Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.58 MB, 30 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠIKHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ</b>
<b>----BÀI THẢO LUẬNHỌC PHẦN: KINH TẾ QUỐC TẾ I</b>
<b>ĐỀ TÀI TRANH BIỆN</b>
<b>ĐỒNG TÌNH VỚI Ý KIẾN NHẬT BẢN LÀQUỐC GIA THEO ĐUỔITRƯỜNG PHÁI TRỌNG THƯƠNG MỚI</b>
<b>Giảng viên hướng dẫn : Phan Thị Thu Giang</b>
<b>Hà Nội: 2023</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>MỤC LỤC</b>
<b>LỜI CẢM ƠN...4</b>
<b>MỞ ĐẦU...5</b>
<b>CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN...6</b>
1. Khái niệm chủ nghĩa trọng thương...6
2. Khái niệm chủ nghĩa trọng thương mới...6
3. Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương mới...6
<b>CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN...9</b>
<b>1. Khái quát chung về Nhật Bản...9</b>
1.1 Khái quát về nền kinh tế của Nhật Bản từ xưa tới nay 1960 đến nay vì khi đó là “Kỳ tích Nhật Bản thời hậu chiến”...9
1.2 Khái quát về thị trường xuất khẩu...9
1.3 Khái quát về thị trường nhập khẩu...10
<b>2. Lý do Nhật Bản theo trường phái trọng thương mới...11</b>
2.1. Sự can thiệp của chính phủ vào phát triển kinh tế:...11
2.1.1 Chính phủ áp dụng liên quan đến các chính sách về ngoại hối hay tỷ giá hối đoái:...11
2.1.2 Tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế, vừa là chủ thể quản lý kinh tế vừa là chủ thể đầu tư đối với các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế:...11
2.1.3 Thúc đẩy, tạo điều kiện phát triển nhanh các ngành kinh tế và khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là các lĩnh vực công nghiệp mới...12
2.2.Nhật Bản khuyến khích xuất khẩu...14
2.2.1.Thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu...14
2.2.2.Hệ thống thuế đẩy mạnh xuất khẩu...16
2.2.3. Cấp vốn hỗ trợ xuất khẩu...18
2.3. Nhật Bản hạn chế nhập khẩu...19
2.3.1.Rào cản kỹ thuật thương mại...20
2.3.2 Hàng rào thuế quan...22
2.3.3 Hàng rào phi thuế quan...23
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">2.4 Văn hóa dự trữ tài sản...24 2.5 Đánh giá...27 2.5.1 Tác động của việc theo đuổi trường phái trọng thương mới đối với nền kinh tế của Nhật Bản...27 2.5.2 Trường phái trọng thương trên khắp thế giới và Quan điểm của các quốc gia khác về việc Nhật Bản theo đuổi trường phái trọng thương mới (tích cực)..28
<b>CHƯƠNG III: KẾT LUẬN...29TÀI LIỆU THAM KHẢO...30</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>LỜI CẢM ƠN</b>
Lời đầu tiên, nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Phan Thị Thu Giang giảng viên lớp học phần Kinh tế quốc tế I đã giảng dạy nhiệt tình, truyền đạt những kiến thức cơ bản, cần thiết đến chúng em. Từ đó, chúng em vận dụng những kiến thức này để hoàn thành bài thảo luận một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, để hồn thành bài thảo luận này khơng thể khơng nhắc đến những đóng góp tích cực của các thành viên trong nhóm, cảm ơn các bạn đã tham gia họp nhóm đầy đủ, tìm hiểu nghiên cứu các tài liệu. Mặc dù nhóm đã cố gắng hồn thành bài thảo luận nhóm trong phạm vi và khả năng cho phép nhưng không thể tránh được những thiếu sót, nhóm em rất mong nhận được sự góp ý của thầy và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>MỞ ĐẦU</b>
Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, nền kinh tế thế giới đã có những bước khơi phục và phát triển thần kỳ. Trong nhiều thập kỷ qua, thương mại toàn cầu dựa trên lợi thể so sánh và lợi thế tuyệt đối . Các quốc gia có xu hướng sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh cao nhất như yếu tố về công nghệ kỹ thuật, nhân công, nguyên nhiên liệu dồi dào,.. Tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang là xu hướng chung của thế giới. Cạnh tranh, đổi mới và chuyển giao kiến thức được kích thích bởi tự do thương mại đã tạo ra sự tăng trưởng ở các nước, nền kinh tế mạnh mẽ hơn, mức sống được cải thiện hơn. Đối với Nhật Bản là một quốc gia có sự phát triển thần kì về mặt kinh tế. Một số ý kiến cho rằng có lẽ Nhật Bản là nước đã theo đuổi trường phái trọng thương mới. Để có thể làm rõ về vấn đề này, nhóm chúng em xin phép được nghiên cứu đề tài: “ Nhật Bản có phải là đất nước theo đuổi trường phái trọng thương mới”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN1. Khái niệm chủ nghĩa trọng thương</b>
Chủ nghĩa trọng thương (Mercantilism) là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản tồn tại trong giai đoạn từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, đề cập đến tầm quan trọng của tiền đối với một quốc gia và nó là biểu hiện sự giàu có của một quốc gia. Chủ nghĩa trọng thương ra đời đã thúc đẩy việc chính quyền điều phối nền kinh tế quốc gia với mục đích đó là để làm tăng quyền lực nhà nước đó bằng việc làm suy giảm sức mạnh của các nước đối địch. Chủ nghĩa trọng thương thực chất chính là sự tương đương trong kinh tế của chủ nghĩa chuyên chế trong chính trị, bao gồm những chính sách kinh tế quốc gia nhắm đến tích lũy dự trữ tiền tệ thông qua cân bằng thương mại dương, đặc biệt trong các thành phẩm. Có nhiều vàng bạc sẽ có quyền lực và quân đội mạnh củng cố khả năng của các nước; tăng cường quân đội và hải quân cũng tạo điều kiện cho các nước có được nhiều thuộc địa. Bằng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, chính phủ có thể khuyến khích sản lượng quốc dân và công ăn việc làm. Chủ nghĩa trọng thương thống trị các cuộc tranh luận và chính sách kinh tế Tây Âu từ thế kỷ thứ XVI đến cuối thế kỷ thứ XVIII. Chủ nghĩa trọng thương là một nguyên nhân của các cuộc chiến tranh châu Âu thường xuyên và là động lực thúc đẩy bành trướng thuộc địa. Các giả thuyết trọng thương đa dạng về độ phức tạp giữa các học giả và phát triển theo thời gian.
<b>2. Khái niệm chủ nghĩa trọng thương mới </b>
Chủ nghĩa trọng thương mới được coi là trường phái tư tưởng lâu đời nhất trong kinh tế chính trị quốc tế (IPE), bắt nguồn từ chủ nghĩa trọng thương , một học thuyết tiền cơng nghiệp và có được chỗ đứng trong Cách mạng Công nghiệp. Chủ nghĩa trọng thương mới cho rằng quyền lực là trung tâm trong quan hệ toàn cầu. Chủ nghĩa trọng thương mới là một chế độ chính sách khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, kiểm soát sự di chuyển vốn và tập trung các quyết định về tiền tệ trong tay chính quyền trung ương. Mục tiêu của các chính sách trọng thương mới là làm tăng mức dự trữ ngoại hối do chính phủ nắm giữ, cho phép chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa hiệu quả hơn.
<b>3. Đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương mới</b>
Trên lý thuyết, cũng gần như trong thực tế, chủ nghĩa trọng thương bắt đầu bị giảm vai trò từ cuối thế kỷ thứ 18. Tuy nhiên, bất chấp làn sóng tồn cầu hóa và sự mở rộng tự do thương mại trên phạm vi toàn cầu, chủ nghĩa trọng thương vẫn không hề biến mất. Khi các quy định về tự do thương mại buộc các quốc gia phải hạ bớt hoặc phá bỏ hàng rào thuế quan, những biện pháp bảo hộ của chủ nghĩa trọng thương cổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">điển, các quốc gia quay sang áp dụng các chính sách được gọi là “chủ nghĩa trọng thương mới”. Chính vì vậy, có thể nói những chính sách mang tính bảo hộ của chủ nghĩa trọng thương vẫn tiếp tục tồn tại và là một phần không thể thiếu trong chính sách kinh tế của nhiều quốc gia ngày nay.
