Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 18 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<i><b>QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT NÀYTRONG ĐIỀU TIẾT LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM</b></i>
<small>HỌ VÀ TÊN: LÊ XUAN TOÀNMSSV: 2210900069 LỚP: CNTT2</small>
<small>GI NG VIÊN: TS PH M TH THÙYẢẠỊ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>A. M ĐẦẦUỞ</b>
Tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Theo Mac, tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Lưu thơng bằng tiền mặt là cách thức lưu thông vật lý với các nhu cầu trong lưu thông. Khi sự vận động của tiền mặt bao gồm giấy bạc ngân hàng, tiền đúc bằng kim loại được phát hành và lưu thông. Ở nhiều quốc gia, hình thức tiền đúc vẫn được tham gia trong giao dịch. Với các sự vận động này nhằm thực hiện việc mua bán hàng hóa, dịch vụ, thanh toán nợ. Đảm bảo cho các nhu cầu trong trao đổi đa dạng hàng hóa. Cũng như thực hiện các quy đổi không ngang bằng. Các giá trị có thể được phản ánh thơng qua các giao dịch trên thị trường.
Với ý nghĩa ngày càng được thể hiện từ tiền tệ, nhiều người có xu hướng tìm kiếm nhiều hơn tiền tệ thơng qua tìm kiếm lợi nhuận hay lao động. Nói cách khác, lưu thơng bằng tiền mặt khi hàng hóa dịch vụ và tiền tệ xuất hiện đồng thời trong lưu thông trên thị trường trao đổi. Tính chất của giao dịch phản ánh nhu cầu đồng thời của bên mua, bên bán hay các quan hệ tương tự khác. Đảm bảo cho tính chất giữa cán cân cung cầu trên thị trường.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Với tiền mặt phản ánh nhu cầu được thực hiện dễ dàng. Khi các nhu cầu có thể được thực hiện hầu hết có thể lựa chọn thanh toán tiền mặt. Cá đảm bảo trong quản lý, điều phối hay quy định nghiêm ngặt khác của Chính phủ. Từ đó mà các giá trị của tiền tệ có thể được đảm bảo ổn định. Đáp ứng tốt các nhu cầu thường xuyên của con người mà không tạo ra nhiều biến động.
Hiện nay “TIỀN” đã trở thành vật không thể thiếu của con người. Được coi là vật ngang giá chung, có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, cũng như trên phạm vi quốc tế. Lịch sử đã cho thấy quá trình trao đổi hàng hóa khơng thể tách rời nhau, nó tồn tại và biến động theo một quy luật khách quan của tình hình giá cả của đất nước hay giá cả của kinh tế thế giới.
Đặc biệt với Việt Nam từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, có sự quảm lý của Nhà nước. Để tăng trưởng kinh tế nhanh và giảm nghèo bền vững, hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, giảm lạm phát thì việc tận dụng các lí luận về tiền tệ vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được quan tâm. Vì vậy, việc nghiên cứu và hiểu rõ những lí luận tiền tệ là một điều hết sức cần thiết để áp dụng vào việc ổn định nền kinh tế vĩ mô và phát triển giảm lạm phát đến mức thấp nhất.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>B. N I DUNGỘ</b>
<b>I. C S LÍ LU N C A QUY LU T L U THÔNG TIỄẦN T VÀ L M PHÁTƠ ỞẬỦẬƯỆẠ</b>
<i><b>1. Tiền tệ:</b></i>
<i>a. Nguồn gốc của tiền tệ:</i>
Quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã dẫn đến sự xuất hiện những vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung là những hàng hóa có thể trao đổi trực tiếp được với nhiều hàng hóa thơng thường khác. Đặc điểm của chúng là có giá trị sự dụng thiết thực, quý hiếm dễ bảo quản vận chuyển và mang tính đặc thù địa phương.
