Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.97 KB, 12 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒNKHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ</b>
<b>A. PHỤ LỤC</b>
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ VĂN HÓA XÃ HỘI 1. Đặc điểm tự nhiên
2. Đặc điểm văn hóa – xã hội
II. ĐẶC TRƯNG ẨM THỰC VIỆT BẮC 1. Đặc trưng ẩm thực Việt Bắc
2. Tầm ảnh hưởng của ẩm thực Việt Bắc 3. Ẩm thực Việt Bắc trong hội nhập và du lịch
Việt Bắc là một vùng phía Bắc Hà Nội gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên hay còn được gọi tắt là Cao -Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái. Tuy nhiên, Việt -Bắc còn bao gồm phần đồi núi các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Giang và Quảng Ninh
Chủ yếu là núi trung bình và núi cao, cao nguyên. Nổi bật với các khối núi và dãy núi cao biên giới phía bắc và thấp dần về phía nam phù hợp với sơng ngịi.
Các cánh cung tụ lại ở Tam Đảo: Sông Gâm, Ngân Sơn, Bắc sơn, Đông Triều.
Các cao nguyên đá vôi ở cực bắc bao gồm các dãy núi đá vôi Quảng Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc là các cao nguyên với địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn, thiếu nước
Thủy văn:
<b>- Với một đặc điểm tự nhiên đồi núi phong phú, đa dạng, nên mạng lưới</b>
sông, suối, hồ tự nhiên khá nhiều, song phân bố khơng đều.
<b>- Sơng ngịi có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất và đời sống của nhân</b>
dân địa phương.
<b>- Các sông lớn: S.Lô, S.Thao, S.Cầu, S.Thương, S.Lục Nam với đặt trưng</b>
là độ dốc lớn và mùa lũ chảy mạnh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>- Ngồi ra cịn có các hồ như Ba Bể, hồ Thang Hen…</b>
Khí hậu:
<b>- Nằm trong khu vực khí hậu cận nhiệt ẩm</b>
<b>- Vùng núi Việt Bắc là vùng có khí hậu khắc nghiệt, lạnh buốt về mùa</b>
đơng có khả năng băng giá và sương muối, còn về mùa hè lại oi bức.
<b>- Nét đặc sắc của khí hậu khu VB là ấm hơn và ẩm hơn nhiều so với khu</b>
ĐBắc, vì vai trị chắn gió mùa đơng bắc của cánh cung Ngân Sơn; mặt khác các dãy núi cao phía bắc tạo nên địa hình chắn thuận lợi, nhất là gió mùa mùa hạ thổi qua vịnh BB vào MB nớc ta có hướng đông và đông nam.
<b>- Lượng mưa khá cao và đồng đều tạo nên độ ẩm lớn.</b>
Thổ dưỡng – sinh vật
<b>- Do có những thuận lợi về khí hậu, địa hình nên khu VB có lớp phủ thổ</b>
nhưỡng-sv rất phong phú. Số lượng đai và á đai nhiều hơn so với khu núi thấp ĐBắc. TV phục hồi tương đối nhanh.
<b>- Có vườn quốc gia nơi tập trung sinh sống của các loại thực vật và động</b>
vật quý hiếm. 2. Văn hóa – xã hội
Lịch sử
Nói đến VB, ta sẽ liên tưởng đến vùng trung du, núi non trùng điệp trong những bài thơ vào những năm tháng kháng chiến chống Pháp, với những trận đánh đi vào lịch sử trong chiến dịch biên giới. Nhưng VB cũng là địa danh cùng con người tạo ra một bề dày lịch sử đáng kể.
Việt Bắc từ thời tiền sử (bao gồm Quảng Tây, Vân Nam, Quảng Đông -TQ)
Đến ngày nay qua sự liên hệ mật thiết với lịch sử văn hoá Việt Nam đây từng là nơi cư ngụ của người dân Bách Việt, các dân tộc lâu đời như tộc người Tày-Nùng
Hay từ thời Hùng vương Cư dân nơi đây đóng vai trị chủ yếu trong lịch sử hình thành địa hình biên giới hai nước Việt-Trung.
Từ thời tự chủ, cư dân Việt Bắc đã tham gia chống quân Tống, quân Mông -nguyên, tạo ra những chiến cơng vang dội, đóng góp cơng sức, của cải vào cơng cuộc giữ nước.
