Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Truyền thông về di sản thế giới ở việt nam qua báo chí đối ngoại (trường hợp quần thể danh thắng tràng an, ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 60 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH

<b>TRUYỀN THƠNG VỀ DI SẢN THẾ GIỚI Ở VIỆT NAMQUA BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI</b>

<b>(TRƯỜNG HỢP QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN, NINH BÌNH)</b>

LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: Xã hội và Nhân văn CHUYÊN NGÀNH: Văn hóa – nghệ thuật

Mã số cơng trình:...

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>MỞ ĐẦU...3</b>

<b>Chương 1: LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THƠNG DI SẢN, BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠIVÀ KHÁI QUÁT QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN, NINH BÌNH...7</b>

<b>1.1. Lý luận về truyền thông di sản...7</b>

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản...7

1.1.2. Nguyên tắc truyền thông di sản qua kênh báo chí đối ngoại...13

<b>1.2. Khái quát quần thể di sản danh thắng Tràng An...17</b>

1.2.1. Đặc điểm quần thể di sản...17

1.2.2. Q trình hình thành và cơng nhận di sản thế giới quần thể di sản...18

1.2.3. Giá trị nổi bật của quần thể di sản...23

<b>1.3. Vai trị của truyền thơng di sản...26</b>

<b>Tiểu kết chương 1...28</b>

<b>Chương 2: TRUYỀN THÔNG DI SẢN QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNGAN QUA BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI...29</b>

<b>2.1. Giới thiệu chủ thể truyền thơng...29</b>

2.1.1. Kênh truyền hình đối ngoại VTV4...29

2.1.2. Báo mạng điện tử Vietnamplus...30

<b>2.2. Thực trạng về truyền thông di sản quần thể danh thắng Tràng An trênkênh truyền hình đối ngoại VTV4 và Báo điện tử Vietnamplus...31</b>

2.2.1. Trên kênh truyền hình đối ngoại VTV4...31

2.2.2. Trên báo mạng điện tử Vietnamplus...33

<b>2.3. Nội dung truyền thông di sản quần thể danh thắng Tràng An qua báo chíđối ngoại...34</b>

2.3.1. Kênh truyền hình đối ngoại VTV4...35

2.3.2. Báo mạng điện tử Vietnamplus...38

<b>2.4. Đánh giá hoạt động truyền thông di sản qua báo chí đối ngoại...39</b>

2.4.1. Mặt tích cực...39

2.4.2. Mặt hạn chế...41

<b>Tiểu kết chương 2...42</b>

<b>Chương 3: GÓC NHÌN CỦA SINH VIÊN NGÀNH VĂN HOÁ TRUYỀNTHÔNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÀM TRUYỀN THÔNGCỦA BẢN THÂN TRONG TƯƠNG LAI...43</b>

<b>3.1. Các yếu tố tác động đến truyền thơng di sản qua báo chí đối ngoại quagóc nhìn của sinh viên ngành văn hố truyền thơng...43</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

3.1.1. Xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế...43

3.1.2. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông mới...44

3.1.3. Nhu cầu thông tin của công chúng nước ngồi...46

3.1.4. Quan điểm của Đảng và Chính Phủ về thông tin đối ngoại...47

<b>3.2. Giải pháp nâng cao năng lực làm truyền thông củabản thân trong tương lai...48</b>

3.2.1. Xây dựng năng lực chuyên môn ngành truyền thông thông qua tuyên truyền, tập huấn...49

3.2.2. Xây dựng năng lực chuyên môn ngành truyền thông thông qua học tập, lắng nghe từ những người cùng chuyên môn...50

3.2.3. Xây dựng năng lực chuyên môn ngành truyền thông thông qua áp dụng công nghệ hiện đại...51

3.2.4. Xây dựng năng lực chuyên môn ngành truyền thông thông qua rèn luyện kỹ năng tư duy, sáng tạo...51

<b>Tiểu kết chương 3...52</b>

<b>KẾT LUẬN...53</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...54</b>

<b>PHỤ LỤC...56</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài</b>

Hiện nay, truyền thông đã và đang trở thành một trong những lĩnh vực có vai trị quan trọng trong phát triển hình ảnh, thương hiệu của mỗi quốc gia. Truyền thơng khơng chỉ là phương tiện quảng bá hình ảnh thương hiệu, thu hút cơng chúng trong và ngồi nước biết đến nhiều hơn, rõ nét hơn về giá trị của di sản thế giới, mà nó cịn là “địn bẩy” cho sự hợp tác và giao lưu quốc tế, góp phần khẳng định sức mạnh và vị trí của mỗi quốc gia. Chính vì sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp truyền thông, rất nhiều các quốc gia đã liên tục mạnh tay đầu tư cho truyền thông để nhằm phát triển hình ảnh, thương hiệu di sản văn hóa cho chính quốc gia của mình.

Trong thời kỳ nền kinh tế mở cửa và hội nhập sâu rộng, truyền thơng chính là cầu nối giữa nền văn hóa - kinh tế - chính trị giữa các quốc gia… Nhưng điều này đồng thời sẽ tạo ra những thách thức, sự cạnh tranh về sản phẩm, về nhân lực, giá cả, đầu tư. Vì vậy mỗi quốc gia, mỗi địa điểm di sản thế giới cần xây dựng “thương hiệu” cho riêng mình, nghĩa là tạo ra những điểm khác biệt, vượt trội hơn các địa điểm khác. Chính vì vậy, bài toán về xây dựng “thương hiệu di sản” thông qua các kênh truyền thông sẽ cần phải được đề ra và cần phải có những phương pháp phù hợp để phát triển. Truyền thơng hình ảnh di sản được thực hiện thông qua nhiều phương thức và phương tiện khác nhau, trong đó có báo chí đối ngoại.

Với thế mạnh của mình, quần thể di sản thế giới Tràng An - Ninh Bình chứa đựng những yếu tố quan trọng, trở thành một di sản được nhiều du khách biết đến. Đây là một trong những biểu tượng của du lịch Việt Nam, có sức ảnh hưởng mạnh mẽ trong khu vực Đông Nam Á và thế giới. Năm 2014, nơi đây được UNESCO công nhận là di sản thế giới kép và được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng, mang đầy đủ các giá trị về địa chất - địa mạo, lịch sử - văn hóa, tâm linh… Ngồi ra, Tràng An (Ninh Bình) cịn là điểm kết nối với các khu vực du lịch di sản lân cận khác: Hà Nội, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An,... Tuy nhiên, thực tế hiện nay, di sản thế giới Tràng An vẫn chưa phát triển xứng đáng với tiềm năng vốn có của mình. Rất nhiều khách du lịch quốc tế còn chưa hiểu hoặc chưa biết đến về quần thể danh thắng Tràng An. Cơ sở thông tin đối ngoại cịn nhiều rời rạc, chưa có tính cụ thể hay xác thực, khó tiếp cận với cơng chúng một cách hiệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

quả. Có thể nói, hoạt động truyền thông về di sản Tràng An đang đứng trước rất nhiều những thách thức đòi hỏi các tổ chức liên quan phải nỗ lực để phát huy hiệu quả những tiềm năng và lợi thế của một di sản thế giới.

Xuất phát từ thực tiễn thiết thực và tính cấp bách của vấn đề, chúng em đã lựa chọn đề tài: “Truyền thông di sản thế giới ở Việt Nam qua báo chí đối ngoại (trường hợp di sản Thế giới Quần thể Danh thắng Tràng An - Ninh Bình)” nhằm tìm hiểu được cách thức truyền thơng di sản thế giới qua kênh đối ngoại và qua đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho q trình làm truyền thơng trong tương lai cho bản thân.

<b>2. Tình hình nghiên cứu</b>

Trong thời kỳ hội nhập, việc truyền thơng thương hiệu di sản văn hóa Thế giới, cụ thể là Quần thể Danh thắng Tràng An tới Quốc tế là một việc làm ý nghĩa, khẳng định được vị trí của Việt Nam trong con mắt bạn bè Quốc tế. Mới được đưa vào danh sách di sản Thế giới năm 2014, những vấn đề truyền thông thương hiệu Quần thể Danh thắng Tràng An chưa được nổi bật và chú trọng nhiều qua các kênh truyền thông đối ngoại. Tuy nhiên, trong giới học thuật và tạp chí chun ngành của nước ngồi cũng đã có sự quan tâm và xây dựng nhiều bài nghiên cứu, chia sẻ về di sản này.

Một số cơng trình tiêu biểu phải kể đến:

+ Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến di sản Thế giới ở Việt Nam: Sách Di sản thế giới ở Việt Nam của Tổng cục Du lịch (Trung tâm du lịch) do NXB Thanh Niên phát hành, Tri thức Bách Khoa: Các nền văn minh và di sản Thế giới của Lê Quang, Di sản Thế giới ở Việt Nam của Trần Mạnh Thường, Việt Nam với những di sản Thế giới của Kim Nguyễn, Di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu tỉnh Ninh Bình của Nguyễn Mạnh Cường, Sách Việt Nam với những di sản thế giới NXB Hồng Đức, Phát triển bền vững du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới- quần thể danh thắng Tràng An của Tiến sĩ Bùi Thành Đông (Trong Kỷ yếu hội thảo khoa học “Văn hóa và con người Ninh Bình trong phát triển bền vững”)

+ Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến báo chí đối ngoại: Giáo trình Truyền thơng đối ngoại của Lê Thanh Bình, Truyền thơng Quốc tế của Đinh Ngọc Dũng, Tổng quan truyền thông Quốc tế: Dành cho người làm công tác thông tin đối

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

ngoại của Lê Thanh Bình, Thơng tin đối ngoại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của Phạm Minh Sơn, Giáo trình Tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại và truyền thơng quốc tế của tác giả Nguyễn Ngọc Oanh, Nguyễn Thị Thương Huyền. Đây là những cơng trình nghiên cứu khai thác thơng tin về báo chí đối ngoại và truyền thơng đối ngoại, thơng qua những cơng trình nghiên cứu trên đề tài nghiên cứu sẽ chính xác và có tính xác thực hơn.

