Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.32 MB, 37 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b> TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI </b>
i
<b>LỜI CẢM ƠN </b>
<i>"Đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Thương mại đã đưa môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam vào chương trình giảng dạy. Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn – Cô Nguyễn Thị Lan Phương đã dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam của cơ, chúng em đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích, tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm túc. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý báu, giúp chúng em mở </i>
<i><b>mang tầm hiểu biết của mình.. </b></i>
<i>Bộ mơn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam là mơn học hay, vơ cùng bổ ích và đảm bảo cung cấp đủ kiến thức cơ bản, hệ thống về quá trình lịch sử phát triển liên tục của lịch sử Việt Nam, gắn liền với nhu cầu hiểu biết của sinh viên. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn nhiều hạn chế và khả năng tiếp thu kiến thức cịn nhiều bỡ ngỡ, do chưa có nhiều kinh nghiệm làm đề tài cũng như những hạn chế về kiến thức, trong bài thảo luận chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Cơ để bài thảo luận của chúng em được hồn thiện hơn.</i>
<i>Lời cuối cùng, em xin kính chúc Cơ nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc.” </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">1.2. Nguyên nhân của cuộc chiến tranh ... 6
1.3. Diễn biến cuộc chiến tranh ... 7
1.4. Kết quả và ý nghĩa của cuộc chiến tranh ... 14
<b>PHẦN 2: BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM TRONG LĨNH VỰC ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG ... 18 </b>
2.1. Đối với Đất nước ... 18
2.2. Liên hệ với thế hệ thanh niên ... 26
<b>PHẦN KẾT LUẬN ... 29 </b>
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 32 </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">1
Lịch sử Việt Nam từ khi ra đời đến nay là lịch sử dựng nước và giữ nước gắn bó với nhau. Vừa dựng nước người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ cuộc kháng chiến chống quân Tần ở thế kỷ III TCN, đến cuối thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam ta phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến tranh giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng.
Một điều đã trở thành quy luật của các cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam là phải “Lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”. Dựng nước luôn luôn gắn chặt với giữ nước, trong đó dựng nước là yếu tố cơ bản. Phải xây dựng được đất nước hùng mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng chiến thắng các thế lực thù địch và phải giữ được nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Trong quá trình hình thành và phát triển, truyền thống đó có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ tư tưởng và các thành quả tinh thần và vật chất của nhân dân ta
Gần chúng ta nhất với độ lùi của lịch sử 45 năm, ghi nhận cuộc chiến đẫm máu khó tránh khỏi của dân tộc ta sau khi dành chiến thắng vẻ vang trước các đế quốc xâm lược Pháp và Mỹ, đó là cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam nhằm bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Và để hiểu sâu hơn về cuộc chiến tranh này, làm rõ nguyên nhân, bản chất của nó cũng như hiểu hơn những mất mát hy sinh của những anh hùng đã ngã xuống, vì nước quên thân, vì độc lập của Tổ quốc mà không màng danh lợi, đồng thời rút ra những bài học đắt giá, giúp chúng ta có được sự tỉnh táo, vững vàng trước mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại nền độc lập của đất nước, để từ đó xác định được trách nhiệm của một công dân đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn
<i>hiện nay, nên chúng em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu về cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng” làm đề tài thảo luận. </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><i><b>1.1.1. Bối cảnh của cuộc chiến tranh </b></i>