Thời gian đầu, vật ngang giá chung thường là những hàng hóa có giá trị sử dụng thiết thực cho từng khu vực hoặc nhiều vùng có điều kiện tự nhiên và phong tục xã hội tương tự nhau. Sau đó vật ngang giá chung được chọn là những hàng hóa có ý nghĩa tượng chưng như: vỏ sị, da thú, vịng đá...khi trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu cầu thường xuyên của các bộ lạc và dân tộc, thì vật ngang giá chung được gắn vào kim loại. Kim loại được sử dụng làm vật ngang giá chung đầu tiên là sắt và kẽm. Sau đó là đồng rồi đến bạc. Đầu thế kỉ XIX, vàng bắt đầu đóng vai trị vật ngang giá chung và kim loại này được gọi là “lim loại tiền tệ”. Khi một khối lượng vàng với một trọng lượng và chất lượng (thành sắc) nhất định được chế tác theo một hình dang nào đó được gọi là tiền tệ.
Như vậy khi vàng độc chiếm vị trí vật ngang giá chung thì cái tên “vật ngang giá chung” được thay thế bằng “tiền tệ”. Nói cách khác, đây chính là hình thái tiền của giá trị hàng hóa. Từ những vật ngang giá chung là những hàng háo thông thường đến tiền tệ, sản xuất và trao đổi hàng hóa đã trải qua một thời kì lịch sử lâu dài. Trong quá trình này vật ngang giá chung đã tự gạt bỏ lẫn nhau: những hàng hóa – vật ngang giá chung có giá trị thấp và mang sắc thái sử dụng được thay thế bằng những vật ngang giá chung có giá trị cao hơn và mang ý nghĩa tượng
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">chưng. Sự hoàn thiện từng bước của vật ngang giá chung đánh dấu bằng sự xuất hiện mà tiền tệ ở đầu thế kỉ XIX, không những phản ánh số lượng và chủng loại hàng hóa đưa ra thị trường ngày càng phong phú mà cịn phản ánh trình độ sản xuất hàng hóa đã tiến bộ vượt bậc so với thời gian trước đây.
Vàng độc chiếm vai trò vật ngang giá chung, nhìn bên ngồi như một q trình hồn tồn mang tính ngẫu nhiên. Nhưng trái lại, tiền tệ là sản phảm và đánh giá cơng bằng về mặt khoa học thì tiền tệ là một trong ba phát minh quan trọng nhất của xã hội loài người từ lịch sử cổ đạ cho đến ngày nay.
Khi vàng đóng vai trị vật nagng giá chung thế giới hàng hóa được chia thành hai cực rõ rệt: một phía là những hàng hóa thơng thường, trực tiếp biểu hiện giá trị sử dụng và mỗi hàng hóa chỉ có thể thỏa mãn được một và một vài nhu cầu nào đó của con người. Còn phái bên kia, cực đối lập vàng là tiền tệ, trực tiếp biểu hiện giá trị của mọi hàng hóa khác. Vì tiền có thể trao đổi trực tiếp được mọi hàng hóa trong bất kì điều kiện nào, cho nên tiền có thể thỏa mãn được nhiều nhu cầu của người sử hữu nó. Chính vì thế, tiền tệ được coi là một loại hành hóa đặc biệt.
<i>b. Bản chất của tiền tệ:</i>
Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trị vật ngang giá chung để đó giá trị của tất cả các hàng hóa khác. Tiền có thể thỏa mãn được một số nhu cầu của người sở hữu nó, tương ứng với một số lượng giá trị mà người đó tích lũy được.
Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền tệ là một phạm trù kinh tế - lịch sử, là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tiền tệ ra đời, phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh, phát triển và tồn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Điều đó có nghĩa là ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì chắc chắn ở đó có tiền tệ. Q trình này đã chứng minh rằng: “...cùng
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">với sự chuyển hóa chung của sản phẩm lao động và hàng hóa, thì hàng hóa cũng chuyển thành tiền tệ”.