Khơng những vậy thời kì chống thực dân, VB trở thành căn cứ địa quan trọng của cả nước
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Qua đó ta có thể thấy, nơi đây có bề dày lịch sử hàng nghìn năm, với nhiều đồng bào dân tộc, tộc người đã và đang sinh sống thì song song là sự đa dạng, đặc sắc trong văn hóa con người, ẩm thực.
Hiện nay chủ yếu là các dân tộc Tày-Nùng, thuộc dịng ngơn ngữ Thái, xen kẽ các dân tộc Kinh, Mơng, Dao, và các nhóm thiểu số khác đang sinh sống. Người Tày và người Nùng, cùng tiếng nói và văn hóa, chỉ khác là người Tày gần với văn hóa người Việt hơn trong khi người Nùng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc. họ sống chủ yếu ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, sống các tuyến đường, ven sơng và suối hoặc thung lũng. vì sống tập trung nhiều ở các khu vực này thì dần dần các bản làng được hình thành
Bản là đơn vị cơ sở nhỏ nhất. Các gia đình trong bản và các thành viên hợp lại thành một cộng đồng dân cư và có tổ chức.
Cũng giống như người Kinh, đơn vị xã hội nhỏ nhất của người Tày - Nùng nơi đây là gia đình, gia đình phụ hệ, chủ gia đình vẫn thường là người cha hay người chồng, làm chủ toàn bộ tài sản và quyết định mọi cơng việc trong nhà, ngồi làng. vì theo chế độ phụ hệ thì nơi đây vẫn cịn tình trạng trọng nam khinh nữ
Văn hóa vật chất - tinh thần Về văn hoá vật chất:
Điều đặc biệt nơi đây là những ngơi nhà của Người Tày - Nùng có hai loại chính : nhà sàn và nhà đất. Nhà sàn là dạng nhà phổ biến, có hai loại nhà sàn, sàn hai mái và sàn bốn mái. Nhà đất hiện nay xuất hiện ngày vàng nhiều, nó là sự thay đổi so với nhà sàn về quy mô, kết cấu, bố cục bên trong.
Trang phục của người Tày - Nùng có tính thống nhất, được phân biệt theo giới tính, địa vị, lứa tuổi, theo nhóm địa phương. Trang phục nam giới đồng bào nơi đây gồm áo cánh, áo dài, khăn đội đầu và giày vải, là các trang phục cơ bản chỉ khác nhau đôi chút về kích thước và chất liệu. Trong khi đó, trang phục của nữ giới lại đa dạng hơn với nhiều trang sức như vòng, kiềng, khuyên tai, khăn,...
Về đời sống văn hóa tinh thần :
Cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản giống với các khu vực khác. Về tín ngưỡng tôn giáo dân gian của cư dân Tày - Nùng hướng niềm tin của con người đến trời - đất, tổ tiên hay chúng ta gọi là đạo ông bà á. Các thần linh của họ rất đa dạng, và nhiều thần như thần núi, thần sông, thần đất. Các bản, dù mới lập hay có từ lâu đều có miếu thờ thổ cơng, mà nhiều nơi gọi là thổ địa . Ngồi ra, trong nhà họ cịn thờ vua bếp giống người kinh miền xuôi thờ ông Táo. Các tôn giáo như Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo cũng đều có ảnh hưởng ít nhiều đến đời sống tâm linh của người dân ở Việt Bắc
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Lễ hội Lồng Tồng (Xuống đồng) là lễ hội truyền thống đặc trưng của cộng đồng người Tày, được tổ chức thường niên vào tháng Giêng, tháng Hai âm lịch theo từng địa phương. Lễ hội là dịp để bà con khắp nơi cầu phúc lộc, mùa màng bội thu, cuộc sống bình yên, no ấm hạnh phúc. Tất nhiên có nhiều món ăn đa dạng trong mâm cúng mang đậm văn hóa tinh thần của người dân nơi đây như bánh chưng, bánh pỏng, bánh khảo, xôi đỏ, xơi vàng.