Tập trung vào việc tối đa hóa sự giàu có và quyền lực của nhà nước, những quốc gia theo chủ nghĩa trọng thương mới thường ít quan tâm đến các mục tiêu mang tính hợp tác hơn là tăng cường hịa bình và thịnh vượng tồn cầu. Thay vào đó, nhiều người coi chính trị thế giới là một dạng đấu tranh sinh tồn giữa các quốc gia đòi hỏi phải thể hiện quyền lực một cách hung hãn ở nước ngồi, bao gồm cả thơng qua sự chinh phục và cai trị của đế quốc. Trong lĩnh vực kinh tế, họ cũng thường quan tâm đấu tranh trong các cuộc chiến thương mại.
Chủ nghĩa trọng thương mới đương đại không chủ yếu quan tâm đến thương mại hay thặng dư cán cân thanh toán. Chủ nghĩa trọng thương mới “có thể có nhiều hình thức trong thế giới hiện đại”, bao gồm:
Tăng cường xuất khẩu: mong muốn thặng dư cán cân thanh toán, xuất khẩu càng nhiều càng tốt (số lượng) và xuất khẩu nhiều hàng hóa có giá trị cao hơn hàng hóa có giá trị thấp (giá trị); khơng khuyến khích xuất khẩu nguyên liệu mà sử dụng nguyên liệu đó để sản xuất trong nước rồi đem xuất khẩu thành phẩm, về nhập khẩu, áp dụng các chính sách trợ cấp xuất khẩu để kích thích việc bán hàng hóa ra nước ngoài.
Hạn chế nhập khẩu: áp đặt các biện pháp kiểm soát xuất nhập khẩu, giữ nhập khẩu ở mức độ tối thiểu và dành ưu tiên cho nhập khẩu nguyên liệu so với thành phẩm, nhất là hàng xa xỉ. Chính phủ hạn chế nhập khẩu bằng công cụ bảo hộ mậu dịch và việc buôn bán được thực hiện bằng các công ti độc quyền của nhà nước, hạn ngạch nhập khẩu, hay hàng rào kỹ thuật.
Dự trữ tiền, vàng bạc: Họ tin rằng một quốc gia có thể cải thiện dự trữ vàng của mình từ sự thua thiệt của quốc gia khác, tạo nên của cải và quyền lực cho quốc gia đó.
Quyền lực của nhà nước được nâng cao: Chủ nghĩa trọng thương mới nhấn mạnh vai trò trung tâm của nhà nước trong các sự kiện kinh tế và chính trị tồn cầu, nhìn thế giới dưới góc độ một trị chơi có tổng bằng 0, hay lợi ích tương đối, trong đó lợi ích của một quốc gia là tổn thất của quốc gia khác. những quốc gia theo chủ nghĩa trọng thương mới ưu tiên chính trị hơn kinh tế, thừa nhận tầm quan trọng của thị trường nhưng họ tin rằng thị trường phải phục vụ lợi ích của nhà nước và chính phủ phải đảm bảo rằng thị trường phục vụ quyền lực của nhà nước so với các quốc gia khác. Mặt khác, chủ nghĩa trọng thương mới tin
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">rằng nhà nước đang kiểm sốt dịng chảy của những chủ thể này và có thể ngăn chặn nó nếu muốn. Những người theo chủ nghĩa trọng thương mới cũng tin rằng nhà nước phải “đóng vai trị tích cực trong việc thúc đẩy thương mại, định hình chính sách đầu tư và hỗ trợ các doanh nghiệp quốc gia” .Vai trò can thiệp này của nhà nước đặc biệt đúng, dựa trên kỳ vọng hiện thực rằng nhà nước sẽ can thiệp khi lợi ích của các chủ thể trong nước khác xa với lợi ích của nhà nước và khỏi nhu cầu thiết yếu của lợi ích quốc gia.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN1. Khái quát chung về Nhật Bản</b>
<b>1.1 Khái quát về nền kinh tế của Nhật Bản từ xưa tới nay 1960 đến nay vì khi đólà “Kỳ tích Nhật Bản thời hậu chiến”</b>
Trong giai đoạn những năm 1960 đến 1980, tăng trưởng kinh tế chung là rất nhanh: trung bình 10% vào những năm 1960, 5% trong những năm 1970 và 4% vào những năm 1980. Vào cuối giai đoạn này, Nhật Bản đã trở thành nền kinh tế có thu nhập cao. Trong khoảng 20 năm sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai (1951-1973), đây được coi là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản, nhờ sự đồng lịng của tồn thể nhân dân Nhật Bản và sự phát triển của các nền công nghiệp luyện kim, cơ khí. Nhật Bản đã trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 trong thế giới tư bản sau Mỹ và trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính thế giới cùng với Mỹ và Tây Âu.
