LỜI MỞ ĐẦU
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải có các hoạt
động: nghiên cứu nhu cầu thị trường, phân tích tình hình hiện tại của cả nền kinh tế,
của chính doanh nghiệp, từ đó, vạch ra các chiến lược phát triển ngắn hạn và dài hạn,
nhằm mục đích cuối cùng là tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu. Một trong những hoạt
động quan trọng đó là phân tích tài chính, thông qua đó tìm các giải pháp hoàn thiện
công tác phân tích tài chính, trên cơ sở đó, định hướng cho các quyết định nhằm nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong tương lai của doanh nghiệp. Thực tiễn đã
chứng minh, nếu các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm đúng mức tới công tác phân
tích tài chính thì họ sẽ có những quyết định đúng đắn và có nhiều cơ hội thành đạt
trong kinh doanh, ngược lại họ sẽ khó tránh khỏi những quyết định tài chính sai lầm
và thất bại. Và để làm tốt điều đó bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện phân tích
đánh giá tình hình tài chính của mình một cách thật chi tiết, khoa học để từ đó doanh
nghiệp có kế hoạch, định hướng và hoạt động có hiệu quả hơn. Vì chỉ trên cơ sở phân
tích tài chính thì doanh nghiệp mới đánh giá được hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh trong kỳ, thấy được những trọng điểm quản lý của công tác quản trị tài chính
để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động
của mình.
Công ty Cổ phần Sông Đà 19 là một Công ty thành viên của Tập đoàn Sông
Đà có nhiệm vụ chính xây dựng các công trình thủy điện, giao thông, công nghiệp …
Công tác phân tích tài chính của Công ty đã bước đầu được quan tâm và có nhiều tiến
bộ, tuy nhiên vẫn không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế.
Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính, nghiên cứu thực trạng
công tác phân tích tài chính của Công ty, sau thời gian thực tập tại phòng Tài chính
kế toán của công ty cổ phần Sông Đà 19, được sự hướng dẫn, chỉ bảo của cô giáo:
ThS Lê Thu Thủy, cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú trong phòng, kết hợp
với những kiến thức đã học và đọc, em đã tìm hiểu, nghiên cứu, và hoàn thành
chuyên đề tốt nghiệp nghiên cứu về tình hình tài chính của Tổng công ty là: “Giải
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
1
pháp hoàn thiện chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần
Sông Đà 19”.
Chuyên đề này gồm ba chương chính:
• Chương I: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh
nghiệp
• Chương II: Thực trạng phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần
Sông Đà 19.
• Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chất lượng phân tích
tài chính của Công ty Cổ phần Sông Đà 19.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
I. KHÁI NIỆM VÀ MỤC TIÊU CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH
NGHIỆP
1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ theo
một hệ thống nhất định cho phép thu thập và xử lý các thông tin kế toán cũng như các
thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đưa ra những đánh giá chính xác,
đúng đắn về tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp nhà
quản lý kiểm soát tình hình kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cũng như dự đoán trước những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai để đưa các
quyết định xử lý phù hợp tuỳ theo mục tiêu theo đuổi.
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà phân tích tài chính là đánh giá rủi ro phá
sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh
giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh
nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra
những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh
nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài
chính - một trong các hướng dự đoán doanh nghiệp. Phân tích tài chính có thể được
ứng dụng theo nhiều hướng khác nhau : với mục đích tác nghiệp (chuẩn bị các quyết
định nội bộ), với mục đích nghiên cứu, thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích
(trong doanh nghiệp hoặc ngoài doanh nghiệp).
2. Mục tiêu, ý nghĩa của phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là sử dụng tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công
cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh
giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
3
Quy trình phân tích tài chính hiện nay ngày càng được áp dụng rộng rãi ở các
đơn vị tự chủ nhất định về tài chính, các tổ chức xã hội, tập thể, các cơ quan quản lý,
tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp,của ngân hàng và
của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để chứng tỏ phân tích tài chính thực sự có ích
và cần thiết.
Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau thì nhằm những
mục tiêu khác nhau.
2.1.Đối với người quản lý doanh nghiệp
Đối với người quản lý doanh nghiệp mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm
kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ. Một doanh nghiệp bị lỗ liên tục sẽ bị cạn kiệt các
nguồn lực và buộc phải đóng cửa. Mặt khác, nếu doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán nợ đến hạn cũng bị buộc phải ngừng hoạt động.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý doanh nghiệp phải
giải quyết ba vấn đề quan trọng sau đây :
Thứ nhất : Doanh nghiệp nên đầu tư vào đâu cho phù hợp với loại hình sản
xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai : Nguồn vốn tài trợ là nguồn nào?