Ở đây cịn có nét văn hóa chợ độc đáo cũng được nhiều người biết đến. ở vùng cao nên các bản làng sống cách xa nhau nên khi nào có phiên chợ, họp chợ thì đây khơng chỉ là nơi mng bn bán mà cịn là nơi nam nữ trao nữ gặp gỡ trao duyên với nhau
Các phong tục tập quán đa dạng như tập quán làm nhà, tập quán về ăn mặc, tập quán về sinh đẻ, tục mừng nhà mới, tục đặt tên làng bản, lễ cưới,.. cũng làm nên nét đặc sắc cho vùng cao Việt Bắc.
Như đã nói ở trên, đây vẫn cịn trọng nam khinh nữ nhưng trong ăn uống họ khá là thoải mái, cả gia đình sẽ ngồi ăn cùng mâm cơm. Con người nơi đây rất hiếu khách, cho nên khi tới đây sẽ được gia chủ tiếp đãi các món ăn đặc biệt nhất vùng này và thưởng thức chung bữa ăn với gđ họ
Công việc chủ yếu của các đồng bào nơi đây là làm ruộng, rẫy ở sườn núi, nghề thủ cơng hay chăn ni vì ở đây họ sống phụ thuộc vào thiên nhiên Với điều kiện tự nhiên xã hội, nơi đây có tiềm năng về du lịch rất lớn, đây còn sở hữu vô số địa điểm du lịch nổi tiếng Cao nguyên Đá Đồng Văn (Hà Giang), các hang động thác hồ ở Bắc Cạn, Khu di tích Quốc gia đặc biệt Pắc Pó (Cao Bằng)
Khơng những vậy, điều kiện về nhân sinh, con người nơi đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nét đặc sắc cho văn hóa ẩm thực VB.Hội tụ sự độc đáo, mang đậm bản trong từng khâu chuẩn bị, chế biến, và trang trí
Tóm lại vì 2 điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện con người ưu đãi đã tác động nhiều đến văn hóa ẩm thực.
Vì vậy, đối với sự phát triển của du lịch vùng VB. hoạt động quảng bá giới thiệu về ẩm thực có vai trị vơ cùng quan.
II. ĐẶC TRƯNG ẨM THỰC VIỆT BẮC 1. Đặc trưng ẩm thực Việt Bắc
Ẩm thực được ví là chiếc gương soi chân thực cho nền văn hóa của một vùng. Giá trị của nền ẩm thực nằm ở chỗ nó sẽ lớn lên và đi cùng với bước phát triển của vùng đó. Là một khía cạnh để đánh giá một vùng có được nền văn hóa phát triển, phồn vinh sẽ đi đôi với nền ẩm thực đa dạng, phong phú, mn hình, mn vẻ.
Thì Việt Bắc bên cạnh những món ăn hiện đại, song song đó là những món ăn cổ truyền phong phú và hấp dẫn.
Đầu tiên: Ẩm thực luôn là một phần quan trọng đời sống:
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Về mặt ăn uống, tùy theo từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và khẩu vị của cư dân Việt Bắc có hương vị riêng. Việc chế biến món ăn của cư dân Tày - Nùng, một mặt có những sáng tạo, một mặt tiếp thu kĩ thuật chế biến của các tộc lân cận như Hoa, Việt. Họ chế biến ngô một cách tinh tế, ngô được giã, hay xay nhỏ để nấu với cơm, làm các loại bánh. Thức ăn chính là gạo tẻ, nhưng việc chế biến các món ăn từ gạo nếp lại càng được chú trọng. Trong ngày tết, cốm là món đặc biệt hấp dẫn. Các loại xơi màu hấp dẫn thường có mặt trong ngày lễ tết của cư dân Tày - Nùng. Thịt lợn, thịt vịt quay thường được làm cầu kì như thịt lợn quay Lạng Sơn, vịt quay Thất Khê.
Dân tộc nào cũng mang đầy đủ các yếu tố: ngon mắt, ngon mũi, ngon miệng, dễ chế biến, gần gũi với thiên nhiên và ai cũng có thể thưởng thức được… Bữa ăn của cư dân Việt Bắc, mang tính bình đẳng, nhân ái. Tất cả các thành viên trong nhà ăn chung một mâm, khách đến nhà rất được ưu ái, nể trọng. Ẩm thực hội tụ đủ Chân- Thiện- Mỹ: nói chung người Việt chúng ta ăn tồn diện, khơng chỉ ăn bằng miệng, nếm bằng lưỡi mà bằng ngũ quan. Đã ăn thì mắt phải nhìn thấy màu sắc món ăn, cách trình bày món ăn đẹp, răng phải chạm vào món ăn, mũi phải ngửi được mùi vị hấp dẫn, lưỡi phải cảm nhận được, tai phải nghe được tiếng nhai thức ăn.