Sau thời kì kinh tế "bong bóng" 1986-1990 (giá đất và giá cổ phiếu leo thang mạnh mẽ. Sự tăng giá của các loại tài sản này làm cho nhiều cá nhân và công ty trở nên giàu có trong phút chốc. Sản xuất và chi tiêu đã bị kích thích làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế nhảy vọt. Thế nhưng sự sụp đổ về sau cũng nhanh khơng kém sự phình to mãnh liệt ban đầu của nó, nên được gắn với cái tên bong bóng) , sự sụp đổ của bong bóng tài sản năm 1991 diễn ra tại Nhật Bản đã tạo ra một thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ hay còn được biết đến với cái tên gọi là thập niên mất mát, kinh tế Nhật đã trì trệ suốt hơn 30 năm kể từ đó tới nay. Tính đến năm 2021, Nhật Bản có mức nợ cơng cao hơn đáng kể so với bất kỳ quốc gia phát triển nào khác với mức 266% GDP. Các khoản nợ này chủ yếu là đến từ trong nước với 45% được nắm giữ bởi Ngân hàng Nhật Bản.
Hiện nay, kinh tế Nhật Bản còn phải đối mặt với một thách thức mới là tình trạng già hóa dân số khiến lực lượng lao động bị thiếu hụt. Trong tương lai 10 năm tới, kinh tế Nhật Bản nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì mức tăng trưởng rất chậm (khoảng 0,5 -1% mỗi năm), khó có thể tăng tốc nhanh hơn.
<b>1.2 Khái quát về thị trường xuất khẩu </b>
Theo số liệu thống kê thương mại năm 2021 được công bố, kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản đạt 83.931,1 tỷ JPY, tăng 21,5% so với năm 2020. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản tăng chủ yếu nhờ nhu cầu sắt thép của Hàn Quốc và nhu cầu về thiết bị sản xuất vật liệu bán dẫn của Trung Quốc tăng. Bên cạnh đó, xuất khẩu ơtơ tăng cũng góp phần khơng nhỏ vào việc gia tăng của kim ngạch xuất khẩu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Năm 2022, xuất khẩu nông lâm thủy sản của Nhật Bản đạt hơn 1.413 tỷ yên trong năm 2022, tăng 14,3% so với năm 2021. Đây là năm thứ 10 liên tiếp kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này của Nhật Bản tăng. Các mặt hàng ơtơ và sắt, thép góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu do nhu cầu tăng mạnh ở các thị trường quốc tế trong bối cảnh các tác động tiêu cực năm tài chính 2022 đã khiến chi phí nhập khẩu tăng cao.
Năm 2023, chính phủ Nhật Bản sẽ duy trì mục tiêu tăng xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy, hải sản và lương thực lên 2.000 tỷ yên (khoảng 13,5 tỷ USD) vào năm 2025 và 5.000 tỷ Yên vào năm 2030, so với mức 1.400 tỷ yên trong năm 2022. Nhật Bản muốn tìm kiếm các thị trường có thể bán các mặt hàng giá trị cao một cách hiệu quả nhất và triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại.