Để đầu tư vào các tài sản, doanh nghiệp phải có nguồn tài trợ, nghĩa là phải có
tiền để đầu tư. Các nguồn tài trợ đối với một doanh nghiệp được phản ánh bên phải
của bảng cân đối kế toán. Một doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hoặc vay nợ
dài hạn, ngắn hạn. Nợ ngắn hạn có thời hạn dưới một năm còn nợ dài hạn có thời hạn
trên một năm. Vốn chủ sở hữu là khoản chênh lệch giữa giá trị của tổng tài sản và nợ
của doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra ở đây là doanh nghiệp sẽ huy động nguồn tài trợ với
cơ cấu như thế nào cho phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất. Liệu doanh nghiệp
có nên sử dụng toàn bộ vốn chủ sở hữu để đầu tư hay kết hợp với cả các hình thức đi
vay và đi thuê? Điều này liên quan đến vấn đề cơ cấu vốn và chi phí vốn của doanh
nghiệp.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
4
Thứ ba : Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế
nào?
Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến vấn
đề quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền
với các dòng tiền nhập quỹ và xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần xử lý sự lệch pha
của các dòng tiền.
Ba vấn đề trên không phải là tất cả mọi khía cạnh về tài chính doanh nghiệp,
nhưng đó là những vấn đề quan trọng nhất. Phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở
để đề ra cách thức giải quyết ba vấn đề đó.
Nhà quản lý tài chính phải chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và
dựa trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày để đưa ra các quyết định vì lợi
ích của cổ đông của doanh nghiệp. Các quyết định và hoạt động của nhà quản lý tài
chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp : đó là sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, tránh được sự căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả
năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá chi
phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc. Doanh nghiệp
chỉ có thể hoạt động tốt và mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi các quyết định của
nhà quản lý được đưa ra là đúng đắn. Muốn vậy, họ phải thực hiện phân tích tài chính
doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp là những người có
nhiều lợi thế để thực hiện phân tích tài chính một cách tốt nhất.
Trên cơ sở phân tích tài chính mà nội dung chủ yếu là phân tích khả năng
thanh toán, khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi,
nhà quản lý tài chính có thể dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh
lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Từ đó, họ có thể định hướng cho giám
đốc tài chính cũng như hội đồng quản trị trong các quyết định đầu tư, tài trợ, phân
chia lợi tức cổ phần và lập kế hoạch dự báo tài chính. Cuối cùng phân tích tài chính
còn là công cụ để kiểm soát các hoạt động quản lý.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
5
2.2.Đối với các nhà đầu tư vào doanh nghiệp
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn vốn,
mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài chính, tình
hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của các doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp Cổ phần, các cổ đông là người đã bỏ vốn đầu tư vào
doanh nghiệp và họ có thể phải gánh chịu rủi ro. Những rủi ro này liên quan tới việc
giảm giá cổ phiếu trên thị trường, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh nghiệp. Chính
vì vậy, quyết định của họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức độ rủi ro và doanh lợi
đạt được. Vì thế, mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông là khả năng tăng trưởng,
tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu trong doanh nghiệp. Trước hết họ
quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các thông tin về
tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các nhà đầu tư sẽ đánh giá
được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp; từ đó đưa ra
những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án
nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền
của dự án tạo ra sẽ lớn hơn lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi
suất yêu cầu cho nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những
người sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu
nguồn tài trợ của doanh nghiệp cũng là vấn đề được các nhà đầu tư hết sức coi trọng
vì nó trực tiếp tác động đến thu nhập của họ. Ta biết rằng thu nhập của cổ đông bao
gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị tăng thêm của cổ phiếu trên thị
trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài
chính tích cực vừa giúp doanh nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và
thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS). Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở
rộng quy mô doanh nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy,
các yếu tố như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần,
mức chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và
tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của việc tái
đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân tích tài chính.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
6
2.3. Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp
Nếu phân tích tài chính được các nhà đầu tư và quản lý doanh nghiệp thực
hiện nhằm mục đích đánh giá khả năng sinh lợi và tăng trưởng của doanh nghiệp thì
phân tích tài chính lại được các ngân hàng và các nhà cung cấp tín dụng thương mại
cho doanh nghiệp sử dụng nhằm đảm bảo khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Trong nội dung phân tích này, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được
xem xét trên hai khía cạnh là ngắn hạn và dài hạn. Nếu là những khoản cho vay ngắn
hạn, người cho vay đặc biệt quan tâm đến khả năng thanh toán nhanh của doanh
nghiệp, nghĩa là khả năng ứng phó của doanh nghiệp đối với các món nợ khi đến hạn
trả. Nếu là những khoản cho vay dài hạn, người cho vay phải tin chắc khả năng hoàn
trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà việc hoàn trả vốn và lãi sẽ tuỳ thuộc
vào khả năng sinh lời này.
Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng, mối quan tâm của họ
chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, họ chú ý đặc biệt đến
số lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số
nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Bên cạnh
đó, các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng cũng rất quan tâm tới số vốn của
chủ sở hữu, bởi vì số vốn này là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh
nghiệp bị rủi ro. Như vậy, kỹ thuật phân tích có thể thay đổi theo bản chất và theo
thời hạn của các khoản nợ, nhưng cho dù đó là cho vay dài hạn hay ngắn hạn thì
người cho vay đều quan tâm đến cơ cấu tài chính biểu hiện mức độ mạo hiểm của
doanh nghiệp đi vay.
Đối với các nhà cung ứng vật tư hàng hoá, dịch vụ cho doanh nghiệp, họ phải
quyết định xem có cho phép khách hàng sắp tới được mua chịu hàng hay không, họ
cần phải biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại và trong thời gian
sắp tới.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
7
2.4.Đối với người lao động trong doanh nghiệp
Bên cạnh các nhà đầu tư, nhà quản lý và các chủ nợ của doanh nghiệp, người
được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm tới các thông tin tài chính
của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có
tác động trực tiếp tới tiền lương, khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra
trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một lượng
cổ phần nhất định. Như vậy, họ cũng là những người chủ doanh nghiệp nên có quyền
lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
2.5.Đối với các cơ quan quản lý nhà nước
Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà
nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động
kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có tuân thủ theo đúng chính
sách, chế độ và luật pháp quy định không, tình hình hạch toán chi phí, giá thành, tình
hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và khách hàng...
Tóm lại, phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích
các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua một hệ thống các
phương pháp, công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc
độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, lại vừa xem xét một cách
chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp, tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu về
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để nhận biết, phán đoán, dự báo và
đưa ra quyết định tài chính, quyết định tài trợ và đầu tư phù hợp.
3. Nhiệm vụ của phân tích tài chính
Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nhiệm vụ của việc phân tích tình hình tài chính
là việc cung cấp những thông tin chính xác về moị mặt tài chính của doanh nghiệp,
bao gồm:
- Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các mặt đảm bảo vốn cho
sản xuất kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình nguồn vốn
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
8
- Đánh giá hiệu quả sử dụng từng loại vốn trong quá trình kinh doanh và kết
quả tài chính của hoạt động kinh doanh, tình hình thanh toán.
- Tính toán và xác định mức độ có thể lượng hoá của các nhân tố ảnh hưởng
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra những biện pháp có hiệu quả
để khắc phục những yếu kém và khai thác triệt để những năng lực tiềm tàng của
doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
4. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính
Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc ra
quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả tương lai của doanh
nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích tài chính không chỉ giới hạn trong phạm vi
nghiên cứu các báo cáo tài chính mà phải mở rộng sang các lĩnh vực :
- Các thông tin chung về kinh tế, thuế, tiền tệ.
- Các thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp.
4.1. Thông tin chung
Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái hoặc tăng trưởng của nền kinh
tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động của giá cả các yếu
tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết
quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên khi những biến động của tình hình
kinh tế là bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính vì vậy để có được sự đánh giá khách quan và chính xác về tình hình hoạt động
của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét cả thông tin kinh tế bên ngoài có liên quan.
4.2. Thông tin theo ngành kinh tế
Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành kinh tế là việc đặt sự phát triển của
doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh doanh.
Đặc điểm của ngành kinh doanh liên quan tới:
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
9
-Tính chất của các sản phẩm.
- Quy trình kỹ thuật áp dụng.
- Cơ cấu sản xuất : công nghiệp nặng hoặc công nghiệp nhẹ, những cơ cấu sản
xuất này có tác động đến khả năng sinh lời, vòng quay vốn dự trữ...
- Nhịp độ phát triển của các chu kỳ kinh tế.
Việc kết hợp các thông tin theo ngành kinh tế cùng với thông tin chung và các
thông tin liên quan khác sẽ đem lại một cái nhìn tổng quát và chính xác nhất về tình
hình tài chính của doanh nghiệp. Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là hệ thống
chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu để người phân tích có thể đánh giá, kết
luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp.
4.3. Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu
của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài,
thông tin số lượng đến thông tin giá trị đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra nhận
xét, kết luận sát thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán là nguồn thông tin đặc biệt cần
thiết. Nó được phản ánh đầy đủ trong các báo cáo kế toán của doanh nghiệp. Phân
tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính được hình thành thông
qua việc xử lý các báo cáo kế toán.
Các báo cáo tài chính gồm có:
4. 3.1. Bả ng cân đối kế toá n
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của
một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đấy là một báo cáo tài chính
phản ánh tổng quát tình hình tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định,
dưới hình thái tiền tệ theo giá trị tài sản và nguồn hình thành tài sản. Xét về bản chất,
bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với vốn chủ sở hữu và
công nợ phải trả( nguồn vốn).
Để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, tài liệu chủ yếu là bản cân
đối kế toán.Thông qua nó cho phép ta nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát tình
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
10
hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển
vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
Bảng cân đối kế toán có hai hình thức trình bày:
- Hình thức cân đối hai bên: Bên trái là phần tài sản, bên phải là phần nguồn vốn.