Trước khi vàng trở thành tiền tệ kim loại này vốn đã là hàng hóa. Do đó, cũng như các hàng hóa khác, tiền tệ có hai loại thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng là hàng hóa đặc biệt tiền tệ có giá trị sự dụng đặc biệt. Đó là giá trị sử dụng xã hội. Về vấn đề này, Karl Marx đã viết “giá trị sự dụng của hàng hóa bắt đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thơng, cịn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách là lưu thơng lại chính là sự lưu thơng của nó”. Lịch sử của sản xuất và trao đổi hàng hóa đã chứng minh rằng nền kinh tế hàng hóa là một thực thể đầy biến động. Nó tồn tại và phát triển theo những quy luật khách quan khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến giai đoạn cao, nền kinh tế thị trường được hình thành theo đúng nghĩa của nó, thì q trình “phi vật chất” của tiền tệ cũng đồng thời diễn ra một cách tương ứng. Nghĩa là vai trò tiền tệ của vàng ngày càng giảm, đồng thời vị trí kim loại quý của vàng ngày càng được xác lập và tăng lên. Sự phát triển theo hai cực như trên đối với vàng cũng tương tự như vật ngang giá chung trước nọ nó là một quy luật. Ngày nay ở nhiều quốc gia, đặc biệt là những quốc gia có nên kinh tế thị trường phát triển, quan niệm về tiền tệ đã có những thay đổi cơ bản. Thực tiễn đã cho thấy tiền không phải chỉ là vàng, mà là những phương tiện có thể trao đổi được với hàng hóa- dịch vụ đều được coi là tiền. Vì vậy tiền được hiểu theo định nghĩa mới như sau: tất cả những phương tiện có thể đóng vai trị chung gian trao đổi, được nhiều người thừa nhận thì được gọi là tiền.
Định nghĩa mới về tiền làm phong phú bản chất của nó, đồng thời mở ra hướng phát triển trong tương lai của các phương tiện trao đổi trong nên kinh tế thị trường.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><i>c. Chức năng của tiền tệ:</i>
Thước đo giá trị:
Giá trị của tiền tệ được sử dụng làm phương tiện để so sánh với giá trị của hàng hóa hay dịch vụ, thơng qua quan hệ này, tiền đã thực hiện chức năng thước đo giá trị.
Phương tiện lưu thông:
Thực hiện chức năng phương tiện lưu thông, tiền được sử dụng làm môi giới trung gian trong trao đổi hàng hóa, nó vận động đồng thời và ngược chiều với sự vận động của hàng hóa. Quá trình thực hiện chức năng này có thể được diễn đạt bằng cơng thức sau: “H-T-H”
Thứ nhất, q trình trao đổi hàng hóa được tách thành hai giai đoạn riêng biệt là bán và mua. Giai đoạn “H-T” là giai đoạn bán hàng, đây là thời kì chuyển hóa giá trị của hàng hóa thành tiền. Đây là cơng việc khó khăn nhất của những người sản xuất hàng hóa trong điều kiện kinh tế thị trường. Giai đoạn “T-H” là giai đoạn mua hàng, những người sở hữu tiền có thể thực hiện giai đoạn này một cách dễ dàng. Hai giai đoạn mua, bán hàng hóa được thực hiện hồn tồn độc lập nhau: kết thúc giai đoạn bán , mới thực hiện mua.
Thứ hai, lưu thơng hàng hóa tách rời hành vi mua và bán cả về không gian và thời gian. Người sản xuất hàng hóa có thể bán ở chỗ này và mua ở chỗ khác, bán lúc này và mua lúc khác. Tình trạng này có thể dẫn đến hiện tượng mất cân đối giữa cung và cầu về một số loại hàng háo nào đó theo không gian và thời gian.
Khi thực hiện phương tiện lưu thơng, tiền tệ phải có đầy đủ điều kiện sau đây:
Phải sử dụng tiền mặt. Có thể sử dụng tiền dấu hiệu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Lưu thông chỉ chấp nhận một số lượng tiền nhất định.
<i><b>2. Quy luật lưu thông tiền tệ:</b></i>
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật quy định số lượng tiền cần thiết cho lưu thơng hàng hóa ở mỗi thời kì nhất định.
