Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tiểu luận Kinh tế chính trị : Phân tích lý luận về xuất khẩu tư bản và liên hệ với tình hình thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.88 KB, 25 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI</b>

<b>Phân tích lý luận về xuất khẩu tư bản và liên hệ với tình hìnhthực tiễn ở Việt Nam hiện nay</b>

<b>Giáo viên hướng dẫn: ………Sinh viên thực hiện: Ngơ Thị Bích Ngọc</b>

<b>Mã số SV: ……….Lớp: ……….</b>

<i>Hà Nội, tháng 4 năm 2024</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b> I . MỞ ĐẦU………... 03</b>

1. Sự cần thiết của đề tài………. 03

2. Nội dung nghiên cứu………... 03

3. Phạm vi nghiên cứu……….……... 03

4. Phương pháp nghiên cứu……… 03

5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu……….……….

<b>II. NỘI DUNG……….……….</b>

<b>CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT MÁC - LÊNIN VỀ XUẤTKHẨU TƯ BẢN……….…………</b>

<b>05</b> 1.1. Nguyên nhân dẫn đến xuất khẩu tư bản………..…. 05

1.2. Khái niệm và tác dụng của xuất khẩu tư bản……….….. 05

1.2.1. Khái niệm……….…. 06

1.2.2. Tác dụng của xuất khẩu tư bản……….. 08

1.3. Bản chất xuất khẩu tư bản………09

1.4. Các hình thức của xuất khẩu tư bản……… 10

1.5. Những biểu hiện mới cúa xất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản……… 11

<b>CHƯƠNG 2. LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU TƯ BẢN Ở VIỆTNAM……….……….. 12</b>

2.1. Thực trạng thu hút FDI năm 2023………..……….. 12

2.2. Nhân tố thúc đẩy thu hút đầu tư FDI ở Việt Nam……….……….17

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b> III. KẾT LUẬN……….…… 23 </b>

<b>I. MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Sự cần thiết của đề tài</b>

Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, xuất khẩu tư bản là xu thế tất yếu hiện nay của các nước trên thế giới. Nếu trước đây, xuất khẩu tư bản chỉ được thực hiện bởi các nước có nền kinh tế phát triển, có tiềm lực kinh tế mạnh, có khoa học cơng nghệ hiện đại thì ngày nay, ngay cả đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển dòng vốn đầu tư ra bên ngoài cũng đã phát triển một cách mạnh mẽ. Sự tham gia của các nước này đã làm phong phú, đa dạng thêm môi trường đầu tư quốc tế. Ở một nước vùa có thể có những lồng vốn di chuyển ra nước ngồi đồng thời có các luồng vốn khác di chyển vào trong nước. Sự di chuyển mạnh mẽ các luồng vốn đầu tư đã có những tác động rất lớn đến các nước nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. Và Việt Nam khơng nằm ngồi xu thế đó. Trong bài tiểu luận này em xin đề cập đến đề tài “ Xuất khẩu tư bản và liên hệ xuất khẩu tư bản ở Việt Nam” để hiểu rõ hơn về uất khẩu tư bản cùng tình trạng xuất khẩu ở nước ta.

<b>2. Đối tượng nghiên cứu</b>

Bài tiểu luận trên nghiên cứu xuất khẩu tư bản dựa trên học thuyết Mác- Lênin và liên hệ với xuất khẩu tư bản ở Việt Nam.

<b>3. Phạm vi nghiên cứu</b>

Bài tiêu luận chỉ tập trung nghiên cứu một số nội dung chủ yếu về xuất khẩu tư bản trong phạm vi kinh tế chính trị Mác - Lênin và liên hệ với tình hình xuất khẩu tư bản ở Việt Nam.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>

- Phương duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Phương pháp phân tích – tổng hợp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu</b>

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, bài tiểu luận gồm 2 chương:

Chương 1: Lý luận của học thuyết kinh tế Mác - Lênin về xuất khẩu tư bản. Chương 2: Liên hệ với thực trạng xuất khẩu tư bản hiện nay.