Nhật Bản đứng top 5 trong các nước có giá trị và thị phần xuất khẩu lớn nhất thế giới trong 3 quý của 2023 cho thấy thị trường xuất khẩu của Nhật Bản đang khá suôn sẻ
<b>1.3 Khái quát về thị trường nhập khẩu</b>
Bộ Tài chính Nhật Bản cho biết trong tháng 11/2021, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Nhật Bản tăng tới 43,8% lên mức cao kỷ lục do dầu thô tăng giá và đồng yên yếu, khiến thâm hụt thương mại của nước này tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 1/2020.
Theo Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ), chỉ số giá nhập khẩu của Nhật Bản năm 2022, dựa trên các giao dịch của doanh nghiệp, đã tăng khoảng 30% trong năm vừa qua vì giá nhiên, nguyên liệu đều tăng cao, trong khi chỉ số giá xuất khẩu chỉ tăng 10%. Đồng yên mất giá so với đồng đô la Mỹ cùng với giá dầu tăng cao do ảnh hưởng cuộc chiến Nga-Ukraina, chính sách Zero Covid của Trung Quốc khiến chi phí sản xuất tăng (khi giá nguyên vật liệu đầu vào và chi phí vận chuyển cùng tăng), đẩy giá thành sản phẩm bán ra cao hơn, những mặt hàng thiết yếu cũng lên giá từng năm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Năm 2023, Nhật Bản nỗ lực để đảm bảo có thể nhập khẩu lương thực và nguyên liệu sản xuất một cách ổn định, tránh tình trạng quá phụ thuộc vào một số thị trường.
<b>2. Lý do Nhật Bản theo trường phái trọng thương mới2.1. Sự can thiệp của chính phủ vào phát triển kinh tế:</b>
2.1.1 Chính phủ áp dụng liên quan đến các chính sách về ngoại hối hay tỷ giá hối đối:
22/09/2022: Chính phủ và Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã thông báo quyết định tiến hành can thiệp ngoại hối bằng cách bán USD và mua vào đồng Yên. Việc Nhật Bản can thiệp vào thị trường tiền tệ bằng cách mua đồng yên là hiếm khi xảy ra. Thay vào đó, Bộ Tài chính nước này thường bán ra đồng yên để ngăn sự tăng giá của đồng nội tệ - nhân tố có thể gây tổn hại cho nền kinh tế có độ phụ thuộc lớn vào xuất khẩu vì khiến hàng hoá Nhật Bản giảm khả năng cạnh tranh ở nước ngoài. Ngay sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) quyết định nâng lãi suất thêm 0,75 điểm phần trăm và BOJ quyết định tiếp tục duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ, tỷ giá đồng Yên so với USD đã giảm xuống mức kỷ lục trong 24 năm qua là 145 yen đổi 1 USD. Khi thơng tin Chính phủ Nhật Bản và BoJ quyết định thực hiện can thiệp ngoại hối, tỷ giá đồng Yên đã bị tác động và chỉ khoảng 1 tiếng sau đó, đồng yên đã tăng lên mức 140 yên đổi 1 USD.
Như vậy, Chính phủ Nhật Bản và Ngân hàng chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách tiền tệ lỏng lẻo sẽ tạo ra lạm phát ổn định và thúc đẩy tăng trưởng phù hợp với tốc độ tăng giá tiêu dùng. Đồng thời, tăng cạnh tranh về giá cho các mặt hàng xuất khẩu ở nước ngoài.
2.1.2 Tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế, vừa là chủ thể quản lý kinh tế vừa là chủ thể đầu tư đối với các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế:
Trong thời kỳ kiến tạo lại nền kinh tế, Nhà nước Nhật Bản thực hiện chính sách đầu tư ổn định. Giảm đầu tư trong những năm phồn vinh nhằm tránh cho nền kinh tế phát triển quá nóng và tăng trong những năm khủng hoảng nhằm dịu mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng.