- Hình thức cân đối hai phần liên tiếp: phần trên là phần tài sản, phần dưới là
phần nguồn vốn.
Mỗi phần đều có số tổng cộng và số tổng cộng của hai phần luôn luôn bằng nhau.
Tài sản = Nguồn vốn
Hay Tài sản = Vốn chủ sở hữu+ Nợ phải trả
• Phần tài sản : Bao gồm có tài sản lưu động và tài sản cố định.
Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có quyền quản
lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích trong tương lai.
Về mặt kinh tế, các chỉ tiêu của phần tài sản cho phép đánh giá tổng quát về
quy mô vốn, cơ cấu vốn, quan hệ giữa năng lực sản xuất và trình độ sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
• Phần nguồn vốn: Bao gồm công nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu, phản ánh
các nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý, phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt vật chất
của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn( Nhà nước, ngân hàng, cổ đông, các
bên liên doanh...). Hay nói cách khác thì các chỉ tiêu bên phần nguồn vốn thể hiện
trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh doanh, về số tài sản
hình thành và trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ( với người lao động, với nhà
cung cấp, với Nhà nước...).
Về mặt kinh tế, phần nguồn vốn thể hiện các nguồn hình thành tài sản hiện có,
căn cứ vào đó có thể biết tỷ lệ, kết cấu của từng loại nguồn vốn đồng thời phần
nguồn vốn cũng phản ánh được thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Tác dụng của phân tích bảng cân đối kế toán:
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
11
+ Cho biết một cách khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các
chỉ tiêu về tổng tài sản và tổng nguồn vốn.
+ Thấy được sự biến động của các loại tài sản trong doanh nghiệp : tài sản lưu
động, tài sản cố định.
+ Khả năng thanh toán của doanh nghiệp qua các khoản phải thu và các khoản
phải trả.
+ Cho biết cơ cấu vốn và phân bổ nguồn vốn trong doanh nghiệp.
4.3.2. Báo cáo kết qủa kinh doanh
Một loại thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích
tài chính là thông tin phản ánh trong báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Khác với
bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh cho biết sự dịch chuyển
của vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; nó cho phép dự tính
khả năng hoạt động của doanh nghiẹp trong tương lai. Báo cáo kết quả sản xuất kinh
doanh đồng thời cũng giúp cho nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập
quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để
vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh
doanh : lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp
trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và
kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Biểu mẫu “Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh” có 3 phần:
+ Phần I: Lãi, lỗ.
+ Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
+ Phần III: Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được lập trên cơ sở
các tài liệu:
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
12
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước.
+ Sổ kế toán trong kỳ của các tài khoản từ loại 5 đến loại 9.
+ Sổ kế toán các tài khoản 133 “Thuế GTGT được khấu trừ” và tài khoản
333 “Thuế GTGT phải nộp”.
Tác dụng của việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phản ánh các chỉ tiêu về doanh thu, lợi
nhuận và tình hình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước của doanh nghiệp. Do
đó, phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng cho ta đánh giá khái quát
tình hình tài chính doanh nghiệp, biết được trong kỳ doanh nghiệp kinh doanh có lãi
hay bị lỗ, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu và vốn là bao nhiêu. Từ đó tính được tốc
độ tăng trưởng của kỳ này so với kỳ trước và dự đoán tốc độ tăng trong tương lai.
Ngoài ra, qua việc phân tích tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, ta
biết được doanh nghiệp có nộp thuế đủ và đúng thời hạn không. Nếu số thuế còn phải
nộp lớn chứng tỏ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là không khả quan.
Như vậy, việc phân tích báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh sẽ giúp ta có
những nhận định sâu sắc và đầy đủ hơn về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
4.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong bốn báo cáo tài chính bắt buộc mà bất
kỳ doanh nghiệp nào cũng phải lập để cung cấp cho người sử dụng thông tin của
doanh nghiệp. Nếu bảng cân đối kế toán cho biết những nguồn lực của cải (tài sản) và
nguồn gốc của những tài sản đó; và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và
chi phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì báo cáo lưu
chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến luồng tiền vào ra trong
doanh nghiệp, tình hình thu chi ngắn hạn của doanh nghiệp. Những luồng vào ra của
tiền và các khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm : lưu chuyển tiền tệ từ
hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lưu
chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
13
4.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình
hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống báo cáo tài chính, đồng thời giải
thích thêm một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày nhằm
giúp cho người đọc và phân tích các chỉ tiêu trong báo cáo tài chính có một cái nhìn
cụ thể và chi tiết hơn về sự thay đổi những khoản mục trong bảng cân đối kế toán và
kết quả hoạt động kinh doanh.
“Thuyết minh báo cáo tài chính” được lập căn cứ vào những số liệu và những
tài liệu sau:
+ Các sổ kế toán kỳ báo cáo.