<b> </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b> II. NỘI DUNG</b>

<b>CHƯƠNG 1</b>

<b>LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC - LÊNIN VỀ XUẤT KHẨUTƯ BẢN</b>

<b>1.1.Nguyên nhân dẫn đến xuất khẩu tư bản</b>

Trong những nước tư bản chủ nghĩa phát triển dã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng “thừa tư bản”. Tình trạng thừa này khơng phải là tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa là khơng tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bọ kĩ thuật ở các nước này đã dẫn đến tăng cầu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỉ suất lợi nhuận; trong khi đó ở nững nước kém phát triển về kinh tế, nhất là ở các nước thuộc địa, dồi dào nguyên liệu và nhân công giá rẻ nhưng lại thiếu vốn và kĩ thuật. Do tập trung trong tay một khối lượng tư bản khổng lồ nên việc xuất khẩu tư bản ra nước ngoài trở thành một nhu cầu tất yêu của các tổ chức độc quyền.

<b>1.2.Khái niệm và tác dụng của xuất khẩu tư bản1.2.1. Khái niệm</b>

V.I.Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

- Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngồi để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Còn xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá trị thặng dư tại nước sở tại.

- Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng một số “tư bản dư thừa” tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong nước. Tiến bộ kỹ thuật ở các nước này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất lợi

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

nhuận; trog khi đó ở nhiều nước lạc hậu về kih tê, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nhưng lại rất thiếu tư bản nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.

- Xuất khẩu tư bản xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp). Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là cho vay để thu lợi tức. xét về chủ sở bữu tư bản, có thể phân chiaa thành xuất khẩu tư bản Nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.

<b>1.2.2. Tác dụng của xuất khẩu tư bản</b>

Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản hủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị, bóc lột, nơ dịch của tư bản chính trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan có những tác động tích cực đến nền kinh tế cửa nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.

<b>1.3. Bản chất xuất khẩu tư bản</b>

Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị thặng dư ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngồi) nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác từ các nước nhập khẩu tư bản. Lênin khẳng định rằng, xuất khẩu tư bản khác về nguyên tắc xuất khẩu hàng hóa và là q trinhg ăn bám bình phương. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành phổ biến vì:

Một là, trong một số ít nước phát triển đã tích lũy được một khối lượng lớn tư bản kếch xù và một bộ phận đã trở thành “tư bản thừa” do không tìm được nơi đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao ở trong nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Hai là, khả năng xuất hiện tư bản do nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới, nhưng lại rất thiếu tư bản. Các nước đó giá ruộng đất lại tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ nên tỷ suất lợi nhuận cao.

Ba là, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn kinh tế - xã hội càng gay gắt.

<b>1.4.Các hình thức của xuất khẩu tư bản</b>

<b> Xuất khẩu tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức, nếu xét hình thức đầu tư thì có đầu</b>

tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:

<i>- Đầu tư trực tiếp: là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp</i>

mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của cơng ty mẹ. Các xí nghiệp mới được hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương, nhưng cũng có những xí nghiệp mà tồn bộ số vốn là của cơng ty nước ngồi.

<i>- Đầu tư gián tiếp: là hình thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lãi. Thông</i>

qua các ngân hàng tu nhân hoặc các trung tâm tón dụng quốc tế và quốc gia, tư nhân hoặc các nhà tư bản cho các nước khác vay ốn theo nhiều hạn định khác nhau để đầu tư vào các đề án phát triển kinh tế. Ngày nay, hình tức nầy cị được thực hiện bằng việc mua trái hoán hay cổ phiếu của các công ty ở nước nhập khẩu tư bản.

Nếu xét theo chủ thể sở hữu, có xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân:

<i>- Xuất khẩu tư bản nhà nước là hình thức xuất khẩu tư bản mà nhà nước tư sản lấy</i>

tư bản từ ngân quỹ của mình đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản, hoặc viện trợ hoàn lại hay khơng hồn lại để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.

Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi tường thuận lợi đầu cho đầu tư tư bản tư nhân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Về chính trị, viện trợ nhà nước tư sản nhằm cứu vãn chế độ chính trị thân cận đang bị lung lay hoặc tạo ra mối liên hệ phụ thuộc lâu dài.

Về quân sự, viện trợ nhà nước tư sản nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải đưa quân tham chiến chống nước khác, cho nước xuất khẩu nhập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình hoặc đơn thuần để bán vũ khí.

<i>- Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư bản tư nhân thực</i>

hiện. Ngày nay, hình thức nay chủ yếu do các cơng ty xuyên quốc gia tiến hành thông qua hoạt động đầu tư kinh doanh. Hình thức xuất khẩu tư bản tư nhân có đặc điểm là thường được đầu tư vào các ngành kinh tế có vịng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức chủ yếu của xuất khẩu tư bản, có xu hướng tăng nhanh, chiếm tỷ lệ cao trong tổng tư bản xuất khẩu. Nếu những năm 70 của thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản tư nhân đạt trên 50% thì đến những năm 80 của thế kỷ này nó đã đạt tỷ lệ 70% trong tổng tư bản xuất khẩu.

- Nếu xét về cách thức hoạt động, có các chi nhánh của cơng ty xuyên quốc gia, hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng hay các trung tâm tín dụng và chuyển giao cơng nghệ, trong đó, hoạt động dưới hình thức chuyển giao cơng nghệ là biện pháp chủ yếu mà các nước xuất khẩu tư bản thuwowgf sử dụng để khống chế nền kinh tế của các nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản về thực chất là hình thức mở rộng quan hệ sản xuất sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi quốc tê, là sự bành trướng thế lực của tư bản tài chnhs nhằm bóc lột nhân dân lao động thế giới, lmf cho ccacs nước nhập khẩu tư bản bị bóc lột giá trị thặng dư, cơ cấu kinh tế què quặt, lệ thuộc vào nền kinh tế nước tư bản chủ nghĩa. Từ đó làm mâu thuẫn kinh tế - xã hội gia tăng.

<b>1.5. Những biểu hiện mới cúa xất khẩu tư bản trong giai đoạn phát triển hiện naycủa chủ nghĩa tư bản</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, xuất khẩu tư bản đã có sự biến đổi lớn. - Thứ nhất là hướng xuất khẩu tư bản đã có sự thay đổi cơ bản. Trước kia, luồng tư bản xuất khẩu chủ yếu từ các nước tư bản phát triển sang các nước kém phát triển (chiếm tỷ trọng trên 70%). Nhưng những thập kỷ gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữ các nước tư bản phát triển với nhau. Tỷ trọng cuất khẩu tư bản giữ ba trung tâm tư bản chủ nghĩa tăng nhanh, đặc biệt dòng đầu tư chảy mạnh theo hướng từ Nhật Bản vào Mỹ và Tây Âu, cúng như từ Tây Âu chảy sang Mỹ làm cho luồng xuất khẩu tư bản vào các nước đàn phát triển giảm mạnh, thậm chí cịn 16,8% (1996) và hiện nay khoảng 30%. Trước tình hình đó, nhiều nhà lý luận tư sản cho rằng, xuất khẩu tư bản khơng cịn là thủ đoạn và phương tiện mà các nước giàu dùng để bóc lột các nước nghèo. Theo họ, xuất khẩu tư bản đã trút bỏ bản chất cũ của nó và trở thành hình thức hợp tác cùng có ợi trong mối quan hệ quốc tế. Sự hợp tác này diễn ra chủ yếu giữa các nức tư bản phát triển với nhau. Đó là quan niệm hồn tồn sai lầm.