<b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</b>

<i><b>3.1. Mục đích</b></i>

Đề tài được nghiên cứu hoạt động truyền thông di sản thế giới – quần thể danh thắng Tràng An trên các kênh truyền thông đối ngoại. Thông qua việc phân tích thực trạng hoạt động truyền thơng di sản trên Kênh truyền hình đối ngoại VTV4 và Báo mạng điện tử Vietnamplus đưa ra được một số giải pháp cho bản thân trong quá trình tiếp cận với ngành truyền thông trong tương lai.

<i><b>3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu</b></i>

- Hệ thống hóa lý luận về truyền thơng di sản

- Phân tích thực trạng hoạt động truyền thơng di sản quần thể danh thắng Tràng An qua báo chí đối ngoại

- Đưa ra những định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quảng bá thương hiệu di sản Thế giới Quần thể Danh thắng Tràng An (Ninh Bình) qua báo chí

- Phạm vi về thời gian khảo sát: các kênh, tờ báo trong diện khảo sát, phát sóng, đăng tải từ Tháng 06. 2014 cho đến thời điểm hiện nay tháng 11.2021.

<b>5. Phương pháp nghiên cứu</b>

Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp tập hợp, sưu tầm, đánh giá, phân tích tài liệu: dựa trên sách, báo, báo điện tử, tạp chí điện tử, internet, mạng xã hội, các bài viết có liên quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

nhằm tìm hiểu về hoạt động truyền thông di sản tại các di sản thế giới ở Việt Nam (cụ thể là ở quần thể danh thắng Tràng An - Ninh Bình).

- Phương pháp đối chiếu, so sánh: So sánh, đối chiếu hoạt động và hiệu quả hoạt động truyền thông di sản Tràng An với một số di sản thế giới khác ở Việt Nam.

- Phương pháp phỏng vấn, khảo sát: Để có được những nhận định khách quan và hiểu biết sâu sắc về truyền thông đối ngoại di sản thiên nhiên thế giới, cụ thể là trường hợp Quần thể Danh thắng Tràng An, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn, khảo sát ngay tại sinh viên ngành văn hóa truyền thơng và ngành văn hóa đối ngoại tại Khoa Văn hóa học - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội để có thêm thơng tin tồn diện cho đề tài.

<b>6. Ý nghĩa của đề tài</b>

Điều tra, khảo sát để có cái nhìn tổng qt về các vấn đề cũng như hiệu quả đạt được từ truyền thông thương hiệu di sản Quần thể danh thắng Tràng An thông qua các phương tiện đại chúng quốc tế. Trên cơ sở đó đề ra những định hướng cụ thể, giải pháp tối ưu nhằm phát triển mạnh mẽ tiềm lực truyền thơng của bản thân.

<b>7. Bố cục của đề tài</b>

Ngồi các phần mở đầu, kết luận và phần tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của đề tại được chia làm 3 chương:

Chương 1: Lý luận về truyền thơng di sản, báo chí đối ngoại và khái qt Quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình

Chương 2: Truyền thông di sản Quần thể danh thắng Tràng An trên kênh báo chí đối ngoại

Chương 3: Góc nhìn của sinh viên ngành văn hố truyền thơng và giải pháp nâng cao năng lực làm truyền thông của bản thân trong tương lai.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>Chương 1</b>

<b>LÝ LUẬN VỀ TRUYỀN THƠNG DI SẢN, BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI VÀ KHÁI QT QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN, NINH BÌNH1.1. Lý luận về truyền thông di sản</b>

<i><b>1.1.1. Một số khái niệm cơ bản </b></i>

<i>1.1.1.1. Khái niệm di sản</i>

Theo Y. Ahmad (2006), hiện nay có khơng dưới 40 văn bản mang tính quốc tế và quốc gia liên quan đến vấn đề di sản và bảo tồn di sản chủ yếu do UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc) và ICOSMOS (Hội đồng di tích và di chỉ Quốc tế) ban hành. Trong các văn bản này, người ta mới quan tâm đến các di sản văn hóa, ít quan tâm đến các loại hình di sản khác bao gồm di sản tự nhiên. Vì vậy một định nghĩa chung về di sản chưa được thể hiện rõ. Theo Y. Ahmad (2006), UNESCO và ICOSMOS hiểu khái niệm di sản từ Hiến chương Venice khác nhau vào những năm 1960. UNESCO định nghĩa di sản là các tài sản văn hóa trong khi ICOSMOS lại định nghĩa di sản là các di tích và các di chỉ. Khái niệm này được thống nhất hơn trong Công ước của UNESCO năm 1972 về bảo tồn các di sản văn hóa và tự nhiên. Trong các văn bản trên, người ta có thể hiểu di sản bao gồm những loại hình nào nhưng chưa có một định nghĩa rõ ràng nào về di sản. Hiệp hội Lý luận về Di sản Quốc gia, Hội đồng thuật ngữ Quebec (1980) đã định nghĩa “di sản là các tác phẩm hoặc sản phẩm kết hợp giữa tự nhiên và con người, ở trạng thái ngun vẹn của nó, tạo nên mơi trường mà con người sinh sống theo không gian và thời gian. Di sản là một thực thể, sở hữu của cộng đồng, và có giá trị kế thừa mà chúng ta cần phải thừa nhận và tham gia bảo tồn chúng”. Tuy nhiên, trong Bản Hiến chương về Bảo tồn di sản ở Quebec do ICOSMOS Canada ban hành năm 1982 lại cho rằng di sản là một thuật ngữ bao gồm nhiều khái niệm (a comprehensive term) trong đó có 3 thực thể chính: văn hố vật chất (tài sản văn hố), mơi trường địa lý và mơi trường nhân văn. Văn hóa vật chất hay tài sản văn hóa khơng chỉ bao gồm các kiến trúc thơng thường và phổ biến mà cịn bao gồm tất cả các bằng chứng vật chất như các hiện vật khảo cổ và dân tộc học, hình tượng, tài liệu lịch sử; đồ trang trí, nghệ thuật hay nói tóm lại là mơi trường vật chất xung quanh ta. Môi trường địa lý, như bờ biển tự nhiên, núi non, đồng bằng - cảnh quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

thiên nhiên có giá trị độc đáo về thẩm mỹ, đại diện; và mơi trường con người bao gồm các nhóm người có phong tục và truyền thống riêng, đặc biệt hoặc cách sống của họ thích nghi với điều kiện mơi trường cụ thể nào đó. Trong định nghĩa nảy, ICOSMOS đã bao hàm cả các môi trường tự nhiên có gắn với các hoạt động của con người hay cảnh quan văn hóa là kết quả tương tác giữa môi trường tự nhiên và con người.

<i>1.1.1.2. Di sản thế giới</i>

Khái niệm Di sản thế giới được đề cập chính thức trong Cơng ước về di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới năm 1972. Theo đó, di sản thế giới là những di sản văn hóa và di sản thiên nhiên có giá trị ngoại hạng và vì vậy cần được bảo tồn. Như vậy, di sản thế giới là di chỉ, di tích hay danh thắng của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố... do các nước có tham gia Cơng ước Di sản thế giới đề cử cho Ủy ban Di sản thế giới, được cơng nhận và quản lý bởi UNESCO. Sau đó UNESCO sẽ lập danh mục, đặt tên và bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di sản nhân loại chung. Những vị trí được đưa vào danh sách di sản thế giới có thể được nhận tiền từ Quỹ Di sản thế giới theo một số điều kiện nào đó. Ủy ban này được thành lập bởi Công ước về Bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, gọi tắt là Cơng ước Di sản thế giới, nó được Đại hội đồng UNESCO chấp nhận vào ngày 16 tháng 11 năm 1972. Trong hệ thống các danh hiệu của UNESCO, di sản thế giới chính là danh hiệu danh giá và lâu đời nhất.

<i>1.1.1.3. Truyền thông di sản</i>

+) Khái niệm về truyền thơng:

Thuật ngữ truyền thơng có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Commune” với nghĩa là “chung” hay “cộng đồng”. Theo đó: Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường, phương tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau giữa những cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng xã hội. Nhờ truyền thông - giao tiếp mà con người tự nhiên trở thành con người xã hội.

Truyền thông, truyền thông đại chúng hay phương tiện thông tin đại chúng là những thuật ngữ rất phổ biến trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển. Nó có vai trị của thơng tin và có ý nghĩa to lớn trong một xã hội mở, sự hội nhập,

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tương tác, liên thông giữa lĩnh vực, các ngành, các mặt trong đời sống diễn ra rất đa dạng, phức tạp, chặt chẽ .