+ Bảng cân đối kế toán kỳ báo cáo.
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ báo cáo.
+ Thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước, năm trước.
“ Thuyết minh báo cáo tài chính” trình bày 7 chỉ tiêu nhằm cụ thể hoá các chỉ
tiêu mà bảng cân đối kế toán không thể nêu lên hết được bao gồm:
+ Chỉ tiêu 1: Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
+ Chỉ tiêu 2: Chính sách kế toán áp dụng tại doanh nghiệp.
Khi lập hai chỉ tiêu này, phải quán triệt các nguyên tắc chung sau:
- Phần trình bày bằng lời văn phải ngắn gọn, rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu.
- Phần trình bày bằng số liệu phải thống nhất với số liệu trên các báo cáo
khác.
- Các chỉ tiêu thuộc phần chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp phải thống
nhất trong cả niên độ kế toán đối với các báo cáo quý. Nếu có sự thay đổi phải trình
bày rõ ràng những lý do thay đổi.
- Trong các biểu số liệu, cột “số kế hoạch” thể hiện số liệu kế hoạch của kỳ
báo cáo, cột” số thực tế kỳ trước” thể hiện số liệu của kỳ ngay trước kỳ báo cáo.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
14
- Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp chỉ sử
dụng trong thuyết minh báo cáo tài chính năm.
+ Chỉ tiêu 3: “Chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính” bao gồm:
3.1. Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố: phản ánh toàn bộ chi phí sản
xuất kinh doanh phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp, được phân chia theo các yếu tố
chi phí như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu.
- Chi phí nhân công.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài.
- Chi phí khác bằng tiền.
3.2. Tình hình tăng giảm tài sản cố định: phản ánh tổng số tăng giảm của
tài sản cố định hữu hình, tài sản cố định thuê tài chính, tài sản cố định vô hình theo
từng nhóm tài sản trong kỳ báo cáo như nhà cửa, máy móc, thiết bị...cả về nguyên
giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại và lý do tăng, giảm chủ yếu.
Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này được lấy từ các tài khoản 211, 212, 213, 214
trong sổ cái.
3.3.Tình hình thu nhập của công nhân viên: phản ánh tổng số thu nhập
bình quân của công nhân viên từ tiền lương và các khoản tiền thưởng, các khoản phụ
cấp, trợ cấp có tính chất luong và các khoản tiền thưởng trước khi trừ các khoản giảm
trừ trong kỳ báo cáo.
3.4.Tình hình tăng giảm vốn chủ sở hữu: phản ánh tổng số tăng giảm các
nguồn vốn chủ sở hữu trong kỳ báo cáo như nguồn vốn kinh doanh, quỹ đầu tư phát
triển, quỹ dự phòng tài chính...theo từng loại nguồn vốn và theo từng nguồn cấp như
ngân sách cấp, chủ sở hữu góp, nhận vốn góp liên doanh...và lý do tăng giảm chủ
yếu.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
15
3.5. Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào đơn vị khác: phản ánh tổng
số tăng, giảm, kết quả các khoản đầu tư vào đơn vị khác theo từng loại đầu tư trong
kỳ báo cáo như đầu tư chứng khoán, góp vốn liên doanh ngắn hạn, dài hạn...và lý do
tăng giảm chủ yếu.
3.6. Các khoản phải thu và nợ phải trả: phản ánh tình hình tăng giảm các
khoản phải thu và nợ phải trả, các khoản đã quá hạn thanh toán, đang tranh chấp hoặc
mất khả năng thanh toán trong kỳ báo cáo theo từng đối tượng cụ thể và lý do chủ
yếu.
+ Chỉ tiêu 4: “Giải thích và thuyết minh một số tình hình và kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh”.
+ Chỉ tiêu 5: “Phương pháp lập một số chỉ tiêu đánh giá khái quát thực trạng
tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ” bao gồm:
- Bố trí cơ cấu tài sản và nguồn vốn.
- Khả năng thanh toán.
- Tỷ suất sinh lời.
+ Chỉ tiêu 6: “ Đánh giá tổng quát các chỉ tiêu”. Đây là phần doanh nghiệp tự
đánh giá khái quát tình hình thực hiện các chỉ tiêu trong kỳ báo cáo của mình cùng
những khó khăn, thuận lợi mà doanh nghiệp gặp phải trong kỳ báo cáo.