Nhà nước Nhật Bản nắm khoảng 1/3 tổng số vốn đầu tư tư bản cố định trong nước. Nhà nước chủ yếu đầu tư vào cơ sở hạ tầng của sản xuất và xã hội, vào xây dựng cơ sở ngành công nghiệp mới, vào nghiên cứu khoa học. Nhà nước Nhật Bản tích cực khuyến khích đầu tư vào các ngành đòi hỏi vốn lớn như các ngành cơng nghiệp nặng và hóa chất, đặc biệt là vào các dự án có độ rủi ro cao, nhằm đổi mới trang thiết bị và tài sản cố định của các doanh nghiệp có chủ trương phát triển sản xuất thay thế cho hàng nhập khẩu.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Theo các số liệu thống kê, trước những năm 1950, thiết bị của các doanh nghiệp Nhật Bản hầu hết là cũ kỹ lạc hậu: Năm 1952 chỉ có 29% tổng số thiết bị chế biến kim loại dưới 10 năm tuổi, nhưng tỉ lệ này đã tăng lên 56% vào năm 1963 và 65% vào năm 1967. Trong các ngành công nghiệp nặng then chốt khác, tỉ lệ đổi mới thiết bị cũng rất cao. Cuối năm 1967, tổng số máy cái chưa đầy 10 năm tuổi trong các ngành luyện kim đen chiếm tới 71%, trong ngành sản xuất máy chính xác và đo lường: 69%, trong ngành chế tạo máy vận tải: 68%, trong ngành điện tử: 66%. Như vậy có thể thấy là vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960, Nhật Bản đã tập trung được cao độ vốn đầu tư cho việc đổi mới trang thiết bị và tài sản cố định trong các ngành công nghiệp.
Ngày nay, để ổn định nguồn cung quan trọng cho nền kinh tế như chất bán dẫn, Chính phủ Nhật Bản đang trợ cấp cho đầu tư trong nước khoảng 476 tỷ Yen (3,3 tỷ USD) đang được cung cấp cho TSMC - công ty bán dẫn của Đài Loan (Trung Quốc) xây dựng một nhà máy ở tỉnh Kumamoto và khoản trợ cấp lên tới 192 (1,3 tỷ USD) cho nhà máy bán dẫn đầu tư bởi Micron Technology của Mỹ tại Hiroshima.
Có thể thấy, Chính phủ Nhật Bản đã rất thành cơng trong việc phân phối nguồn vốn của mình để đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư cố định. Các nguồn vốn này đã được phân phối một cách có trọng điểm dưới chính sách “tài chính ưu đãi” dành cho các ngành cơng nghiệp cần được khuyến khích phát triển. Chính sách này đã được thực hiện dưới các hình thức như cho vay với lãi suất ưu đãi, ưu tiên cho việc nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào, kỹ thuật và công nghệ, đầu tư vào các dự án có độ rủi ro cao, và xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp.
2.1.3 Thúc đẩy, tạo điều kiện phát triển nhanh các ngành kinh tế và khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là các lĩnh vực công nghiệp mới.
Vào thời kì khơi phục kinh tế, Chính phủ Nhật Bản chọn cách đầu tư vào các ngành công nghiệp mục tiêu, tập trung hỗ trợ và bảo vệ bằng cách đưa ra những ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp lớn hoạt động trong các ngành này. Trước hết là ngành công nghiệp năng lượng, nhiên liệu, đặc biệt tăng đầu tư vào ngành dầu lửa, giảm tỷ trọng ngành than đá.
Ngành cơng nghiệp luyện kim, cơng nghiệp hóa dầu được Nhà nước chú ý đầu tư để đổi mới, và hiện đại hóa, nhờ đó Nhật Bản đã đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu, chiếm ưu thế trên thị trường thế giới về chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt, các ngành công nghiệp chế tạo máy, ngành cơng nghiệp đóng tàu có vai trị quan trọng trong điều chỉnh cơ cấu công nghiệp sau chiến tranh. Từ năm 1952-1964, đầu tư vào ngành chế tạo máy tăng 23 lần từ 20,4 tỷ Yên lên 556 tỷ Yên; giá bán tàu đóng mới của Nhật Bản rẻ hơn so với châu Âu từ 20 đến 30%.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Ngoài ra, Nhà nước bảo vệ hiệu quả các ngành cơng nghiệp cịn non yếu, khuyến khích mở rộng các ngành cơng nghiệp mới và ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu. Để bảo vệ ngành cơng nghiệp cịn non trẻ trong nước, Hội đồng điều tra cơ cấu công nghiệp của Bộ Cơng nghiệp và Thương mại quốc tế (MITI) được hình thành vào tháng 4-1961. Sau đó, các quan chức MITI bắt đầu soạn thảo các khuôn khổ chung nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các công ty thông qua khuyến khích sáp nhập và các phương pháp hợp lý khác.