Truyền thông là một lĩnh vực rất rộng, các hoạt động của truyền thông bao gồm các hoạt động truyền đạt, thông báo, tuyên truyền, quảng bá thơng tin. Đó là q trình trao đổi thơng điệp giữa các thành viên hay các nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau, để từ đó chia sẻ ý tưởng hay hành động vì một mục đích nhất định.

Truyền thơng theo định nghĩa hẹp là “sự trao đổi tin tức hoặc thông báo”, còn nghĩa rộng, theo UNESCO là hoạt động của cá nhân hoặc tập thể bao gồm toàn bộ những chuyển giao và trao đổi ý niệm, sự việc, dữ kiện.

Xuất phát từ những hình thức truyền thơng đơn giản, rồi dần dần con người phát minh ra những hình thức truyền thông phức tạp và hiện đại hơn như truyền hình, Internet, vệ tinh nhân tạo... Và chính những phương tiện thơng tin hiện đại đó dần trở thành những công cụ không thể thiếu được để đảm bảo sự hoạt động ổn định của mỗi nền kinh tế cũng như mỗi chế độ xã hội.

Không những thế, truyền thông còn đáp ứng nhu cầu nhận thức của con người. Con người khơng chỉ nắm bắt được những gì liên quan giữa bản thân mình và cuộc sống phong phú xung quanh mà còn đánh giá được khả năng, xác định đúng cách thức, phương hướng cho những hành vi và hoạt động tiếp theo từ q trình truyền thơng.

Dẫu vậy, chúng ta cũng cần nhắc đến một khái niệm đó là “truyền thơng mới”. Truyền thơng với các di sản văn hóa là hai phạm trù song hành để tạo nên hiệu quả xã hội mà ở các nước phát triển người ta đã thực hành từ lâu. Theo đó, những giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể đã đến được với công chúng, với những nhà quản lý, khiến cho di sản phát huy được tác dụng, khắc phục được những bất cập, tránh được những nguy cơ hủy hoại di sản từ thiên nhiên và con người.

+) Khái niệm hoạt động truyền thông:

Hoạt động truyền thơng có vai trị quan trọng, phản ánh trung thực mọi hoạt động của đời sống xã hội đến công chúng và là cầu nối để công chúng tiếp nhận, phản hồi thông tin. Càng ngày, mức độ công khai của hoạt động truyền thông đến công chúng ngày càng được mở rộng. Ngoài những ấn phẩm như sách, báo, tờ gấp...

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

các phương tiện truyền thơng đại chúng khác như phát thanh, truyền hình, báo điện tử, báo in cùng với các hội nghị, hội thảo đã và đang góp phần thúc đẩy hoạt động truyền thơng mạnh mẽ.

Hoạt động truyền thơng có thể tác động vào ý thức xã hội để xác lập và củng cố hệ thống tư tưởng chính trị thống nhất, qua đó, liên kết các thành viên rời rạc thành một khối đoàn kết. Trong định hướng dư luận xã hội, việc lựa chọn góc độ thơng tin và hàm lượng thơng tin phân tích và bình luận trong mỗi sản phẩm truyền thơng có ý nghĩa quan trọng. Với mỗi sự kiện, vấn đề, khi được hoạt động truyền thông đề cập cấp đến sẽ tạo ra sự ảnh hưởng tới dư luận xã hội về sự kiện, vấn đề đó.

+) Khái niệm về truyền thơng di sản:

Hiện nay, chưa có nhiều tài liệu thực tế và chuẩn xác về truyền thông di sản. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu là truyền thơng di sản là các hoạt động tuyên truyền, quảng bá những hình ảnh và thông tin về các giá trị quý báu của di sản thế giới, di sản văn hóa, di sản thiên nhiên thế giới hay di sản hỗn hợp thông qua các phương tiện đại chúng.

<i>1.1.1.4. Báo chí đối ngoại</i>

+) Truyền thông đối ngoại:

Trước hết cần phân biệt rõ giữa truyền thông đối ngoại và truyền thông quốc tế. Tác giả Lê Thanh Bình đã định nghĩa về truyền thơng quốc tế như sau:

<i><b>Truyền thông quốc tế là hoạt động truyền thông giữa các quốc gia chủ yếu</b></i>

bằng các phương tiện thông tin đại chúng do sự tác nghiệp của các nhà báo quốc tế chuyên nghiệp/nhà truyền thông quốc tế. Trên thực tế, truyền thông quốc tế gắn với nhiều chủ thể chuyên nghiệp như nhà báo quốc tế, nhà truyền thông quốc tế; gắn với các chủ đề, các vấn đề quốc tế; gắn với công chúng quốc tế rộng lớn, phương tiện, chuẩn mực của báo chí truyền thơng mang tính phổ biến, quốc tế…

<i><b>Truyền thơng đối ngoại: Trên thực tế chưa có khái niệm chuẩn xác về truyền</b></i>

thơng đối ngoại nên khái niệm này có thể hiểu là truyền thông và đối ngoại là hoạt động truyền thơng quảng bá hình ảnh quốc gia, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam; chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước Việt Nam ra thế giới, thế giới vào Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

+) Báo chí:

Luật Báo chí 2016 đã nêu rõ: Báo chí là sản phẩm thơng tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.

Trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí do tác giả Tạ Ngọc Tấn làm chủ biên đã đưa khái niệm về báo chí như sau:

<i>Báo chí là hiện tượng đa nghĩa, gắn bó chặt chẽ với các thành tố của kiếntrúc thượng tầng. Báo chí là một loại hình hoạt động nghề nghiệp sáng tạo, với tínhchất chính trị - xã hội rõ ràng. Hoạt động báo chí bao hàm trong đó sự vận hànhphức tạp của một loạt nghề nghiệp, quan hệ với nhau bằng quy luật vận động nộitại của cả hệ thống và bằng hiệu quả xã hội có tính mục đích</i>

Theo tác giả Nguyễn Văn Dững:

<i>Báo chí truyền thơng là hoạt động thơng tin - giao tiếp xã hội trên quy môlớn nhất, là công cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là công cụ vàphương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong mối quan hệ với công chúng vàdư luận xã hội, với nhân dân và bới các nhóm lợi ích, với các nước trong khu vựcvà quốc tế…</i>

Từ những khái niệm trên, theo tác giả, báo chí có thể hiểu như sau: Báo chí là phương tiện truyền thông đại chúng nhằm truyền tải thông tin của mọi mặt đời sống xã hội tới đông đảo quần chúng nhân dân.

+) Báo chí đối ngoại:

Tại Điều 3, Thông tư số 03/2019/TT-BTTTT ngày 06/5/2029 về việc quy định đăng, phát nội dung thông tin đối ngoại trên báo chí nêu rõ:

<i>Báo chí đối ngoại là báo in, báo điện tử, kênh phát thanh, truyền thông đốingoại được thủ tướng phê duyệt tại Các quy hoạch báo chí đối ngoại</i>

Đối ngoại là quảng bá hình ảnh quốc gia, đất nước, con người, lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam; chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước Việt Nam ra thế giới, thế giới vào Việt Nam.

Trong quyết định phê duyệt Quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 ngày 13/12/2016 của Thủ tướng Chính phủ đã nêu quan điểm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Báo chí đối ngoại là một trong những lực lượng quan trọng của công tác thông tin đối ngoại, là một bộ phận trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng, là nhiệm vụ thường xuyên lâu dài của cả hệ thống chính trị; tập trung xây dựng, phát triển lực lượng báo chí đối ngoại chuyên trách làm nòng cốt, phù hợp với sự phát triển của hệ thống báo chí nói chung.

<i>Ngun tắc đăng, phát nội dung đối ngoại trên báo chí tại Điều 5, Thơng tưsố 03/2019/TT-BTTTT ngày 06/5/2029 quy định rõ:</i>

Đăng, phát nội dung thơng tin đúng chủ trương, đường lối của Đảng,chính sách, pháp luật của Nhà nước, phù hợp với lợi ích của đất nước và nhân dân Việt Nam.

Không đăng, phát nội dung thông tin ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế, hình ảnh Việt Nam; gây phương hại đến mối quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế giữa Việt Nam và các nước; kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước.

<i>Như vậy, báo chí đối ngoại là sản phẩm thơng tin quảng bá hình ảnh quốcgia đất nước, con người, lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam; chủ trương, đường lốicủa Đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước Việt Nam thể hiện bằng chữ viết,hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định lỳ và phát hành, truyền dẫn rathế giới và từ thế giới vào Việt Nam.</i>

Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới những năm qua, báo chí đã thực sự trở thành một trong những phương tiện thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của nhà nước; phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; những bất cập, bức xúc trong xã hội; đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí và suy thối đạo đức, lối sống. Báo chí cũng đã góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống văn hóa đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của người dân.

Bên cạnh đó, báo chí nước ta trong q trình hội nhập, đổi mới đã góp phần nâng cao chất lượng thơng tin đối ngoại, góp phần quan trọng trong việc giới thiệu đất nước, văn hóa con người Việt Nam với bạn bè quốc tế; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng, đa phương hóa các quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà nước, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và mạng internet, các cơ quan báo chí, nhất là báo điện tử đều đang thực hiện nhiệm vụ thơng tin đối ngoại. Báo chí chun trách về thơng tin đối ngoại có vị trí nịng cốt.