+ Chỉ tiêu 7: “ Các kiến nghị”
Doanh nghiệp đề xuất các kiến nghị với các cơ quan hữu quan về các vấn đề
liên quan đến chế độ, chính sách...trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tác dụng của việc phân tích” Thuyết minh báo cáo tài chính”
Phân tích thuyết minh báo cáo tài chính sẽ cung cấp bổ sung những thông tin
chi tiết, cụ thể hơn về một số tình hình liên quan đến hoạt động kinh doanh trong kỳ
của doanh nghiệp. Cụ thể:
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
16
+ Phân tích chỉ tiêu “Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố” sẽ cho ta biết
tình hình biến động của chi phí trong kỳ theo từng yếu tố chi phí: nguyên vật liệu,
nhân công, khấu hao.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm tài sản cố định” sẽ cho ta biết
được tình hình biến động của tài sản cố định trong kỳ theo từng loại. Qua đó, đánh
giá được tình hình đầu tư, trang bị tài sản cố định của doanh nghiệp và xây dựng
được kế hoạch đầu tư.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình thu nhập của công nhân viên” sẽ giúp ta có
những đánh giá chính xác hơn về sự phát triển của doanh nghiệp bởi vì không thể nói
một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả nếu thu nhập của người lao đông có xu
hướng giảm theo thời gian và thấp so với mặt bằng chung được. Thu nhập của công
nhân viên phải gắn liền với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Phân tích chỉ tiêu: “Tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu” để thấy
được tình hình biến động của tổng số nguồn vốn chủ sở hữu cũng như từng loại
nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Qua đó, đánh giá được tính hợp lý của việc
hình thành và sử dụng từng nguồn vốn chủ sở hữu.
+ Phân tích “Tình hình tăng giảm các khoản đầu tư vào các đơn vị khác” để
nắm được tình hình đầu tư và hiệu quả đầu tư vào các đơn vị khác.
+ Phân tích chỉ tiêu “Các khoản phải thu và nợ phải trả” sẽ nắm được tình
hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản nợ phải trả trong kỳ của doanh
nghiệp.
Tình hình thanh toán các khoản phải thu và các khoản phải trả là một trong
những chỉ tiêu phản ánh khá sát thực chất lượng hoạt động tài chính. Nếu hoạt động
tài chính tốt, lành mạnh doanh nghiệp sẽ thanh toán kịp thời các khoản nợ phải trả
cũng như thu kịp thời các khoản nợ phải thu, tránh được tình trạng chiếm dụng vốn
lẫn nhau cũng như tình trạng công nợ dây dưa kéo dài, tình trạng tranh chấp, mất khả
năng thanh toán.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
17
+ Phân tích các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận sẽ phản ánh hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Các tỷ suất lợi nhuận càng lớn so với trước thì chứng
tỏ hiệu quả kinh doanh càng tăng.
5. Các bước và trình tự tiến hành phân tích tài chính
5.1. Các bước tiến hành phân tích tài chính
5. 1.1. Thu t hập thông tin
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết
minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán tài
chính. Nó bao gồm cả những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, những
thông tin kế toán và những thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá
trị...trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính
doanh nghiệp, là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân tích tài
chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
5. 1.2. Xử lý thông tin
Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu
thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu,
ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu
phân tích đã đặt ra : Xử lý thông tin là quá trình xắp xếp các thông tin theo những
mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên
nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
5. 1.3. Dự đ oán và qu yết định
Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần
thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra những quyết định tài
chính. Có thể nói mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài chính.
Đối với chủ doanh nghiệp, phân tích tài chính nhằm đưa ra những quyết định liên
quan đến mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá
lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
18
5.2.Trình tự phân tích tài chính
Trình tự tiến hành phân tích tài chính tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích ứng
với từng giai đoạn dự đoán tài chính theo sơ đồ sau :
Giai đoạn dự đoán Nghiệp vụ phân tích
Chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin
- Thông tin kế toán nội bộ
- Thông tin khác từ bên ngoài
áp dụng các công cụ phân tích
- Xử lý thông tin kế toán
- Tính toán các chỉ số
- Tập hợp các bảng biểu
Xác định các biểu hiện đặc trưng Giải thích và đánh giá các chỉ số,
bảng biểu
- Biểu hiện hoặc hội chứng khó khăn
- Điểm mạnh và điểm yếu
- Cân bằng tài chính
- Năng lực hoạt động tài chính
- Cơ cấu vốn và chi phí vốn
- Cơ cấu đầu tư và doanh lợi
Phân tích thuyết minh
- Nguyên nhân khó khăn
- Phương tiện thành công và điều kiện bất lợi
Tổng hợp quan sát
Tiên lượng và chỉ dẫn
Xác định :
- Hướng phát triển
- Giải pháp tài chính hoặc GP khác
Tuy nhiên, trình tự phân tích và một số tiểu tiết cũng có thể thay đổi hoặc bỏ
qua một số bước tuỳ thuộc vào từng điều kiện của từng doanh nghiệp.
6. Các phương pháp phân tích tài chính
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
19
Để nắm được một cách đầy đủ thực trạng tài chính cũng như tình hình sử
dụng tài sản của doanh nghiệp, cần thiết phải đi sâu xem xét các mối quan hệ và tình
hình biến động của các khoản mục trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo
tài chính với nhau.
Việc phân tích báo cáo tài chính thường được tiến hành bằng hai phương
pháp: phương pháp phân tích ngang và phương pháp phân tích dọc báo cáo tài chính.