Người Việt Bắc ăn uống cũng rất đa vị. Thơng thường món ăn có 5 vị chính: ngọt, mặn, chua, cay, béo; có cả ngũ sắc: đen (tương), đỏ (ớt), xanh (rau), vàng (khế chín), trắng (bánh tráng, bún). Ăn một miếng mà mắt thấy 5 màu, lưỡi nếm 5 vị và có khi cịn hơn thế nữa...
Món ăn Việt Bắc hầu hết được chế biến từ các gạo nếp, gạo tẻ, các loại thịt như bò, heo, vịt…
Độ ngon của món ăn đều xuất phát từ cách chế biến, chủ yếu là luộc, hấp, nấu, nướng hoặc ăn tươi sống để giữ được hương vị tự nhiên.
Điều làm nên nét khác biệt chính sự cân bằng âm – dương, chua – cay – mặn – ngọt hài hòa, truyền tải trọn vẹn hương vị tự nhiên, cân bằng giá trị dinh dưỡng.
2. Tầm ảnh hưởng của ẩm thực Việt Bắc
<b>- Ẩm thực Cao Bằng nổi bật với: Khẩu sli Nà Gian, bánh trứng kiến Cao</b>
Bằng, Phở chua, Bánh Gai.
<b>- Bắc Kạn: Khoai môn, bánh dày, trám đen, măng ngâm ớt, cơm lam, miến</b>
dong Côn Minh.
<b>- Thái Nguyên: bánh con gà, bánh con vịt bánh trứng kiến của người Sán Dìu.</b>
Thịt Lợn quay và các loại giị của người Sán Chí, xơi ngũ sắc Đinh Hóa, Măng đắng ngàn me.
<b>- Lạng Sơn: Vịt quay, heo quay, Khau nhục, Rượu cần của người Chu Ru.</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>- Tun Quang: Mắm cá rng chiêm hóa, thịt lợn phơi khô của dân tộc Tày,</b>
xôi năm màu.
<b>- Hà Giang: Thắng cố, mèn mén, Rượu ngô thanh vân, Cháo ấu tẩu, ấu trùng</b>
ong, Nọm dê tái, rượu thóc, Thịt bị khơ đồng văn.
<b>- Ẩm thực Việt Bắc phong phú, đa dạng và hội tụ những nét tinh tế riêng biệt</b>
thông qua cách thức chọn lựa nguyên liệu, chế biến, bày biện và thưởng thức.
<i><b>- Nói tóm lại, văn hóa ẩm thực nơi đây rất đa dạng đậm đà hương vị Việt</b></i>
<i>Bắc, để lại cho chúng ta những hương vị khó qn mà có lẽ khơng lẫn vớibất kỳ một vùng nào.</i>
3. Ẩm thực Việt Bắc trong hội nhập và du lịch
<b>- Văn hóa ẩm thực Việt Bắc hội tụ đủ được sự độc đáo và đa dạng, đậm đà</b>
bản sắc dân tộc từ khâu chọn nguyên liệu, chế biến món ăn cho đến khâu trang trí.
<b>- Ẩm thực nơi đây xem như yếu tố chủ đạo trong mọi hành trình du lịch, làm</b>
cho mỗi chuyến đi trở nên thú vị, hấp dẫn, nhiều trải nghiệm hơn.
<b>- - Vì vậy, đối với sự phát triển của du lịch vùng Việt Bắc, hoạt động quảng</b>
bá, giới thiệu văn hóa ẩm thực có vai trị vơ cùng quan trọng và ý nghĩa thiết thực.