<i><b>1.1.2. Ngun tắc truyền thơng di sản qua kênh báo chí đối ngoại</b></i>

Thời gian gần đây, truyền thơng ngày càng khẳng định vai trị của mình trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Di sản văn hóa cũng khơng nằm ngồi ảnh hưởng của hoạt động truyền thông này. Đặc biệt, trong quá trình hội nhập việc thúc đẩy, trao đổi thơng tin trong và ngồi nước là việc cấp thiết, chính vì vậy truyền thơng di sản qua kênh báo chí đối ngoại ngày càng đóng vai trị quan trọng.

Peter Howard là một nhà địa lý học tiếp cận với di sản từ các nghiên cứu về cảnh quan. Ông là biên tập viên của tạp chí quốc tế “Nghiên cứu di sản” (Heritage Studies). Ơng đã có nhiều năm giảng dạy về di sản tại Trường Đại học Plymouth. Hiện nay, ông đảm nhiệm việc nghiên cứu và giảng dạy tại một số viện nghiên cứu ở Vương quốc Anh. Các cơng trình đã xuất bản của ơng như: The Artists’ Vision (1991), European Heritage Planning and Management (1999), Heriatge: Mangement, Interpretation, Identity (2003).

Một trong những luận điểm Howard đưa ra là: “Có dấu hiệu về một lực lượng mới và quan trọng trong thị trường di sản được đại diện bởi truyền thông. Giới truyền thông, luôn quan tâm tới các vấn đề di sản và đã đưa tin rộng rãi về chúng, mặc dù việc đó được thực hiện tốt hay khơng đang cịn tranh cãi… Di sản là một sản phẩm trên thương trường và đó là một thị trường đơng đúc. Có ít nhất năm thành viên tham gia thị trường, bao gồm những chủ sở hữu, các cơ quan chính phủ và học giả cũng như khách du lịch và người trong cuộc, và truyền thông là thành viên thứ sáu… Quan hệ công chúng hay quản lý truyền thông do vậy là một khía cạnh lớn của cơng tác quản lý di sản thành cơng, bao gồm cả chính sách rõ ràng đối với những rủi ro mà giới truyền thông gây ra. Điều này nhanh chóng trở thành tiêu chí ảnh hưởng đến toàn bộ sự thành bại của các dự án. Chiến lược truyền thông do vậy cần phải được đặt ở trung tâm, và quả thực được đưa ra bàn luận bởi ban quản lý một dự án di sản đang hình thành, và sẽ cần tính đến yếu tố ‘đáng đưa tin’.

Để đáp ứng được điều này, cần nắm vững một số nguyên tắc dưới đây để truyền thông được đúng cách và đạt được hiệu quả:

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>1.1.2.1. Tính chính trị</i>

Mặc dù Việt Nam được coi là một đất nước giàu truyền thống, dầy lịch sử, nhiều di sản văn hóa, nhưng cơng tác truyền thơng đối ngoại gắn với di sản văn hóa chưa thực sự được coi trọng. Nguyên nhân của việc thiếu coi trọng ở đây là thuộc về hai phía. Chính vì vậy, phía người làm truyền thơng cần chủ động, tích cực tìm hiểu về di sản.

Hiện nay nhiều thành phần phá hoại đang len lỏi và một bộ phận người dân nhằm phá hủy những giá trị văn hóa tốt đẹp, làm cho ý thức người dân kém đi và thiếu ý thức về việc bảo vệ và phục dựng những giá trị văn hóa vốn có. Nhiệm vụ của người làm truyền thơng báo chí đối ngoại là phát huy, tuyên truyền, quảng bá những bản sắc tốt đẹp đáng lưu truyền đến bạn bè trong nước và quốc tế. Làm tô điểm thêm niềm tự hào về vẻ đẹp di sản văn hóa của Việt Nam.

<i>1.1.2.2. Tính pháp lý</i>

Để truyền thơng trở thành một cánh tay nối dài cho ngành di sản văn hóa ở Việt Nam thì ngành di sản văn hóa cần có một chiến lược khả thi để truyền bá di sản văn hóa tới cơng chúng và cộng đồng. Chiến lược khả thi ấy phải được xây dựng trên thực tiễn Việt Nam, mang tính chất ngành và phải có mục tiêu tổng trước mắt, lâu dài, tổng thể và chi tiết. Do chúng ta chưa có một một chiến lược khiến cho mạnh ai người nấy làm, tùy hứng và nhất thời, trong khi hàng loạt những luật về Luật di sản văn hóa, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật, thơng tư Chính Phủ về bảo tàng ngồi cơng lập hay về sưu tập tư nhân. . . cần sớm đi vào cuộc sống, thì dường như chúng ta chưa mấy được tận tường, do chúng ta chưa đặt được một chiến dịch truyền thông.

Chiến lược truyền thông khả thi phải được xây dựng trên cơ sở của nội lực và ngoại lực, mà ở đó, chúng ta có thể thấy, ngành Di sản văn hóa có thể chủ động làm gì, do sự tiến bộ của truyền thơng đem lại và cần truyền thơng hỗ trợ gì, do dự tiến bộ của truyền thông đem lại và cần truyền thơng hỗ trợ gì với những nội dung thật chi tiết, bài bản và khoa học.

<i>1.1.2.3. Tính sáng tạo</i>

Trong thời gian qua, phải đề cập đến vấn đề ngành di sản văn hóa và ngành truyền thơng chưa có nhiều sự liên kết với nhau để thúc đẩy di sản văn hóa ra bên

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

ngồi. Với một quốc gia vô cùng đa dạng và phong phú về di sản văn hóa như Việt Nam và trước một tiềm năng vô cùng lớn về Truyền thông Việt Nam thì mở ra nhiều con đường phát triển di sản văn hóa qua internet với tốc độ cao.

Điểm đáng lưu ý đó chính là biết truyền thơng thơi là chưa đủ, người dân truy cập mạng Internet hiện nay không chỉ truy cập một cách khuôn khổ, máy mọc mà họ là đối tượng công chúng biết chọn lọc thông tin. Một di sản văn hóa được truyền thơng theo cách truyền thống là báo in, báo điện tử thì đối tượng công chúng tiếp cận chỉ đang dừng ở mức đọc, biết chưa có khả năng chi trả để tìm đến với di sản văn hóa của chúng ta. Việc mà một người truyền thơng báo chí đối ngoại cần làm là thiết kế di sản văn hóa theo dạng Megabook một cách độc đáo và lạ mắt, đưa thơng tin kèm hình ảnh bắt mắt, lơi cuốn người đọc. Bên cạnh đó, khơng chỉ thiết kế ở báo đọc mà còn thiết kế báo nghe truyền tải lên các trang mạng xã hội đang nóng hiện nay như Facebook, Tiktok hay cộng đồng người nước ngoài ở Twitter để đối tượng dễ tiếp cận, công chúng bị thu hút bởi nội dung sáng tạo, mới lạ.

<i>1.1.2.4. Tính đại chúng</i>

Có thể nói, đối với mỗi quốc gia, dân tộc, di sản của tiền nhân để lại là nguồn tài sản vơ cùng q giá, vì thế, chúng khơng chỉ ln được quan tâm gìn giữ, mà cịn được đặc biệt quan tâm đến việc phát huy giá trị , để phục vụ cho các lợi ích của xã hội. Và thực tế cũng đã chứng minh, để thực hiện được điều đó thì khơng thể thiếu cơng tác truyền thông và cũng không thể không sử dụng các phương tiện thơng tin đại chúng. Như vậy, có thể thấy, di sản văn hóa, truyền thơng báo chí nước ngồi và các phương tiện đại chúng có mối quan hệ mật thiết.

Xuất phát từ góc độ của một người làm truyền thơng trong lĩnh vực di sản văn hóa, để lưu giữ, quản lý và phát huy các giá trị di sản ra bên ngoài đến với bạn bè quốc tế thì cần sử dụng đến các phương tiện thơng tin đại chúng để tiến hành công tác truyền thông.

Các phương tiện thơng tin đại chúng mà báo chí đối ngoại hướng đến rất đa dạng đó là truyền hình, đài phát thanh, các loại báo, tạp chí và một phương tiện truyền thông mới ra đời là internet. Mỗi loại phương tiện thông tin đại chúng kể trên đều có thế mạnh của nó. Chẳng hạn, khi sử dụng phương tiện truyền hình, những “thơng điệp” di sản văn hóa muốn hướng đến là người xem mang tính trực quan,

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

sinh động, và được nhiều người chú ý, đây là cách làm truyền thông rất hiệu quả. Khi sử dụng phương tiện truyền thông là đài phát thanh thì người nghe được tiếp nhận thơng điệp một cách trực tiếp qua thính giác.

<i>1.1.2.5. Tính kịp thời</i>

Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan báo chí và truyền thông luôn thực hiện nhất quán phương châm chủ động, kịp thời và linh hoạt. Trong thời gian những năm qua, tình hình dịch bệnh có nhiều diễn biến phức tạp, biến động khơng ngừng báo chí đối ngoại bên cạnh nhiệm vụ truyền thông, quảng bá di sản văn hóa cịn làm nhiệm vụ cấp thiết là cung cấp thơng tin kịp thời chính xác về di sản văn hóa trong giai đoạn này.