Phân tích ngang báo cáo tài chính là việc so sánh đối chiếu tình hình biến
động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu của từng báo cáo tài chính,
còn phân tích dọc là việc sử dụng các quan hệ tỷ lệ, các hệ số thể hiện mối tương
quan giữa các chỉ tiêu trong từng báo cáo tài chính và giữa các báo cáo tài chính với
nhau để rút ra kết luận.
Cụ thể, trong thực tế người ta thường sử dụng các phương pháp sau:
6.1. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến nhất và là phương pháp chủ yếu
trong phân tích tài chính để đánh kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến đổi của chỉ
tiêu phân tích.
Có nhiều phương thức so sánh và sử dụng phương thức nào là tuỳ thuộc vào
mục đích và yêu cầu của việc phân tích.
+ So sánh chỉ tiêu thực tế với các chỉ tiêu kế hoạch, dự kiến hoặc định mức.
Đây là phương thức quan trọng nhất để đánh giá mức độ thực hiện chỉ tiêu kế hoạch,
định mức và kiểm tra tính có căn cứ của nhiệm vụ kế hoạch được đề ra.
+ So sánh chỉ tiêu thực hiện giữa các kỳ trong năm và giữa các năm cho thấy
sự biến đổi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ So sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp với các chỉ tiêu tương ứng của
doanh nghiệp cùng loại hoặc của doanh nghiệp cạnh tranh.
+ So sánh các thông số kinh tế- kỹ thuật của các phương án sản xuất kinh
doanh khác nhau của doanh nghiệp.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
20
Để áp dụng phương pháp so sánh cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so
sánh được của các chỉ tiêu:
+ Khi so sánh các chỉ tiêu số lượng phải thống nhất về mặt chất lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu chất lượng phải thống nhất về mặt số lượng.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu tổng hợp, phức tạp phải thống nhất về nội dung, cơ
cấu của các chỉ tiêu.
+ Khi so sánh các chỉ tiêu hiện vật khác nhau phải tính ra các chỉ tiêu này
bằng những đơn vị tính đổi nhất định.
+ Khi không so sánh được bằng các chỉ tiêu tuyệt đối thì có thể so sánh bằng
các chỉ tiêu tương đôí. Bởi vì, trong thực tế phân tích, có một số trường hợp, việc so
sánh các chỉ tiêu tuyệt đối không thể thực hiện được hoặc không mang một ý nghĩa
kinh tế nào cả, nhưng nếu so sánh bằng các chỉ tiêu tương đối thì hoàn toàn cho phép
và phản ánh đầy đủ, đúng đắn hiện tượng nghiên cứu.
Trong phân tích so sánh có thể sử dụng số bình quân, số tuyệt đối và số tương
đối.
Số bình quân phản ánh mặt chung nhất của hiện tượng, bỏ qua sự phát triển
không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng đó, hay nói cách khác, số bình
quân đã san bằng mọi chênh lệch về trị số của các chỉ tiêu...Số bình quân có thể biểu
thị dưới dạng số tuyệt đối hoặc dưới dạng số tương đối( tỷ suất). Khi so sánh bằng số
bình quân sẽ thấy mức độ đạt được so với bình quân chung của tổng thể, của ngành,
xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật.
Phân tích bằng số tuyệt đối cho thấy rõ khối lượng, quy mô của hiện tượng
kinh tế. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản ánh, cách tính
toán xác định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường.
Sử dụng số tương đối để so sánh có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu của
hiện tượng kinh tế, đặc biệt có thể liên kết các chỉ tiêu không giống nhau để phân tích
so sánh. Tuy nhiên số tương đối không phản ánh được thực chất bên trong cũng như
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
21
quy mô của hiện kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp khi so sánh cần kết hợp
đồng thời cả số tuyệt đối và số tương đối.
6.2. Phương pháp tỷ số
Phương pháp này dựa trên các ý nghĩa chuẩn mực các tỷ lệ của đại lượng tài
chính trong các quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp này yêu cầu phải xác
định được các ngưỡng, các định mức để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh
nghiệp, trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị các tỷ lệ tham chiếu.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện được áp dụng
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Vì:
- Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy đủ hơn
là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy nhằm đánh giá một tỷ lệ của một
doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp.
- Việc áp dụng tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình
tính toán hàng loạt các tỷ lệ.
- Phương pháp này giúp các nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số
liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc
theo từng giai đoạn.
6.3. Phương pháp Dupont
Dupont là tên của một nhà quản trị tài chính người Pháp tham gia kinh doanh
ở Mỹ.Dupont đã chỉ ra được mối quan hệ tương hỗ giữa các chỉ số hoạt động trên
phương diện chi phí và các chỉ số hiệu quả sử dụng vốn.
Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn
đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương
pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu
nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số
của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích
ảnh hưởng của các tỷ số đối với các tỷ số tổng hợp.