III. ĐẶC SẮC ẨM THỰC VIỆT BẮC 1. Thắng Cố
Hà Giang chính là q hương của món thắng cố. Toàn bộ phần nội tạng của dê, ngựa, bò... ( động vật ăn cỏ ) sẽ được sơ chế, xào sơ qua lửa sau đó ninh cho nhừ. Một số nơi cịn cho cả phần xương, móng giị... Dù ban đầu món thắng cố truyền thống là thịt ngựa nhưng về sau người ta ưa dùng thịt trâu, bị, dê hơn...vì thịt ngựa đơi khi hơi có mùi gây gây khi ăn.
- Vị trí địa lý của các tỉnh thuộc Việt Bắc mang đến điều kiện phát triển cho những loài cây thảo mộc, những loại gia vị độc đáo... Nên món thắng cố sử dụng rất nhiều các loại gia vị như: lá thắng cố, thảo quả, củ sả, hạt dổi, địa liền, gừng, ớt... để làm át đi mùi tanh nồng của nội tạng, tạo nên hương vị đặc trưng...
- Đặc biệt nhất chính là phải có lá thắng cố của người HMong mới tạo nên được hương vị đúng chuẩn cho món ăn.
Hình ảnh người dân vùng cao thưởng thức thắng cố là hình ảnh khơng thể thiếu ở các phiên chợ. Món thắng cố ngày nay ở các phiên chợ hay ở các nhà hàng miền xuôi được biến tấu giản lược một số gia vị có mùi hương quá nồng đậm, rửa sạch luôn phần phân non ở đoạn ruột, nước dùng được nấu trong hơn... phù hợp với khẩu vị chung cho khách du lịch bốn phương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">2. Mèn mén
Là một món ăn được làm từ ngơ xay nhuyễn sau đó đem hấp (hay cịn được dân địa phương ở vùng cao gọi là đồ lên); cũng tương tự như cách hấp xơi. Món ẩm thực độc đáo này đóng vai trị quan trọng trong đời sống của người dân Việt Bắc và cả khu vực miền núi phía Bắc. Cư dân nơi đây ăn mèn mén phổ biến như người dưới xuôi ăn cơm hằng ngày.
Nguyên liệu làm mèn mén là ngô trắng tẻ.
Sau khi phơi khô rồi tách hạt, sẽ được cho vào cối đá xay cho tróc vỏ ngồi hạt. Sau đó rây bỏ phần vỏ rồi tiếp tục xay ngô tẻ cho tới mịn. Bột ngô xay mịn xong thì cho dần dần nước vào bóp đều rồi bỏ lên chõ để đồ, thông thường sẽ đồ khoảng 2 lần( giống bỏ lên xửng để hấp). Tới khi chín đều ta được món mèn mén.
Ngày xưa người Mơng có câu "Con gái Mơng thì phải biết thêu thùa, biết thương chồng con, chăm lo cho bố mẹ và đặc biệt phải biết nấu mèn mén."
Nhưng thời gian sau món ăn này được nấu bán rất nhiều ở chọ nên hầu hết mọi người sẽ mua về nhà để ăn vào bữa chính. Ăn cùng với canh cải chua, óc đậu, thắng cố... Ngồi hàng qn, người bán mèn mén cịn chuẩn bị sẵn ít rau thơm, bột ngọt, có cả xì dầu nếu bạn muốn ăn kèm.
Người dân vùng cao rất thích ăn mèn mén vì hương vị ngọt bùi của ngô, đặc biệt là no rất lâu và giá rẻ hơn so với ăn cơm gạo, phù hợp với dân lao động phải làm công việc đồng án vất vả.
Dạo gần đây Thoang - thánh ăn mèn mén cùn đã đưa hình ảnh tơ mèn mén đến gần với mọi người hơn vì sự nổi tiếng của anh ấy. Anh chàng sinh năm 2000 này nổi tiếng khắp khu chợ Simachai vì một lần có thể ăn được 5 tơ mèn mén đầy ắp. Các youtuber có tình u mãnh liệt với ẩm thực khu vực miền núi phía Bắc hầu hết đều tiếp cận đến Thoang để quảng bá, giới thiệu cho mọi người về món mèn mén nơi đây.
3. Lợn quay mác mật ( mắt mật )
Là món đặc sản của vùng đất Lạng Sơn. Đây là món ăn thể hiện văn hoá ẩm thực phát triển tại khu vực Việt Bắc. Kinh nghiệm quay lợn truyền thống của cư dân Việt Bắc cùng loài cây đặc trưng sinh sống tại nơi đây - mác mật, tạo nên món lợn quay vàng giòng đậm vị, thấm hương lá mác mật thơm phức.