Từ lâu, nhân dân Việt Nam - Campuchia đã xây dựng tình hữu nghị, đồn kết cùng chống kẻ thù chung, đặc biệt đã kề vai sát cánh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược giành độc lập và tự do. Tuy nhiên, do bị các thế lực phản động nước ngồi kích động, lợi dụng, từ những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ (1970 - 1975), quân Pol Pot đã tiến hành một số vụ tiến cơng, bắt cóc giết hại cán bộ, bộ đội Việt Nam hoạt động ở chiến
trường Campuchia, gây chia rẽ nội bộ những người cộng sản Campuchia, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam Phạm Văn Trà cho biết: Năm 1972, nhiều đơn vị của Quân khu 9 sang Campuchia đã bị Khmer Đỏ giết hại. Một bệnh viện của Sư đoàn 1 tại Takéo cũng bị Pol Pot cho phá hủy. Tính 6 tháng đầu năm 1972, riêng Quân khu 203 (Quân khu Đông Nam của Campuchia) đã xảy ra 26 vụ giết bộ đội Việt Nam, 17 vụ cướp vũ khí, 385 vụ bắt cóc, 413 vụ tịch thu hàng hóa. Sáu tháng đầu năm 1973, quân Khmer Đỏ gây ra 102 vụ, giết và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực, vũ khí. Từ năm 1970 đến 1973, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung lực lượng đánh Mỹ và chế độ tay sai ở miền Nam thì Khmer Đỏ đã gây ra 174 vụ khiêu khích, tập kích các hậu cứ, cướp vũ khí, lương thực, giết hơn 600 cán bộ và binh lính của họ
Tháng 4-1975, sau khi lên nắm quyền, tập đoàn Pol P ot đã phản bội lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân Campuchia và phá hoại truyền thống đoàn kết, hữu nghị của nhân dân hai nước, cụ thể là:
<i>Ở trong nước, chúng phạm sai lầm đặc biệt nghiêm trọng, thực thi chính sách </i>
diệt chủng tàn khốc, cưỡng bức lao động khổ sai, tra tấn hành hạ dã man người dân
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">3
Campuchia; biến trường học, nhà chùa thành nhà tù, khắp mọi nơi đầy những hố chôn người tập thể… Do bị Khmer Đỏ truy sát, hàng chục ngàn người Campuchia đã chạy trốn sang Lào, Thái Lan, Việt Nam. Trong 2 năm (1975 - 1976), đã có trên 15.000 người Campuchia chạy sang Việt Nam. Từ tháng 4-1975 đến cuối năm 1978, chế độ Pol ot P đã giết hại gần 3 triệu người dân Campuchia vô tội, xóa bỏ mọi cơ sở xã hội, xóa bỏ thành thị, xóa bỏ sản xuất cơng nghiệp và thủ cơng nghiệp, xóa bỏ quan hệ tiền tệ, bn bán và đẩy Campuchia đứng trước thảm họa diệt vong.
<i>Đối với Việt Nam, được các thế lực phản động nước ngoài hậu thuẫn, tập đoàn </i>
Pol Pot chủ trương phá hoại quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống lâu đời giữa Việt Nam và Campuchia; ra sức vu khống Việt Nam, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hịi; kích động xét lại quan hệ hai nước, đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam - Campuchia và tiến hành hàng loạt những cuộc xâm lấn biên giới, giết hại dân thường trên biên giới Việt Nam - Campuchia.
<i><b>1.1.2. Lực lượng 2 bên • Về phía Việt Nam: </b></i>
Chỉ huy trực tiếp chiến dịch là trung tướng Lê Trọng Tấn, lực lượng được huy động bao gồm:
- Quân khu 5 của thiếu tướng Đoàn Khuê: gồm hai sư đoàn 307, 309 và Lữ đồn đặc cơng 198 xuất qn từ căn cứ ở Ou Ya Dav (Rattanakiri) mà Quân khu 5 đã làm chủ được từ tháng 11/1978 đánh dọc theo quốc lộ 78 (Campuchia, nối với đường 19 Việt Nam), quốc lộ 64, quốc lộ 62 về hướng Tây để tiêu diệt quân Khmer Đỏ ở Rattanakiri, Stung Treng, và các tỉnh tây bắc Campuchia giáp Lào và Thái Lan.
- Quân khu 7 của trung tướng Lê Đức Anh: gồm các sư đoàn , 302, 303, Trung 5 đồn đặc cơng 117, được tăng cường thêm một số đơn vị của Quân đoàn 3 như Lữ đoàn 12 thiết giáp, những trung đoàn chủ lực các tỉnh Tây Ninh Long An, , Sông Bé, Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn 26 thiết giáp, Trung đồn cơng binh 25 qn khu 7 (gồm các tiểu đoàn 739 cầu đường, tiểu đoàn 278 bom mìn, tiểu đồn 98 xe máy, tiểu đồn 741 cầu phà), 3 tiểu đoàn Khmer UFNSK. Lực lượng quân khu 7 từ phía bắc Tây Ninh và từ khu căn cứ của UFNSK quanh Snuol tiến quân lên hướng Bắc dọc theo Quốc
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">4
lộ 13 (Việt Nam) và Quốc lộ 7 (Campuchia) đánh chiếm Kratié (đông bắc Campuchia), vượt sông Mekong ởSambourđánh vu hồi vàoKampong Cham rồi sang Kampong Thom, Siem Reap, Battambang.