Báo chí đối ngoại liên tục nắm bắt thơng tin, truyền thơng nhanh chóng thời gian hoạt động và dừng hoạt động phục vụ du khách trong thời gian dịch bệnh. Chẳng hạn, đối với di sản thiên nhiên thế giới Quần thể danh thắng Tràng An, đã tiến hành dừng mở cửa đón khách quốc tế trong thời gian dịch bệnh. Đây là thông tin cần nhanh chóng truyền tải đến cơng chúng, tránh nhiều trường hợp chỉ biết quảng bá mà không biết nắm bắt tâm lý và tuyên truyền quy tắc 5K của Bộ Y Tế trong thời gian Covid diễn biến khó lường.

<i>1.1.2.6. Tính đồng bộ</i>

Nhược điểm lớn nếu mắc phải của báo chí đối ngoại chính là tính đồng bộ, nhất quán. Trong lịch sử hình thành và phát triển, các loại hình báo chí truyền thống như báo in, phát thanh, truyền hình ln có sự độc lập tương đối với nhau với những đặc thù và thế mạnh riêng. Sự bùng nổ của internet đã tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của hệ thống báo chí thế giới nói chung. Trước hết, với sự ra đời của báo điện tử (cịn gọi là báo mạng), thơng tin được cung cấp cho cơng chúng theo hình thức đa phương tiện sinh động, hấp dẫn hơn. Trong tiếng Anh, “multimedia” được dịch là “truyền thông đa phương tiện”, là sự truyền tải một thông điệp bằng sự kết hợp của các loại hình ngơn ngữ viết, ảnh, video, âm thanh, thiết kế đồ họa và các phương thức tương tác khác; các hình thức thể hiện đa diện góp phần tạo nên một bức tranh tồn cảnh đầy đủ thơng tin và có sức thuyết phục cao.

Trong một xã hội hiện đại với sự bùng nổ thông tin, cơng chúng ngày càng có những nhu cầu cao hơn đối với nội dung cũng như chất lượng thông tin. Sự phát

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

triển mạnh mẽ của truyền thông đa phương tiện nhưng thiếu sự quy hoạch chung vừa là sự lãng phí vừa làm giảm hiệu quả của truyền thông. Cùng một nội dung thông tin người ta có thể khai thác được ở quá nhiều nguồn khác nhau sẽ tạo ra tâm lý rằng hình như thơng tin đó sao chép của nhau, khơng có bản sắc riêng, do đó nhiều nguồn thơng tin trở nên mờ nhạt, thiếu tính chính xác, nhất là với các nguồn tin trên các trang báo điện tử.

Chính vì vậy, với di sản văn hóa tính đồng bộ trong truyền thơng được địi hỏi rất cao, thơng tin đa chiều nhưng phải mang tính chính xác, mức độ tin cậy cao tạo được niềm tin với công chúng quốc tế.

<b>1.2. Khái quát quần thể di sản danh thắng Tràng An</b>

<i><b>1.2.1. Đặc điểm quần thể di sản</b></i>

Quần thể danh thắng Tràng An trải rộng trên địa bàn 20 xã, phường của các huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan, thị xã Tam Điệp và thành phố Ninh Bình với diện tích hơn 12.000 ha, được bao bọc bởi 4 dịng sơng: Sơng Hồng Long ở phía Bắc, sơng Hệ ở phía Nam, sơng Bến Đang ở phía Tây và sơng Chanh ở phía Đơng. Trong khu di sản có trên 40 di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh, trong đó có 2 di tích cấp quốc gia đặc biệt là Cố đô Hoa Lư và Danh thắng Tràng An, Tam Cốc - Bích Động.

Quần thể danh thắng Tràng An là nơi tổng hợp các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới do UNESCO công nhận ở Ninh Bình. Tại đây có nhiều di tích cấp quốc gia vô cùng đặc biệt như Khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch Tam Cốc – Bích Động, chùa Bái Đính, cố đơ Hoa Lư… Song song đó cịn là nơi tập hợp các đặc trưng thiên nhiên của vùng Bắc bộ với hệ sinh thái núi đá vôi và hệ thống động thực vật đặc hữu. Quần thể danh thắng Tràng An chứa những di chỉ khảo cổ có giá trị cao như hang Mịi, hang Bói, hang Trống, mái Ốc, thung Bình, thành Hoa Lư; những di tích lịch sử nổi tiếng gắn với 4 vương triều Đinh – Lê – Lý – Trần như cung điện Hoa Lư, đền Vua Đinh-Vua Lê, chùa Bích Động, chùa Bái Đính, hành cung Vũ Lâm, đền Thái Vi, đền Trần, đền Suối Tiên hay những thắng cảnh khác như vườn chim thung Nham, thung Nắng, hang Múa, rừng đặc dụng Hoa Lư…

Tràng An là di sản địa chất tuyệt vời cho biết rõ ràng hơn những nơi khác trên thế giới về các giai đoạn cuối cùng của q trình tiến hóa karst trong mơi

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

trường nhiệt đới ẩm. Đây là một mơ hình xuất sắc và nổi bật trên phạm vi toàn cầu. Sự phân cắt sâu của một sơn khối đá vôi chuyển động nâng lên qua giai đoạn hơn 5 triệu năm đã tạo nên hàng loạt các cảnh quan cổ điển, bao gồm các tháp, nón, trũng sâu khép kín (hay hố sụt), thung lũng thốt nước về phía trong (hay bồn địa), các hang cơ sở và lối đi ngầm qua hang động với các trầm tích trong đó. Mang ý nghĩa vô cùng to lớn là sự hiện diện của các dạng chuyển tiếp giữa các karst “fengcong” có các sống núi nối các tháp, và karst "fenglin” nơi các tháp đứng rời rạc trên đồng bằng bồi tích. Trong thời kỳ Cánh Tân và Tồn Tân, cảnh quan hoàn toàn bị biến đổi do nhiều lần biển tiến và biển thoái. Dấu vết các lấn biển tiến trước đây thể hiện qua hàng loạt các ngấn sóng biển xâm thực trên vách đá với các hang liên quan, trầm tích biển và các lớp sị biển.

<i><b>1.2.2. Q trình hình thành và cơng nhận di sản thế giới quần thể di sản</b></i>

Nhận thức được những giá trị về tiềm năng văn hóa và thiên nhiên của vùng đất Cố đô Hoa Lư và Tràng An, ngay từ đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, tỉnh Ninh Bình đã phối hợp với Bộ Văn hóa - Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) trình UNESCO đưa khu di tích Cố đơ Hoa Lư vào danh mục dự kiến xây dựng hồ sơ Di sản thế giới. Tuy nhiên, sau khi tham vấn Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia cao cấp UNESCO, các công trình và kết quả nghiên cứu về giá trị văn hóa của di sản vào thời điểm lúc đó chưa đủ cơ sở khoa học cho việc lập hồ sơ.

Vào năm 2003, có một sự kiện đáng nhớ diễn ra là theo đề nghị của UBND tỉnh Ninh Bình và Bộ Kế hoạch-Đầu tư, Bộ Văn hóa - Thơng Tin, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã ký Quyết định số 82/2003/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử, văn hóa Cố đơ Hoa Lư. Đây chính là cơ sở quan trọng cho tỉnh Ninh Bình triển khai hàng loạt các dự án nghiên cứu, khai quật khảo cổ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản trong khu vực Cố đô Hoa Lư, Tam Cốc - Bích Động, khu sinh thái Tràng An và chùa Bái Đính.

Trong những năm từ 2007 đến 2011, các cơ quan chun mơn của tỉnh Ninh Bình, cùng với sự hỗ trợ tích cực của Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường, đã phối hợp với Viện Khảo cổ, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, Trường Đại học Cambridge (Vương quốc Anh) và Tiến sĩ Nishimura, chuyên gia khảo cổ học Nhật Bản triển khai nhiều dự án nghiên cứu về giá trị cảnh quan địa chất, địa mạo

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

và khai quật khảo cổ học. Với những kết quả nghiên cứu về tự nhiên cho thấy tồn bộ khối đá vơi Tràng An có tuổi địa chất trên 250 triệu năm, cảnh quan tháp kart (đá vôi) là khu vực đẹp và ngoạn mục mang vẻ đẹp siêu nhiên; đặc biệt, nghiên cứu về cảnh quan văn hóa, đã phát hiện nhiều địa điểm hang động có dấu vết của người tiền sử đã cư trú tồn tại ở Tràng An cách đây từ 25.000 đến 30.000 năm.

Từ những kết quả nghiên cứu đã được các nhà khoa học phát hiện và công bố trên các ấn phẩm quốc tế có uy tín, các chun gia thấy rằng Tràng An có nhiều giá trị tiêu biểu về thiên nhiên và văn hóa, có tiềm năng đáp ứng các tiêu chí của UNESCO để trở thành Di sản thế giới.

Nhận diện giá trị di sản, cánh cửa để Tràng An hướng tới Di sản thế giới rộng mở hơn so với những năm trước. Ngày 3-8-2011, UBND tỉnh Ninh Bình đã có văn bản đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tỉnh Ninh Bình lập hồ sơ. Và cũng trong năm ấy, trên cơ sở đề nghị của các cơ quan Việt Nam, Trung tâm Di sản thế giới đã chính thức đưa Quần thể danh thắng Tràng An vào danh mục dự kiến xây dựng Hồ sơ di sản thế giới.