Mác mật ( mắt mật, Makmod...) sinh
sống chủ yếu ở khu vực Việt Bắc. Loại cây thân gỗ này có những tán lá xum x xanh rì, lá cây thường ít bị hư, sâu. Ngồi dùng để cất tinh dầu còn được sử dụng phổ biến trong gia vị của các món quay như lợn, gà, vịt.
Món lợn quay mác mật ở Lạng Sơn là nổi tiếng nhất trong những nơi dùng lá mác mật trong đồ quay.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Sau khi làm heo sạch sẽ, xiên thanh nướng từ đuôi heo lên đến đầu để quay nguyên con. Chuẩn bị phần đồ ướp bên trong bụng heo, hành, tỏi, tiêu, ớt băm nguyễn, lá mác mật... nêm vừa ăn rồi bóp mạnh để trộn gia vị, cho lá mác mật hơi giập giập để ra chất ngọt thơm trong lá.
Sau đó nhét gia vị vào bụng heo cho đều trong thành bụng rồi may chặt lại. Đặc biệt sau khi hoàn tất, họ dùng nửa ly nhỏ mật ong pha với một chén nước ấm, khuấy đều rồi thoa lên toàn bộ phần da heo. Điều này giúp cho da heo khi qua khơng bị nứt, giịn thơm và có màu ánh nâu bắt mắt. Quay heo khoảng 40kg thì sẽ quay trong tầm 2h hơn để đảm bảo được là heo đã chín và đạt được độ giịn cho phần da heo.
Ngày nay nếu muốn thưởng thức món lợn quay mác mật có rất nhiều nơi bán. Nhưng trong lịng thực khách ưa ẩm thực, món lợn quay bằng lá mác mật tại chính vùng đất Lạng mới mang đến cho họ cảm giác hài lịng nhất. 4. Rượu ngơ Na Hang
Loại rượu đặc sản của xứ Tuyên Quang. Với sản vật là hàng chục loại thảo mộc ở khu vực Việt Bắc. Tuyên Quang cũng tận dụng hơn 20 loại thảo mộc (cán cuông, khúc khắc, ớt rừng, tẳng tó, lép nặm, nhân trần, mác mjầu, khau thương, pài đổng (cây vải rừng), chuối njồm, lạc moong, nét tỉ, hoom qua (chỉ thiên), một lá, tham tràng, trầu rừng, đứa poóng, mạt cần, củ giềng, củ xả, rau răm, môn thục, cam thảo, lá quế...). Các loại lá, rễ rửa sạch, phơi khô cho vào hũ ngâm nước lã cho thật ngấu rồi lấy nước hòa với bột gạo và giềng giã nhỏ nặn thành viên men nhỏ để trên trấu sạch. Tiếp đến là chuẩn bị ngô nếp khô. Cho vào nồi nấu với nước, thấy ngô nở bung nứt thành ba cạnh thì lấy ra rải mỏng cho bay bớt hơi nước. Trong lúc đợi ngô nguội thì mang men ra giã nhỏ thành bột. Khi thấy ngơ cịn hơi ấm thì rắc men, đảo đều. Cứ 10kg ngơ thì rắc 300gr bột men, sau đó đánh đều để ủ, nếu trời lạnh phải che đậy để giữ nhiệt độ ổn định( rắc men khi ngô cịn q nóng rượu sẽ bị chua). Để khoảng hai ngày hai đêm, thấy mùi thơm thì cho vào các chum vại ủ, sau khoảng 15-20 ngày thì có thể mang ra nấu cất lấy rượu.
Rượu Na Hang ngon, gái Tuyên Quang đẹp và tháo vát. Người phụ nữ ln đảm nhận vị trí “bếp trưởng” trong việc nấu rượu ngô ở Tuyên Quang. Vị thơm của rượu ngô dần lan tỏa trong cơ thể bạn, ngấm dần ngấm dần, khiến cho bạn có cảm giác như đang có một dòng máu khác chảy trong cơ thể, sự trải nghiệm thật mới lạ.