Như đã biết, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã tạo ra những biến đổi nhảy vọt trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời và phát triển thành các ngành mũi nhọn: ngành công nghệ sinh học, ngành chế tạo vật liệu mới, ngành bán dẫn và vi điện tử, ngành vũ trụ và đại dương… Những ngành này có thiết bị và quy trình cơng nghệ hiện đại, tiêu tốn ít nguyên, nhiên vật liệu. Trong nền kinh tế giữa các nước tư bản phát triển đã diễn ra sự biến đổi cơ cấu các ngành sản xuất mũi nhọn có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Sự xuất hiện những ngành nghề mới đã tạo ra nhu cầu đầu tư hấp dẫn vì trong thời gian đầu nó tạo ra lợi nhuận siêu ngạch rất cao. Việc tiếp nhận kỹ thuật mới chỉ diễn ra ở các nước tư bản phát triển vì các nước đang phát triển có hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu , không phù hợp, tình chính trị kém ổn định, sức mua kém, tỷ suất lợi nhuận của tư bản đầu tư khơng cịn cao như trước (cịn với nước đang phát triển nhưng đã trở thành Nics thì tỷ trọng của luồng tư bản xuất khẩu vẫn lớn: chiếm 80% tổng tư bản xuất khẩu của

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

các nước đang phát triển). Mặt khác thời gian này, xu hướng liên kết các nền kinh tế ở các trung tâm tư bản chủ nghĩa phát triển rất mạnh. Hệ quả của hoạt động này bao giờ cũng hình thành các khối kinh tế với những đạo luật bảo hộ rất khắt khe. Để nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, các công ty xuyên quốc gia đã biến các doanh nghiệp chi nhánh của mình thành một bộ phận cấu thành của khối kinh tế mới nhằm tránh đòn thuế quan nặng của các đạo luật bảo hộ. Nhật và Tây Âu đã tích cực đầu tư vào thị trường Mỹ bằng cách đó.

Sự biến động về địa bàn và tỷ trọng đầu tư của các nước tư bản phát triển không làm cho bản chất của xuất khẩu tư bản thay đổi , mà chỉ làm cho hình thức và xu hướng của xuất khẩu tư bản thêm phong phú và phức tạp hơn. Sự xuất hiện các ngành mới có hàm lượng khoa học – cơng nghệ cao ở các nước tư bản phát triển bao giờ cũng dẫn đến cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng cao và điều đó tất yếu dẫn đến tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Hiện tượng thừa tư bản tương đối, hệ quả của sự phát triển đó là khơng thể tránh khỏi. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị quy trình cơng nghệ mới đã dẫn đến sự loại bỏ các thiết bị và cơng nghệ lạc hậu ra khỏi q trình sản xuất trực tiếp (do bị hao mịn hữu hình và vơ hình). Đối với nền kinh tế thế giới đang phát triển, những tư liệu sản xuất này rất có ích và vẫn là kỹ thuật mới mẻ. Nhằm mục đích thu lợi nhuận độc quyền cao, các tập đồn tư bản độc quyền đưa các thiết bị đó sang các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ. Rõ ràng, khi chủ nghĩa đế quốc cịn tồn tại thì xuất khẩu tư bản từ các nước tư bản phát triển sang các nước đang phát triển là điều không tránh khỏi. Xét trong một giai đoạn phát triển nhất định, có thể diễn ra sự thay đổi tỷ trọng tư bản đầu tư vào khu vực nào đó của thế giới, nhưng phân tích một thời kỳ dài hơn của quy mô thế giới cho thấy: xuất khẩu tư bản vẫn là vũ khí chủ yếu mà tư bản độc quyền sử dụng để bành trướng ra nước ngồi. Tình trạng nợ nần của các nước đang phát triển ở châu Á, Phi, Mỹ Latinh là thực tế chứng minh cho kết luận trên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Thứ hai là chủ thể xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn, trong đó vai trị các cơng ty xun quốc gia trong xuất khẩu tư bản ngày càng to lớn, đặc biệt là trong FDI. Mặt khác, đã xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển mà nổi bật là các Nics châu Á.