Từ sự thay đổi cơ cấu ngành đầu tư, dẫn đến thay đổi cơ cấu xuất nhập khẩu của Nhật Bản. Về xuất khẩu, nếu như năm 1955, xuất khẩu sản phẩm dệt chiếm tỷ trọng cao đến 40%, thì đến 1965 chỉ cịn 19% và đến 1971 cịn 11%. Hiện nay, các sản phẩm vải bơng, may mặc khơng cịn nằm trong mặt hàng xuất khẩu tốt nữa mà xuất khẩu sản phẩm từ công nghiệp chế tạo (40%) và sản xuất ngành điện tử giữ vị trí quan trọng. Năm 2022, Nhật Bản sản xuất khoảng 25% sản lượng ôtô của thế giới và xuất khẩu khoảng 45% số xe sản xuất ra, tàu biển chiếm khoảng 41% sản lượng xuất khẩu của thế giới. Tiếp đó, ngành cơng nghệ điện tử, sản phẩm tin học chiếm khoảng 22% sản phẩm công nghệ tin học thế giới; vi mạch và chất bán dẫn đứng đầu thế giới về sản xuất, vật liệu truyền thông đứng thứ hai thế giới; Robot (người máy) chiếm khoảng 60% tổng số robot của thế giới và sử dụng robot với tỉ lệ lớn trong các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, dịch vụ. Qua đó thấy được rằng Nhật Bản luôn luôn thúc đẩy các lĩnh vực công nghệ mới
Với bối cảnh hiện nay, Chính phủ Nhật Bản đã thành cơng triển khai các chính sách thúc đẩy CMCN 4.0 - “ Chiến lược tồn diện cho khoa học, cơng nghệ và đổi mới sáng tạo”, cùng với đó, các công nghệ trọng tâm cũng được ưu tiên phát triển trong Chiến Lược là công nghệ số, công nghệ nano và cơng nghệ mơi trường. Chưa dừng lại ở đó, Nhật Bản đã bắt đầu xây dựng xã hội 5.0 với các ngành công nghiệp hàng đầu. Là cái nôi của nền công nghiệp chế tạo robot, ngành Robot/Al của Nhật đang áp dụng nhiều phương pháp cải tiến và cho ra đời những loại robot thông minh, hỗ trợ trong việc sản xuất và quản lý. Ngồi ra, cơng nghệ thực tế ảo, ứng dụng cuộc sống cũng đang phát triển mạnh mẽ tại đất nước mặt trời mọc và dần trở thanh những ngành mũi nhọn trong công nghiệp Nhật Bản.
Như vậy, Nhà nước Nhật Bản tuy có tác động lên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, nhưng đặt trọng tâm ở phát triển kinh tế. Để thực hiện được điều đó, Nhà nước Nhật Bản đã sử dụng những doanh nghiệp lớn. Những doanh nghiệp này được rót một lượng vốn lớn, nắm giữ những ngành thiết yếu (ví dụ: Mitsubishi hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực như: ngân hàng, thương mại, ô tơ, năng lượng, hóa chất...), có vai trị tạo động lực phát triển cho toàn bộ nền kinh tế. Sự điều tiết của nhà nước thông qua
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">những tập đồn kinh tế sẽ góp phần tác động trực tiếp lên nền kinh tế. Mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp và Chính phủ Nhật Bản là một khía cạnh quan trọng giúp gia tăng khả năng kiểm soát của Nhà nước trong điều phối khu vực tư nhân, nhắm tới mục tiêu đạt được tăng trưởng nhanh và bền vững.