Quá trình xây dựng hồ sơ, ban đầu các chuyên gia trong nước đề xuất nghiên cứu đề cử 2 tiêu chí về thiên nhiên, đó là giá trị thẩm mỹ và giá trị địa chất, địa mạo. Tuy nhiên, để lựa chọn đúng tiêu chí cho việc xây dựng hồ sơ, Ban chỉ đạo xây dựng hồ sơ của tỉnh đã tổ chức Hội thảo khoa học. Cuộc hội thảo đã thu hút được nhiều nhà khoa học, các chuyên gia trong và ngoài nước tham gia, qua hội thảo, Ban chỉ đạo xây dựng hồ sơ đã lựa chọn được 3 tiêu chí đề cử di sản lập hồ sơ trình UNESCO gồm tiêu chí (V) "là thí dụ nổi bật về truyền thống cư trú và sử dụng đất của loài người, đại diện cho sự tương tác của con người với mơi trường"; tiêu chí (VII) "chứa đựng các hiện tượng siêu nhiên hoặc các khu vực có vẻ đẹp tự nhiên và giá trị thẩm mỹ đặc biệt"; tiêu chí (VIII) "là thí dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn lịch sử chính của trái đất, bao gồm các bằng chứng về sự sống, các quá trình địa chất quan trọng đang diễn ra trong quá trình tiến hóa của cảnh quan hoặc các đặc điểm địa mạo hay thủy văn nổi bật".

Được sự chỉ đạo sát sao của các đồng chí lãnh đạo tỉnh, sau gần 6 tháng làm việc vất vả với tất cả lòng say mê, trách nhiệm và nhiệt huyết của các cơ quan chuyên môn, các chuyên gia trong nước, quốc tế và tập thể cán bộ, nhân viên Ban quản lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Quần thể danh thắng Tràng An, tháng 9-2012, Dự thảo hồ sơ lần I cơ bản được hoàn thành. Được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch đã ký hồ sơ Quần thể danh thắng Tràng An, tỉnh Ninh Bình, hồ sơ được gửi tới Trung tâm Di sản thế giới tại Paris để tham vấn, cho ý kiến.

Ngày 15-11-2012, tỉnh Ninh Bình nhận được thơng báo ý kiến đánh giá về hồ sơ Quần thể danh thắng Tràng An, Trung tâm Di sản thế giới đánh giá bộ hồ sơ đề cử được chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, khoa học và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chuyên gia UNESCO, phần chỉnh sửa rất nhỏ.

Tiếp thu những góp ý của Trung tâm Di sản thế giới, chúng ta đã chỉnh sửa, bổ sung hồ sơ và ngày 17-1-2013 Bộ hồ sơ chính thức đề cử Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản thế giới đã hoàn thành và nộp cho Trung tâm Di sản thế giới trước thời hạn 13 ngày (theo quy định của UNESCO, hồ sơ cần được gửi tới trụ sở UNESCO tại Paris trước 7 giờ ngày 31-1-2013. Nếu muộn hơn thời điểm đó hồ sơ sẽ không được tiếp nhận để xem xét). Sau khi nhận được hồ sơ, ủy ban Di sản thế giới đã cử các chuyên gia thuộc các cơ quan tư vấn của UNESCO là Hội đồng Quốc tế về Di tích và Di chỉ (IUCN) và Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên thế giới (ICOMOS) sang Việt Nam thẩm định, đánh giá hồ sơ tại Tràng An.

Nhìn chung, các chuyên gia thẩm định của UNESCO đã đánh giá rất tích cực cho Hồ sơ di sản Tràng An. Tuy nhiên, trong thời gian này, do có cơng ty xi măng gửi đơn tới UNESCO đề nghị đưa vùng quy hoạch nguyên liệu xi măng ra ngoài vùng bảo vệ di sản dẫn đến Hồ sơ Tràng An có nguy cơ đi vào ngõ cụt, đầy khó khăn, thách thức. Ban chỉ đạo xây dựng hồ sơ của tỉnh đã chủ động, kịp thời báo cáo với Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các bộ, ngành liên quan về các phương án để giải quyết với mong muốn Tràng An được công nhận là Di sản thế giới, đồng thời vẫn giải quyết đủ vùng nguyên liệu cho sản xuất xi măng và ổn định môi trường đầu tư.

<i>*) Ghi danh Di sản thế giới</i>

Sau một năm rưỡi thẩm định, đánh giá hồ sơ, ngày 2-5-2014, Trung tâm Di sản thế giới đã có văn bản thông báo đánh giá, khuyến nghị của các cơ quan tư vấn UNESCO đối với Hồ sơ Quần thể danh thắng Tràng An trình UNESCO gửi tới ủy ban Di sản thế giới. Trong báo cáo, các cơ quan tư vấn đều khẳng định Quần thể danh thắng Tràng An có tiềm năng đáp ứng các tiêu chí về giá trị nổi bật toàn cầu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Tuy nhiên, sau cuộc họp của Hội đồng thẩm định IUCN và ICOMOS, Tràng An vẫn bị kiến nghị ở mức D, vì chưa đáp ứng u cầu về tính tồn vẹn của di sản, chủ yếu do việc thu hẹp diện tích vùng đệm, dẫn tới cơng tác quản lý và bảo vệ di sản chưa đáp ứng các quy định của UNESCO. Nếu ủy ban Di sản thế giới đồng ý theo khuyến nghị này thì nhanh nhất là di sản Tràng An mới được đưa ra xem xét vào kỳ họp năm 2016.

Đây thực sự là một thử thách lớn đối với Ban chỉ đạo xây dựng hồ sơ của tỉnh và nhóm xây dựng hồ sơ cùng các chuyên gia, bởi thời gian bổ sung hồ sơ chưa đầy một tháng rưỡi cho đến khi ủy ban Di sản thế giới họp khóa 38, mà nội dung phải bổ sung một số điểm quan trọng và phức tạp. Nội dung các vấn đề mà các cơ quan tư vấn UNESCO khuyến nghị đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Ban chỉ đạo xây dựng hồ sơ của tỉnh chỉ đạo khẩn trương xây dựng báo cáo giải trình, bổ sung hồ sơ để kịp trình lên khóa họp lần thứ 38 của ủy ban Di sản thế giới vào tháng 6 năm 2014.

Để hỗ trợ nhóm xây dựng hồ sơ trong thời điểm "nước sôi lửa bỏng", Ban chỉ đạo xây dựng hồ sơ của tỉnh đã phối hợp với ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam mời giáo sư Paul Dingwall, Tiến sĩ Ryan Rabett (Trường Đại học Cambridge-Vương quốc Anh) và các chuyên gia Việt Nam đến Ninh Bình, trực tiếp làm việc tại thực địa, không kể ngày đêm, vừa nghiên cứu bổ sung vào hồ sơ, vừa chuẩn bị một văn bản dài 26 trang A4 với đầy đủ toàn bộ nội dung khoa học giải trình, phản biện lại các đánh giá khuyến nghị của các cơ quan tư vấn. Đồng thời phối hợp với ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam, phái đoàn Việt Nam bên cạnh UNESCO, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Di sản văn hóa tổ chức gặp gỡ tiếp xúc với phái đoàn của các nước thành viên ủy ban Di sản thế giới bên cạnh UNESCO tại Paris (Cộng hòa Pháp) để giải thích, chứng minh những giá trị nổi bật tồn cầu của Tràng An về văn hóa và thiên nhiên nhằm thuyết phục các tổ chức của UNESCO ủng hộ cho hồ sơ Tràng An.

Dự đoán trước được những khó khăn, thách thức do đánh giá hồ sơ Tràng An ở mức D, để chuẩn bị cho công việc bảo vệ hồ sơ, Ban chỉ đạo xây dựng hồ sơ của tỉnh đã quyết tâm rất cao, lựa chọn và mời các chuyên gia giỏi chuyên môn và ngoại ngữ, giàu kinh nghiệm tham gia đồn cơng tác đi bảo vệ hồ sơ tại kỳ họp thứ 38 của ủy ban Di sản thế giới, tổ chức ở Doha (Qatar) từ ngày 15-6 đến ngày 25-6-2014.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, sự giúp đỡ nhiệt tình của ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam tại Qatar và phái đoàn Việt Nam bên cạnh UNESCO, ngay từ ngày đầu đến Qatar, đồn cơng tác của tỉnh ta đã làm việc tích cực, khơng kể ngày đêm, giờ giấc, tận dụng mọi điều kiện, mọi cơ hội, tổ chức tiếp xúc, gặp gỡ các đoàn chuyên gia các nước thành viên ủy ban Di sản thế giới trong và bên lề phiên họp để giới thiệu và giải thích về hồ sơ cũng như những vấn đề khuyến nghị của các cơ quan tư vấn nhằm thuyết phục các nước trong ủy ban Di sản thế giới ủng hộ hồ sơ Tràng An trên cả tiêu chí văn hóa và thiên nhiên.