Thứ ba là hình thức xuất khẩu tư bản rất đa dạng, sự đan quyện giữa xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa tăng lên. Chẳng hạn, trong đầu tư trực tiếp xuất hiện những hình thức mới như BOT, BT… sự kết hợp giữa xuất khẩu tư bản với các hợp đồng bn bán hàng hóa, dịch vụ, chất xám khơng ngừng tăng lên.

Thứ tư là sự áp đặt mang tính thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ dần và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao.

Ngày nay, xuất khẩu tư bản luôn thể hiện kết quả hai mặt. Một mặt, nó làm cho các quan hệ tư bản chủ nghĩa được phát triển và mở rộng ra trên địa bàn quốc tế, góp phần thúc đẩy nhanh chóng q trình phân cơng lao động và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều nước; là một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng tác động từ bên ngồi vào làm cho q trình cơng nghiệp hố và tái cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở các nước nhập khẩu tư bản phát triển nhanh chóng . Song mặt khác, xuất khẩu tư bản vẫn để lại cho các quốc gia nhập khẩu tư bản, nhất là với các nước đang phát triển những hậu quả nặng nề như: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị bóc lột quá nặng nề. Song điều này tuỳ thuộc một phần rất lớn vào vai trò quản lý của nhà nước ở các nước nhập khẩu tư bản. Lợi dụng mặt tích cực của xuất khẩu tư bản , nhiều nước đã mở rộng việc tiếp nhận đầu tư để đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hố ở nứơc mình. Vấn đề đặt ra là phải biết vận dụng mềm dẻo, linh hoạt , nguyên tắc cùng có lợi, lựa chọn phương án thiết thực, để khai thác nguồn lực quốc tế có hiệu quả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<b>CHƯƠNG 2</b>

<b>LIÊN HỆ VỚI TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU TƯ BẢN Ở VIỆT NAM</b>

<b> 2.1. Thực trạng thu hút FDI năm 2023</b>

Kể từ khi thực hiện công cuộc Đổi mới năm 1986, Việt Nam đã nhận được dịng vốn FDI lớn, trở thành ngơi sao đang lên trong chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu. Trong khi phần lớn khoản đầu tư ban đầu đổ vào lĩnh vực dệt may và giày dép có giá trị gia tăng thấp, Việt Nam nhanh chóng thăng hạng trong chuỗi giá trị, phát triển thành trung tâm lắp ráp điện tử quan trọng. Bất chấp những thách thức thương mại diễn ra gay gắt, Việt Nam vẫn tiếp tục đi đầu trong việc thu hút FDI chất lượng. Đầu tư trong lĩnh vực sản xuất đã chiếm 85% tổng vốn FDI mới.

Mục tiêu thu hút FDI năm 2023 nhằm phát triển bền vững là yêu cầu trong suốt quá trình phát triển kinh tế, kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, độc lập, chủ quyền quốc gia. Vốn FDI vào Việt Nam đạt 36,61 tỉ USD (tính đến ngày 20/12/2023), giải ngân đạt 23,18 tỉ USD - mức cao kỉ lục trong giai đoạn 2018 - 20232, tăng 32,1% so với cùng kì, bao gồm tổng vốn đăng kí cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngồi. Vốn đăng kí mới tăng 20,19 tỉ USD và số dự án đăng kí mới tăng 3.188 dự án - là điểm rất đáng ghi nhận. Số dự án mới tăng 66,3%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng tổng vốn đầu tư mới (tăng 43,6%) cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài quy mô vừa và nhỏ tiếp tục quan tâm, tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam nên đã đưa ra các quyết định đầu tư mới. Dù vốn đầu tư điều chỉnh giảm nhưng xu hướng giảm đã có sự cải thiện.

</div>

×