<b>2.2.Nhật Bản khuyến khích xuất khẩu</b>
2.2.1.Thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước xuất khẩu
Kỹ thuật cao và đổi mới công nghệ: Nhật Bản đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển kỹ thuật cao và đổi mới công nghệ, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Xúc tiến thương mại và đầu tư: Chính phủ Nhật Bản đã triển khai chính sách xúc tiến thương mại và đầu tư, bao gồm tổ chức các sự kiện thương mại, hội chợ triển lãm và triển khai chương trình tài trợ để tăng cường xuất khẩu và thu hút đầu tư từ các quốc gia khác.
Hỗ trợ các ngành cơng nghiệp chủ chốt: Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường hỗ trợ cho các ngành công nghiệp chủ chốt, như ô tô, điện tử và máy móc, để nâng cao khả năng cạnh tranh và tăng cường xuất khẩu.Chính phủ Nhật Bản đã cơng bố một loạt biện pháp nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp ô tô vốn dễ bị tổn thương, bao gồm viện trợ tài chính cho các cơng ty muốn chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc về nước hoặc tới các quốc gia Đơng Nam Á. Những nhà sản xuất có thể tiếp cận các khoản vay và hỗ trợ vốn có của chính phủ, nhưng các gói hỗ trợ này thường được thiết kế dành cho khối doanh nghiệp nhỏ.
Xây dựng hệ thống hậu cần vận tải: Nhật Bản đã đầu tư vào việc xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng vận tải, bao gồm cả cảng biển, đường sắt và đường bộ, nhằm tăng cường khả năng vận chuyển hàng hóa ra khỏi đất nước.
Để mở rộng xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ, Chính phủ Nhật Bản đã cung cấp một khoản tiền 20 triệu đô la với nghĩa là tiền viện trợ cho Thổ Nhĩ Kỳ. Với khoản tiền này Thổ Nhĩ Kỳ có thể mua được nhiều hàng hóa Nhật Bản hơn.
Chính sách tăng cường thương mại: Nhật Bản đã tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do, như Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP-11). Điều này đã mở rộng thị trường tiềm năng và giảm thuế nhập khẩu đối với các hàng hóa Nhật Bản.
Các doanh nghiệp trong nước được Nhật Bản hỗ trợ
Công ty Honda sau khi thâm nhập thị trường Việt Nam năm 1958, đến năm 1996 đã quyết định thành lập công ty liên doanh ở nước ta, lập ra những nhà
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">máy lắp ráp ô tô xe máy, cung cấp cho thị trường Việt Nam và thị trường nước ngoài. Nhật Bản cũng tăng cường viện trợ cho Đông Nam Á, tạo thuận lợi cho việc bán các mặt hàng chế tạo của Nhật và thúc đẩy mối quan hệ với khu vực này.
Ngày 08/03/2016, hãng tin Kyodo dẫn nguồn báo cáo thường niên về viện trợ nước ngồi của Nhật Bản cho biết Chính phủ Nhật Bản sẽ tăng cường viện trợ tới các nước châu Á. Báo cáo trên, vốn là Sách Trắng của Bộ Ngoại giao Nhật Bản về viện trợ phát triển chính thức, cho thấy Tokyo có ý định giúp bảo vệ những tuyến đường biển trọng yếu trong khu vực, gồm những tuyến đường xung quanh các quốc gia thành viên ASEAN. Báo cáo chỉ rõ, với mục đích phát triển “các giá trị toàn cầu dựa trên trật tự” tại Đơng Á, gồm có khu vực Đơng Nam Á, Nhật Bản sẽ ủng hộ nỗ lực của các nước khu vực nhằm cải thiện an ninh trên biển, cũng như xây dựng cơ sở hạ tầng.
Trong năm 2020, Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) công bố danh sách 30 doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực cơng nghiệp hỗ trợ của nước này, có nhà máy ở các nước Đông Nam Á, đủ điều kiện để nhận hỗ trợ chuyển dịch, mở rộng nhà máy. Đây là những doanh nghiệp được lựa chọn đầu tiên trong số 124 doanh nghiệp đã đăng ký của chương trình "Hỗ trợ đa dạng hóa chuỗi cung ứng ở nước
</div>