5. Xôi ngũ sắc
Xôi ngũ sắc là món ăn nổi tiếng của người Tày Hà Giang dùng trong những dịp lễ hội truyền thống. Điểm đặc biệt của món xơi này là màu sắc độc đáo. Xơi thường có 5 màu tượng trưng cho ngũ hành: trắng là kim, xanh là mộc,
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">tím là thuỷ, đỏ là hỏa, vàng là thổ. Người Tày quan niệm rằng, sự tồn tại của ngũ hành làm nên sự tươi tốt của Thiên – Địa – Nhân.
Màu sắc đa dạng của món xơi cũng là ẩn ý cầu thịnh vượng, làm ăn thuận lợi của người Tày. Xôi màu đỏ tượng trưng cho khát vọng, xôi màu vàng tượng trưng cho sự no ấm đủ đầy, xơi màu tím tượng trưng cho đất đai trù phú, xôi màu xanh tượng trưng cho núi rừng và xôi màu trắng tượng trưng cho tình yêu trong trắng, thủy chung.
6. Hạt dẻ Trùng Khánh
Sở dĩ có tên gọi là “hạt dẻ Trùng Khánh” là vì hạt dẻ được trồng ở một huyện nhỏ tên là Trùng Khánh của tỉnh Cao Bằng. Hạt dẻ ở Trùng Khánh đặt biệt vì có một vị rất riêng mà khơng phải ở bất kì đâu cũng có được. Bởi vậy mà giống hạt dẻ Cao Bằng nếu mang đi nơi khác trồng, sẽ cho mùi vị hoàn toàn khác lạ, do thổ nhưỡng ở Trùng Khánh thường màu mỡ và rất phù hợp để gieo trồng hạt dẻ. Nơi trồng hạt dẻ Trùng Khánh Cao Bằng nhiều nhất có lẽ chính là ở vùng sát biên giới Quảng Tây Trung Quốc.
Hạt dẻ Trùng Khánh chỉ xuất hiện khi vào mùa thu. Cụ thể là khoảng tháng 9, tháng 10 âm lịch. Nên còn được biết đến với một cái tên khác là “hạt dẻ mùa thu”. Vào thu khơng khí tại Việt Bắc bắt đầu se lạnh nên cái ấm nóng của hạt dẻ rang khiến món này rất được người dân ưa chuộng.
Đặc điểm nổi bật của hạt dẻ Trùng Khánh, khác với hạt dẻ Lạng Sơn, hạt dẻ Quảng Uyên là hạt khá to đều (gấp 5-6 lần hạt dẻ rừng), có hình dáng hơi trịn (kích thước ba chiều gần bằng nhau), hạt nhỏ nhất cũng bằng ngón chân cái.
Năm 2012, hạt dẻ Trùng Khánh (Cao Bằng) là một trong “top” 10 đặc sản thiên nhiên nổi tiếng của Việt Nam do Tổ chức kỷ lục Việt Nam công bố. Người Cao Bằng thường ninh hạt dẻ với chân giị lợn như một món hầm để đãi khách. Do phần thịt hạt rất thơm ngậy, ngọt tự nhiên.
Người dân Cao Bằng cịn có một cách thưởng thức hạt dẻ một cách độc đáo chính là sau khi rang và bóc lấy vỏ, họ thường nghiền nhân hạt dẻ thành bột rồi trộn cùng với cốm được làm từ lúa nếp Pí Pất. Vị ngọt bùi bùi ngậy ngậy của hạt dẻ hòa quyện cùng với hương thơm nồng của cốm non được ủ kín trong lá chuối tạo thành một hương vị vô cùng đặc biệt.
Quả dẻ nhiều gai xù xì như chơm chơm. Mỗi quả chứa 3-4 hạt. Khoảng cuối thu đầu đông tháng 10,11 là quả dẻ chín rụng đầy mặt đất. Khi ấy hạt mới đủ độ ngọt bùi. Gai hạt dẻ rất sắc nên phải gắp bằng que tre.
Nếu rang phải chuẩn bị một ít đá sỏi nhỏ, rửa sạch cho vào chảo cùng với hạt dẻ hoặc rang cùng với muối hột. Có khi người chế biến lại dùng muối hạt rang cùng. Đây là cách tạo nhiệt để hạt dẻ nhanh chín và chín đều.
</div>