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
22
Trước hết ta xem xét mối quan hệ tương tác giữa tỷ số doanh lợi vốn chủ sở
hữu (ROE) với tỷ số doanh lợi tài sản (ROA)
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Lợi nhuận sau thuế
ROA = x = (1)
Doanh thu Tổng tài sản Tổng tài sản
Tỷ ROA cho thấy tỷ suất sinh lợi của tài sản phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Thu nhập ròng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu
- Một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu
Tiếp theo, ta xem xét tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp (ROE):
Lợi nhuận sau thuế
ROE =
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu.
Nếu tài sản của doanh nghiệp chỉ được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và
doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bằng nhau vì khi đó tổng tài sản = tổng nguồn vốn.
Lợi nhuận sau thuế Lợi nhuận sau thuế
ROA = = = ROE(2)
Tổng tài sản Vốn chủ sở hữu
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
23
Nếu doanh nghiệp sử dụng nợ để tài trợ cho các tài sản của mình thì ta có mối liên
hệ giữa ROA và ROE:
Tổng tài sản
ROE = x ROA (3)
Vốn chủ sở hữu
Kết hợp (1) & (3) ta có:
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Tổng tài sản
ROE = x x
Doanh thu Tổng tài sản Vốn CSH
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu Tổng tài sản
= x x
Doanh thu Tổng tài sản Tổng tài sản – Nợ
Lợi nhuận sau thuế Doanh thu 1
= x x
Doanh thu Tổng tài sản 1- Rd
Với Rd = Nợ / Tổng tài sản là hệ số nợ và phương trình này gọi là phương trình
Dupont mở rộng thể hiện sự phụ thuộc của doanh lợi vốn chủ sở hữu vào doanh lợi
tiêu thụ, vòng quay toàn bộ vốn và hệ số nợ.
Từ đây ta thấy sử dụng nợ có tác dụng khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu
nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ, hệ số nợ càng lớn thì lợi nhuận càng cao và
ngược lại, nếu doanh nghiệp đang bị lỗ thì sử dụng nợ càng tăng số lỗ.
Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn là giúp nhà phân tích phát hiện
và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp. Nếu doanh lợi vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp thấp hơn các doanh nghiệp khác trong cùng ngành thì nhà phân tích có
thể dựa vào hệ thống các chỉ tiêu theo phương pháp phân tích Dupont để tìm ra
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
24
nguyên nhân chính xác. Ngoài việc được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp
khác trong cùng ngành, các chỉ tiêu đó có thể được dùng để xác định xu hướng hoạt
động của doanh nghiệp trong một thời kỳ, từ đó phát hiện ra những khó khăn doanh
nghiệp có thể sẽ gặp phải. Nhà phân tích nếu biết kết hợp phương pháp phân tích tỷ
lệ và phương pháp phân tích Dupont sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân tích tài
chính doanh nghiệp.
Ngoài các phương pháp phân tích chủ yếu trên, người ta còn sử dụng một số
phương pháp khác: phương pháp đồ thị, phương pháp biểu đồ, phương pháp toán tài
chính,... kể cả phương pháp phân tích các tình huống giả định.
Trong quá trình phân tích tổng thể thì việc áp dụng linh hoạt, xen kẽ các
phương pháp sẽ đem lại kết quả cao hơn khi phân tích đơn thuần, vì trong phân tích
tài chính kết quả mà mỗi chỉ tiêu đem lại chỉ thực sự có ý nghĩa khi xem xét nó trong
mối quan hệ với các chỉ tiêu khác. Do vậy, phương pháp phân tích hữu hiệu cần đi từ
tổng quát đánh giá chung cho đến các phần chi tiết, hay nói cách khác là lúc đầu ta
nhìn nhận tình hình tài chính trên một bình diện rộng, sau đó đi vào phân tích đánh
giá các chỉ số tổng quát về tình hình tài chính và để hiểu rõ hơn ta sẽ phân tích các
chỉ tiêu tài chính đặc trưng của doanh nghiệp, so sánh với những năm trước đó, đồng
thời so sánh với tỷ lệ tham chiếu để cho thấy được xu hướng biến động cũng như khả
năng hoạt động của doanh nghiệp so với mức trung bình ngành ra sao.
II. NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1. Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính
Phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình hình tài chính là nội dung phân
tích mà đồ án sử dụng . Vì vậy, nội dung phân tích khái quát và phân tích chi tiết tình
hình tài chính, không được nêu chi tiết ở phần này mà đựơc trình bày chi tiết ở phần
sau ( Chương 2).
1.1. Phân tích khái quát tình hình tài chính
Để đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp, trước tiên phải so
sánh tổng tài sản và tổng nguồn vốn giữa kì và đầu năm. Qua so sánh, có thể thấy
được sự thay đổi quy mô vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong kỳ cũng như khả năng
Võ Thị Thu Giang Lớp: TCDN_K21
25