Vì vậy tại Hội nghị, sau khi đại diện của hai tổ chức IUCN và ICOMOS trình bày bản báo cáo thẩm định vẫn giữ nguyên nhận xét đánh giá ban đầu: Hồ sơ Tràng An ở mức D (hồ sơ phải để lại tiếp tục hoàn thiện và thẩm định), Đoàn Malaysia phát biểu đầu tiên ủng hộ Tràng An của Việt Nam đã đáp ứng đủ tiêu chí để cơng nhận là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới, rồi sau đó hầu hết các nước trong ủy ban Di sản thế giới phát biểu đều ủng hộ cho Tràng An. Sau gần 2 giờ tranh luận, chỉnh sửa Nghị quyết, tiếng gõ búa vang lên của Chủ tịch ủy ban Di sản thế giới vào hồi 11h 57 phút giờ Qatar ngày 23 tháng 6 năm 2014 đã đưa Quần thể danh thắng Tràng An vào Danh sách Di sản thế giới. Và ngày 25 tháng 6 năm 2014, Quần thể danh thắng Tràng An đã được UNESCO vinh danh là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới và trở thành di sản thứ 1004/1007 của thế giới, là di sản hỗn hợp thứ 31 trên thế giới, thứ 11 ở Châu á - Thái Bình Dương và là Di sản hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam và Đông Nam á. Đây thực sự là thắng lợi lớn tại kỳ họp này, bởi nỗ lực của Đồn cơng tác tỉnh ta đã hồn tồn đảo ngược tình thế và đã hồn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, bảo vệ thành công Hồ sơ đệ trình UNESCO cơng nhận Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản thế giới.

Quần thể danh thắng Tràng An - hành trình trở thành Di sản thế giới là kết quả của sự quan tâm, chỉ đạo, tạo điều kiện của Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao, Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia, Văn phòng UNESCO tại Hà Nội, Các Bộ, ngành Trung ương; sự tham gia, đóng góp, giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các nhà khoa học, các chuyên gia trong nước và quốc tế; của Doanh nghiệp xây dựng Xuân Trường và trên hết là sự nỗ lực, quyết tâm của

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình trong việc bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị của Di sản.

Tự hào được sống trên vùng đất di sản, trong những ngày xuân năm mới, chúng ta rất vui mừng, phấn khởi chào đón sự kiện đặc biệt diễn ra vào ngày 23-1-2015, tỉnh Ninh Bình long trọng tổ chức Lễ đón Bằng của UNESCO ghi danh Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới. Đây cũng là dịp chúng ta bày tỏ cam kết quyết tâm làm hết sức mình bằng các chương trình hành động cụ thể để quản lý, bảo vệ và phát huy các giá trị nổi bật toàn cầu của di sản để Tràng An mãi mãi là Di sản thế giới của nhân loại, trao truyền nguyên vẹn cho các thế hệ mai sau

<i><b>1.2.3. Giá trị nổi bật của quần thể di sản*) Giá trị văn hóa</b></i>

Tràng An là địa điểm nổi bật ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới chứa đựng những bằng chứng khảo cổ phong phú và vẫn còn được bảo tồn gần như nguyên trạng, chủ yếu là vỏ ốc, vỏ sị, xương động vật, đồ gốm, cơng cụ bằng đá, nền bếp, gốm vặn thừng và di cốt người. Đây là kho tư liệu vô giá cho thấy sự thích ứng của người tiền sử với những biến đổi quan trọng về môi trường kéo dài hơn 30.000 năm, ít nhất từ thời kỳ Băng hà cuối cùng. Trong thời gian này, họ đã trải qua một số biến đổi địa lý và khí hậu khắc nghiệt nhất trong lịch sử trái đất. Bên cạnh đó, các di tích văn hóa lịch sử như đền, chùa, cung điện cũng góp phần bổ sung và củng cố nhiều tư liệu khảo cổ học.

<i><b>*) Giá trị thẩm mỹ</b></i>

Cảnh quan tháp karst Tràng An là một trong những khu vực đẹp và ngoạn mục nhất thuộc loại này trên thế giới, gồm chủ yếu một loạt các tháp karst dạng nón với vách dốc đứng cao 200m so với nền đất và mực nước xung quanh. Đan xen các đỉnh núi hình tháp là hệ thống các thung lũng và hố sụt karst có độ nơng sâu khác nhau. Trong các hố sụt là các đầm lầy bồi tích rộng, nối thơng với nhau bởi các dịng suối ngầm xun qua núi tạo thành vô số hang luồn, trên trần hang lấp lánh những thạch nhũ mn hình vạn trạng. Hịa vào vẻ đẹp của cảnh quan karst là thảm rừng nguyên sinh dày, bao phủ các vách đá, mang lại khơng khí mát mẻ, hoang sơ. Điểm xuyết giữa những ngọn núi hùng vĩ, hang động huyền bí, sơng nước thanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

tĩnh là những đền, chùa, miếu linh thiêng. Đặc biệt, cảnh quan của vùng đệm xung quanh Tràng An tạo nên một bức tranh cuộc sống nông thôn truyền thống sinh động, quyến rũ với những ngôi làng nhỏ nối với nhau bởi các con đường đất hoặc đường mịn cùng mạng lưới sơng suối và kênh rạch.

<i><b>*) Giá trị địa chất - địa mạo</b></i>

Quần thể danh thắng Tràng An có diện tích 6.172ha thuộc địa bàn huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan, thị xã Tam Điệp và thành phố Ninh Bình, cách thủ đơ Hà Nội khoảng 90km về phía đơng nam. Bao quanh quần thể là vùng đệm có diện tích 6.268ha, chủ yếu là đồng ruộng và làng mạc. Là khu vực có sự hịa lẫn giữa thiên nhiên và văn hóa, quần thể danh thắng Tràng An bao gồm ba vùng được bảo vệ liền kề nhau là khu di tích lịch sử văn hóa cố đơ Hoa Lư, khu danh thắng Tràng An-Tam Cốc-Bích Động và rừng nguyên sinh đặc dụng Hoa Lư.

Nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, quần thể danh thắng Tràng An là vùng bán sơn địa có phương phát triển chung theo hướng tây bắc – đơng nam. Phía bắc và tây bắc Tràng An là các dải đồi Bái Đính; phía tây nam và nam là dải đá vơi Đồng Tâm – Sơn Hà, Tam Cốc – Bích Động; phía đông nam và đông bắc là dải đá vôi Trường n; phía đơng bắc và bắc là dải đá vơi Tràng An. Tràng An có mạng lưới sơng suối khá phát triển với sơng Hồng Long ở phía bắc, sơng Chanh ở phía đơng, sơng Hệ ở phía nam, sơng Bến Đang ở phía tây cùng hệ thống sơng Sào Khê, Ngô Đồng, Đền Vối nằm trong vùng lõi di sản. Trước đây, khu vực Tràng An đã bị biển xâm lấn, biến cải nhiều lần rồi nâng cao trở thành đất liền như hiện nay. Sự kiến tạo địa chất trong giai đoạn lâu dài đã tạo ra những cảnh quan ngoạn mục – một sự pha trộn giữa những ngọn núi dạng tháp có vách dốc đứng trong khu rừng nhiệt đới nguyên sinh, bao quanh những trũng, thung lớn, sâu, chứa nước trong và tĩnh lặng thông với vô số các hang động và sông suối ngầm, nhiều chỗ có thể đi lại bằng thuyền.

<i><b>*) Giá trị văn hóa</b></i>

Tràng An là địa điểm nổi bật ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới chứa đựng những bằng chứng khảo cổ phong phú và vẫn còn được bảo tồn gần như nguyên trạng, chủ yếu là vỏ ốc, vỏ sị, xương động vật, đồ gốm, cơng cụ bằng đá, nền bếp, gốm vặn thừng và di cốt người. Đây là kho tư liệu vô giá cho thấy sự thích

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

ứng của người tiền sử với những biến đổi quan trọng về môi trường kéo dài hơn 30.000 năm, ít nhất từ thời kỳ Băng hà cuối cùng. Trong thời gian này, họ đã trải qua một số biến đổi địa lý và khí hậu khắc nghiệt nhất trong lịch sử trái đất. Bên cạnh đó, các di tích văn hóa lịch sử như đền, chùa, cung điện cũng góp phần bổ sung và củng cố nhiều tư liệu khảo cổ học.

<i><b>*) Giá trị thẩm mỹ</b></i>

Cảnh quan tháp karst Tràng An là một trong những khu vực đẹp và ngoạn mục nhất thuộc loại này trên thế giới, gồm chủ yếu một loạt các tháp karst dạng nón với vách dốc đứng cao 200m so với nền đất và mực nước xung quanh. Đan xen các đỉnh núi hình tháp là hệ thống các thung lũng và hố sụt karst có độ nơng sâu khác nhau. Trong các hố sụt là các đầm lầy bồi tích rộng, nối thơng với nhau bởi các dịng suối ngầm xun qua núi tạo thành vơ số hang luồn, trên trần hang lấp lánh những thạch nhũ mn hình vạn trạng. Hịa vào vẻ đẹp của cảnh quan karst là thảm rừng nguyên sinh dày, bao phủ các vách đá, mang lại khơng khí mát mẻ, hoang sơ. Điểm xuyết giữa những ngọn núi hùng vĩ, hang động huyền bí, sơng nước thanh tĩnh là những đền, chùa, miếu linh thiêng. Đặc biệt, cảnh quan của vùng đệm xung quanh Tràng An tạo nên một bức tranh cuộc sống nông thôn truyền thống sinh động, quyến rũ với những ngôi làng nhỏ nối với nhau bởi các con đường đất hoặc đường mịn cùng mạng lưới sơng suối và kênh rạch.

