b>1, Các kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạtđộng của TCTD</b>

Luật các TCTD 2010 sửa đổi, bổ sung 2017 mặc dù đã khắc phục được những hạn chế, bất cập so với những văn bản luật trước đây song vẫncòn một số điểm chưa phù hợp cần phải được hoàn thiện:

<i><b>Thứ nhất, phạm vi của các hạn chế để bảo đảm an toàn chưa bao quát hết các chủ thể chịu sự hạn</b></i>

chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD, chưa quy định đối với Ngân hàng phát triển. Ngân hàng Phát triển Việt Nam VDB thuộc sở hữu Nhà nước; có vốn điều lệ 10.000 tỷ đồng; là ngân hàng được Chính phủ bảo đảm khả năng thanh toán và được miễn nộp thuế cùng các khoản nộp ngân sách Nhà nước đối với hoạt động tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. Theo kết quả phân loại nợ của Ngân hàng phát triển tại thời điểm 31/12/2010, tổng dư nợ là 180.301 tỉ đồng, trong đó nhóm nợ xấu (từ nhóm 3 - 5) là 22.664 tỉ đồng, chiếm 12,57% tổng dư nợ. Thanh tra kết luận số nợ xấu này là 38.106 tỉ đồng (tăng hơn so với tự phân loại nợ xấu của ngân hàng phát triển là 15.442 tỉ đồng). Sau khi trừ các khoản nợ xấu do lý do khách quan (Chính Phủ chỉ định vay, chương trình cho Cuba vay, chương trình cho vay tàu biển...) thì số nợ xấu vẫn còn tới 20.663 tỉ đồng, chiếm 11,46% trên tổng dư nợ. Trên thực tế Ngân hàng Phát triển Việt Nam VDB là một TCTD nhưng lại không chịu sự quản lý đầy đủ của Ngân hàng nhà nước đã góp phần gây ra tỷ lệ nợ xấu 12,6%. Bộ Tài chính cũng thừa nhận rằng VDB huy động vốn thơng qua phát hành trái phiếu có kỳ hạn thường chỉ 2-5 năm, nhưng lại cho vay kỳ hạn dài, thơng thường là 12 năm, có những trường hợp lên tới 15 năm, nên việc đảm bảo cân đối dòng tiền với Ngân hàng Phát triển Việt Nam VDB là rất khó, mà nhiều khoản cho vay có độ rủi ro rất lớn. Mặt khác với những quy định hiện hành, rất khó buộc được cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của lãnh đạo VDB vì Bộ Tài chính khơng thể giám sát hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam VDB tốt hơn Ngân hàng nhà nước. Cịn Ngân hàng nhà nước lại khơng được thực hiện đầy đủ quyền này. Vì thế cần thay đổi hệ thống quy định điều chỉnh hoạt động của ngân hàng này, buộc nó phải tuân thủ theo đúng các quy định về quản lý ngân hàng, bóc tách riêng các quy định về việc thực hiện chính sách theo chỉ định của Chính phủ.

<i><b>Thứ hai, một số quy định cịn chung chung chưa cụ thể gây ra khó khăn trong quá trình thực hiện</b></i>

<i>như tại Điều 126 Luật các TCTD có quy định “các chức danh tương đương; cha, mẹ, vợ, chồng, concủa thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm sốt, Tổnggiám đốc, Phó tổng giám đốc và các chức danh tương đương”. Có quan điểm cho rằng, đối với việc</i>

xác định các chức danh tương đương, Ngân hàng nhà nước cần có cách xác định cụ thể để các TCTD thống nhất áp dụng như về trách nhiệm tương đương, hệ số quản lý, chức vụ, khả năng gây ảnh hưởng đến TCTD. Quan điểm này hoàn toàn hợp lý, vì việc pháp luật quy định các chức danh tươ ng đương một cách chung chung sẽ dẫn đến các cách hiểu khác nhau và cách áp dụng khác nhau ở các TCTD.

Do vậy, để thống nhất được vấn đề này Ngân hàng nhà nước cần có văn bản hướng dẫn cụ thể thế nào là chức danh tương đương dựa vào vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các chức danh trong hoạt động ngân hàng để đưa ra các mức áp dụng tương ứng đối với từng chức danh bất kể ở TCTD nào. Đối với việc xác định cha, mẹ, vợ, chồng, con, có quan điểm cho rằng cần xác định mức độ ảnh hưởng của các đối tượng này đối với hoạt động của TCTD và phù hợp với các quy định của pháp luật hơn nhân gia đình. Quan điểm này có điểm hợp lý bởi để xác định được việc không cấp tín dụng hoặc hạn chế tín dụng cho các đối tượng như thế nào là cha, mẹ, vợ, chồng, con thì cần nghiên cứu, tổng kết

</div>

×