Theo yêu cầu của quy luật, việc đưa số tiền cần thiết cho lưu thơng trong mỗi thời kì nhất định phải thống nhất với lưu thơng hàng hóa. Việc không ăn khớp giữa lưu thông tiền tệ với lưu thơng hàng hóa có thể dẫn đến trì trệ hoặc lạm phát.
Khi tiền thực hiện chức năng phương tiện lưu thơng, thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thơng được tính theo cơng thức:
M = (P*Q) / V Trong đó:
M : là lượng tiền cần thiết cho lưu thơng trong một thời kì nhất định P : là mức giá cả
Q : là khối lượng hàng hóa dịch vụ đem ra lưu thông V : là số vịng lưu thơng của đồng tiền
Như vậy, khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông tỉ lệ thuận với tổng số giá cả hàng hóa được đưa ra thị trường và tỉ lệ nghịch với tốc độ lưu thơng của tiền tệ. Quy luật này có ý nghĩa chung cho các nền sản xuất hàng hóa.
Khi tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh tốn thì số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được xác định như sau:
M =[A - (B+C) + D] / V
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Trong đó:
M : lượng tiền cần thiết cho lưu thông A : tổng giá cả hàng hóa
B : tổng giá cả hàng hóa bán chịu C : tổng giá cả hàng hóa khấu trừ nhau
D : tổng giá cả hàng hóa bán chịu đến kỳ thanh tốn V : số vịng ln chuyển trung bình của một đơn vị tiền tệ
Khi tiền giấy ra đời, nếu được phát hành quá nhiều sẽ làm cho đồng tiền bị mất giá trị, giá cả hàng hóa tăng lên dẫn đến lạm phát. Bởi vậy nhà nước không thể un và phát hành tiền giấy một cách tùy tiện mà phải tuân theo nguyên lí của quy luật lưu thông tiền tệ.
Ý nghĩa nguyên cứu quy luật lưu thơng tiền tệ:
+ Giúp cho chính phủ có căn cứ để in tiền cần thiết cho lưu thông. + Giúp cho hệ thống ngân hàng nhà nước và kinh doanh điều hịa lưu thơng tiền tệ, khống chế lạm phát củng cố sức mua để đồng tiền chuyển đổi. + Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng ngày một bền vững, thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện về cơ sở - vật chất.
<i><b>3. Lạm phát:</b></i>
<i>a. Khái niệm:</i>
Là hiện tượng kinh tế xuất hiện khi lượng tiền phát hành vượt quá nhu cầu lưu thông mà nhà nước không điều chỉnh để kéo dài dẫn đến giá cả tăng đột biến.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><i>b. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát:</i>
- Tốc độ gia tăng sản xuất chậm hơn tốc độ gia tăng tiền.
- Do chiến tranh thiên tai đột biến ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơ sở hạ tầng.
- Do khủng hoảng hệ thống chính trị làm cho việc điều hành sản xuất không được quan tâm. Nhưng quan trọng hơn là đồng tiền khơng được tín nhiệm.
<i>c. Hậu quả:</i>
Lạm phát để lại hậu quả tuỳ thuộc vào mức độ, tuy nhiên nhìn chung thì:
- Làm mất đi sự ổn định của thước đo giá trị tiền tệ.
- Khiến cho tiền tệ và thuế bị vô hiệu hóa. Đồng tiền mất giá, các biểu thuế không thể điều chỉnh kịp thời nên bị hạn chế.
- Làm phân phối lại thu nhập. Người nắm giữ hàng hóa có giá trị tăng lên đột biến sẽ nhanh giàu và ngược lại, người nắm giữ hàng hóa khơng tăng giá trị hoặc tăng chậm sẽ giảm thu nhập.
- Khiến cho nhiều người có tâm lý đầu cơ tích trữ dẫn đến lãng phí và khan hiếm hàng hóa.
- Xuyên tạc các yếu tố của thị trường khiến điều kiện thị trường dễ bị biến dạng.