<i><b>*) Giá trị địa chất - địa mạo</b></i>

Tràng An minh chứng cho các giai đoạn cuối cùng của q trình tiến hóa karst trong mơi trường khí hậu nhiệt đới ẩm. Sản phẩm của quá trình phân cắt mạnh các khối đá vôi lớn trong hàng trăm triệu năm là một dãy hoàn chỉnh các dạng địa hình đá vơi điển hình, bao gồm tháp, lũng (hố karst), thung lũng (hố sụt), các cấu trúc sạt lở, các lớp trầm tích, hang ngầm và sơng ngầm, hang động và trầm tích hang động. Mạng lưới các đứt gãy song song giao nhau chia cắt khu vực thành các ô mạng và thúc đẩy sự phát triển của các trũng karst trịn, kín. Sự hiện diện rộng rãi của một loạt các ngấn xâm thực trên các vách đá với những hang động, nền sóng vỗ, lắng đọng bãi biển và vỏ sò là những bằng chứng cho mực nước biển cũ.

Ngày 23/6/2014, tại thủ đô Doha (Qatar), Ủy ban Di sản Thế giới thuộc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

ghi danh Quần thể danh thắng Tràng An (Ninh Bình) vào danh mục Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới dựa trên 3 tiêu chí: văn hóa, vẻ đẹp thẩm mỹ và địa chất -địa mạo.

<b>1.3. Vai trò của truyền thông di sản</b>

Trong bối cảnh giao lưu, hội nhập văn hóa hết sức mạnh mẽ như hiện nay, vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa Việt Nam càng trở nên cấp thiết, địi hỏi sự chung tay, chung sức của nhiều cấp, nhiều ngành trong đó có các cơ quan báo chí, truyền thơng. Vai trò đặc biệt này được thể hiện ở chỗ "sức mạnh", sự ảnh hưởng của truyền thông trong xã hội ngày nay và mối quan hệ giữa truyền thông với di sản văn hóa.

+ Góp phần quảng bá thương hiệu di sản Thế giới tại Việt Nam.

Nhìn lại con số thống kê về di sản văn hóa trên cả nước, có thể thấy, truyền thơng đã mang di sản đến gần hơn với cơng chúng. Truyền thơng đã góp phần đưa Vịnh Hạ Long của Việt Nam thành di sản thiên nhiên thế giới, được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) vinh danh.

Hoạt động truyền thông là cầu nối để lan tỏa những giá trị của Di sản đến bạn bè trong nước và quốc tế. Việc quản lý hoạt động truyền thơng góp phần lan tỏa giá trị ngoại hạng của một di sản tầm cỡ đến bạn bè trong và ngồi nước, giúp nâng cao hình ảnh của di sản. Cũng từ đó có những tác động tích cực trở lại góp phần cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản.

+ Góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản Thế giới tại Việt Nam.

Trong nhiều năm qua, các cơ quan báo chí truyền thơng đại chúng đã tập trung tuyên truyền đậm nét vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc dưới nhiều hình thức giới thiệu về các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa quốc gia, di sản văn hóa thế giới, đồng thời phản ánh chân thực, sinh động những phong tục tập quán, nét đẹp truyền thống, lễ hội truyền thống tốt đẹp của cộng đồng 54 dân tộc anh em. Báo chí cũng đã có những phản biện kịp thời về những chính sách, những hạn chế, bất cập trong quản lý di sản văn hóa giúp các địa phương cũng như các cơ quan quản lý Nhà nước khắc phục khiếm khuyết. Truyền thơng đã và đang đóng góp quan trọng cho sự bảo tồn giữ gìn văn hóa truyền thống, các di sản văn hóa trong đời sống xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Bên cạnh đó, qua truyền thơng sẽ có những thơng tin phát tán về mặt trái của di sản, đe dọa phá hoại di sản, buộc nhà quản lý phải có động thái kịp thời, kêu gọi cộng đồng cùng lên tiếng bảo vệ; kịp thời phát hiện, phản ánh những việc chưa tốt, những hành vi chưa phù hợp trong thực hiện nhiệm vụ.

Thêm vào đó, từ những phát hiện, phản ánh của truyền thơng đã góp phần giúp các nhà quản lý văn hóa, chính quyền địa phương nắm bắt được những vấn đề bất cập để tháo gỡ, xử lý. Có thể kể đến vụ việc các cơng trình xây dựng trong khu di sản văn hóa Tràng An - Bái Đính, khu danh thắng Núi Sam, Cơng viên địa chất tồn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn…

+ Phát huy những nguồn lực của di sản Thế giới thông qua hoạt động truyền thông đối ngoại nhằm phát triển du lịch Việt Nam.

+ Tăng độ nhận diện của thương hiệu di sản Thế giới tại Việt Nam trong đối với công chúng quốc tế.

Trước thực trạng bảo tồn các giá trị di sản văn hóa hiện nay cũng cịn nhiều vấn đề như xâm hại di tích, “chảy máu” di sản, một số nét đẹp truyền thống dân tộc bị mai một..., nhiều đại biểu thống nhất cho rằng, việc kết hợp được thế mạnh của truyền thông trong hỗ trợ tuyên truyền, quảng bá, phát huy giá trị di sản văn hóa là biện pháp hữu hiệu thu hút sự quan tâm của cộng đồng với di sản văn hóa, bảo vệ di sản trước thách thức của quá trình hội nhập...

Cũng nhờ truyền thông, những di sản nổi tiếng của Việt Nam đã được bạn bè quốc tế biết đến nhiều hơn, như: Quần thể Di tích Cố đơ Huế, khu phố cổ Hội An, danh thắng Tràng An, rừng quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng… Nhờ đó, lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ngày càng nhiều, khẳng định vị trí và vai trị của di sản văn hóa trong đời sống xã hội, góp phần đáng kể vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong thời đại công nghiệp 4.0 hiện nay, với sự phát triển của báo chí đa phương tiện, việc kết hợp được thế mạnh của truyền thông trong việc hỗ trợ tuyên truyền, quảng bá, phát huy giá trị di sản văn hóa là biện pháp hữu hiệu thu hút sự quan tâm của cộng đồng với di sản văn hóa, bảo vệ di sản trước thách thức của quá trình hội nhập…

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<b>Tiểu kết chương 1</b>

Có thể nói, tác động của truyền thơng tới việc phát huy và bảo tồn di sản là rất lớn khi nội dung truyền thông không chỉ tập trung quảng bá hình ảnh của một di sản mà qua hoạt động truyền thơng, các nhà nghiên cứu cịn nhận ra những vấn đề của di sản, từ đó đưa ra những góp ý xác đáng, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Song song với việc phát đi những thông tin về các sự kiện liên quan, truyền thơng cịn phản ánh những giá trị đã, đang và sẽ tiếp tục khai thác.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<b>Chương 2</b>

<b>TRUYỀN THÔNG DI SẢN QUẦN THỂ DANH THẮNG TRÀNG AN QUA BÁO CHÍ ĐỐI NGOẠI</b>

<b>2.1. Giới thiệu chủ thể truyền thơng</b>

<i><b>2.1.1. Kênh truyền hình đối ngoại VTV4</b></i>

Từ một chương trình truyền hình mang tên “Dành cho đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc” ra đời năm 1998, VTV4 hiện đã phát triển thành một kênh truyền hình tổng hợp phát sóng 24/24h với các chương trình thời sự, phim truyện, ca nhạc, tài liệu, giải trí…

Theo Quyết định số 1139/ QĐ-THVN ngày 11/11/2003 của Tổng giám đốc Đài THVN: Ban Truyền hình Đối ngoại là đơn vị sự nghiệp thuộc Đài truyền hình việt Nam, có chức năng sản xuất, khai thác các chương trình truyền hình để phát trên kênh truyền hình đối ngoại và các kênh truyền hình khác của Đài truyền hình Việt Nam, cung cấp cho các Đài Truyền hình n ớc ngồi theo chỉ đạo của Tổngƣ Giám đốc, trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Ban Truyền hình đối ngoại có nhiệm vụ, quyền hạn: xây dựng kế hoạch công tác hằng năm và dài hạn, trong đó có kế hoạch về định hướng tuyên truyền, sản xuất và khai thác các thể loại chương trình truyền hình tuyên truyền đối ngoại và tổ chức thực hiện kế hoạch đã đ ợc phê duyệt; đạo diễn, sắp xếp, bố trí chươngƣ trình phát sóng trên kênh truyền hình đối ngoại (VTV4)

Là một trong những kênh thông tin riêng dành cho đồng bào nước ngoài được xây dựng và hoạt động khá hiệu quả, sự ra đời của Kênh truyền hình đối ngoại VTV4 chính là nhằm đáp ứng kịp thời việc đưa thơng tin một cách “chính thống”, nhanh nhạy, trung thực về mọi mặt đời sống xã hội của Việt Nam đến với thế giới và người dân Việt Nam ở nước ngoài.

Với phương châm hoạt động “lấy khán giả làm trung tâm”, VTV4 không ngừng nâng cao chất lượng chương trình, lắng nghe và đáp ứng nhu cầu của khán giả. Với sứ mạng “Mang giá trị Việt ra khắp thế giới”, VTV4 tơn vinh văn hóa, lịch sử, đất nước, con người Việt Nam, đặc biệt quan tâm đến các thành công của cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

</div>

×