- Giảm sức mua của người tiêu dùng.
<b>II. TH C TR NG L M PHÁT VI T NAMỰẠẠỞỆ</b>
1. Tình hình l m phát Vi t Nam qua các năm ạ ở ệ
Theo thống kê, tỷ lệ lạm phát Việt Nam trong giai đoạn 2010 đến 2020, tỷ lệ lạm phát cao nhất chiếm 18.58% vào năm 2011.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Trong giai đoạn từ 2011 đến 2015, Nhà nước đã áp dụng chặt chẽ và đồng bộ chính sách tiền tệ và tài khóa. Bên cạnh đó thúc đẩy q trình sản xuất, tăng số lượng hàng xuất khẩu và kiểm soát nhập siêu,… Từ đó, tình hình lạm phát ở Việt Nam chuyển biến tích cực hơn, tình trạng lạm phát có xu hướng giảm và đạt mức thấp nhất vào 2015 là 0.63%.
Trong giai đoạn 2016 đến 2020, tình trạng kinh tế dần ổn định nên tỷ lệ lạm phát của Việt Nam luôn ở mức 4%.
Giai đoạn 2011 đến 2015, thời kỳ nước ta có tỷ lệ lạm phát được giữ ở mức thấp nhất một cách ổn định. Từ đó dẫn đến sự cải thiện nền kinh tế rất lớn, tiêu biểu như:
Nền kinh tế vĩ mô hoạt động một cách ổn định. Thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định. Dự trữ ngoại hối tăng lên đạt mức kỷ lục.
Tính thanh khoản của các hệ thống ngân hàng được cải thiện rõ rệt. Nhờ vào những tín hiệu rất tích cực này mà các Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Quốc tế đã căn cứ và thực hiện việc nâng hệ số tín nhiệm của Việt Nam.
Cũng chính trong giai đoạn 2011 đến năm 2015, các cơng cụ chính sách tiền tệ được điều hành chủ động, linh hoạt hơn bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngồi ra, cịn kết hợp chặt chẽ với các chính sách tiền tệ và tài khóa phù hợp để kiểm soát và đưa tỷ lệ lạm phát từ mức cao xuống mức thấp nhất. Đây là một sự sụt giảm đáng mong đợi của nền kinh tế nước nhà.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Năm 2020 là năm đại dịch Covid – 19 có những chuyển biến phức tạp, vì thế ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tăng trưởng của các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh khác nhau.
Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam năm 2020 có tăng nhẹ 2.31% so với bình quân năm 2019. Điều này đã đạt được mục tiêu Quốc hội đề ra là dưới 4%. Đối với nền kinh tế vĩ mơ, Chính phủ đã điều hành và chỉ đạo đúng đắn để Việt Nam tăng trưởng tích cực hơn với những chỉ số vĩ mơ được đảm bảo.
Căn cứ dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), lạm phát ở Việt Nam năm 2022 tăng 3,9%, sát ngưỡng mục tiêu kiểm soát Nhà nước đã được đặt ra trước đó là 4%.
Nhìn chung, tỷ lệ lạm phát Việt Nam qua các năm có sự thay đổi mạnh mẽ. Nhờ vào việc Chính phủ ln theo dõi và thống kê tỷ lệ sát sao mà có thể kịp thời thực hiện chính sách phù hợp đảm bảo nền kinh tế vĩ mô ổn định.
2. V n d ng quy lu t l u thông tềền t trong điềều tềết l m phát Vi t ậ ụ ậ ư ệ ạ ở ệ Nam hi n nayệ
Chính sách tiền tệ (CSTT) đã được điều hành chủ động, linh hoạt, thận trọng; phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách kinh tế vĩ mơ khác.
Điều hành chính sách tiền tệ là chính sách vĩ mơ, trong đó, Ngân hàng Trung ương (NHTW) thơng qua các cơng cụ của mình thực hiện kiểm sốt và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt được các mục tiêu: Kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả, ổn định sức mua của nội tệ; Ổn định sức mua đối
</div>