- Quân đoàn 2 do thiếu tướng Nguyễn Hữu Anlàm tư lệnh và thiếu tướng Lê Linh làm chính ủy, gồm các Sư đoàn 304, 325, được bổ sung Trung đoàn bộ binh 8, cũng từ Tịnh Biên (An Giang Hà Tiên - ) đánh theo hướng tây để hỗ trợ lực lượng Quân khu 9 đánh về Phnom Penh, chiếm Kampotvà vùng duyên hải Đông Nam Campuchia. Sư đồn 306 mới thành lập khơng kịp tham gia chiến dịch vì chưa hồn thành cơng tác huấn luyện. Từ An Giang, quân Việt Nam chia quân tấn công hai hướng. Hướng thứ nhất theo Quốc lộ 2 tiến về hướng Bắc đánh về Phnom Penh. Hướng thứ hai tiến theo duyên hải về hướng Tây đánh chiếm hải cảng Kompong Som, Sư đoàn 304 được dùng làm dự bị, có thể được dùng tăng cường trong trường hợp Qn đồn 4 tấn cơng Phnom Penh gặp khó khăn.
- Qn đồn 3 của thiếu tướng Nguyễn Kim Tuấn, gồm các Sư đoàn 10, , 31 320, được bổ sung Sư đoàn 302, đánh từ Tây Ninh, vượt quatỉnh Kampong Cham cũđến sơng Mê Kơng và đánh vào Phnom Penh từ phía bắc.
- Quân đoàn 4 của thiếu tướng Hoàng Cầm, gồm các Sư đoàn 7, 9, 341, được bổ sung thêm Sư đoàn 2 (quân khu 5), cùng Lữ đoàn 22 thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đồn 25 cơng binh và 3 tiểu đồn Khmer của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia (UFNSK) thân Việt Nam, tấn công từ hướng tây và tây nam Tây Ninh, sau khi đã tái chiếm những vị trị trên tỉnh lộ 13, theo đường 1 qua tỉnh Svay Riêngnhắm đánh bến phà chiến lược Neak Luong để đến Phnom Penh.
- Quân khu 9 của thiếu tướng Nguyễn Chánh: gồm các sư đoàn 4, 330, 339 từ khu vực Tịnh Biên tấn công qua tỉnh Takéo, hướng về Phnom Penh.
- Lực lượng đổ bộ đường biển gồm Lữ đoàn 126 và Lữ đoàn 101 hải quân đánh bộ đổ bộ vào vùng duyên hải đông nam Campuchia để chiếmReamvà cảng Sihanoukville trên bán đảo Kampong Som.
- Đoàn 901 khơng qn: gồm Sư đồn khơng qn 372 được trang bị máy bay tiêm kích F-5, máy bay cường kích A-37, máy bay trực thăng UH-1, Mi-24, máy bay vận tải C-130, C-119, C-47 và 1 phân độiMiG-21 từ Trung đoàn 921.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">5
- Tổng quân số ước tính: 250.000 người, gồm 18 sư đoàn bộ binh, nhiều trung đoàn, lữ đoàn binh chủng và đội địa phương. Về trang bị vũ khí có 600 tăng thiết giáp, hơn 400 khẩu pháo cỡ lớn và 139 máy bay chiến đấu, máy bay vận tải, 10.000 xe ơ tơ. Các sư đồn Việt Nam đều có các đơn vị cơ hữu thiết giáp, pháo binh, pháo phịng khơng và một lữ đồn cơng binh. Theo phía Việt Nam, có 10.000 - 15.000 quân UFNSK tham gia chiến dịch, tuy nhiên theo các phân tích viên quốc tế, đây là con số phóng đại, chỉ có chừng vài trăm quân UFNSK trực tiếp tham gia chiến dịch, còn lại đại bộ phận làm công tác liên lạc, đảm bảo hậu cần, phiên dịch...
Để phát huy tối đa hiệu suất chiến đấu, QĐNDVN tái sử dụng lại một số máy bay, xe thiết giáp của Mỹ mà họ tịch thu được trong chiến tranh trước đây (xe thiết giáp M113, máy bay A- , trực thăng UH-1). Đồng thời, QĐNDVN đã huy động một 37 số cựu binh quân đội Sài Gịn cũ để vận hành và bảo trì những thiết bị đó; cũng như huy động tối đa lực lượng thanh niên xung phong các tỉnh Nam Bộ làm công tác tải đạn, tản thương và tiếp tế.
<i><b>• Về phía Khmer Đỏ: </b></i>
Theo phía Việt Nam, lực lượng Khmer Đỏ gồm có 23 sư đồn, cịn theo tác giả Steven Heder thì qn Khmer Đỏ gồm chừng 15 sư đoàn. Các sư đoàn này được trang bị tốt bằng vũ khí của Trung Quốc, được chỉ huy bởi các chỉ huy dày dạn kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh vừa qua, gồm nhiều binh lính trung thành đến cuồng tín, nhưng các sư đoàn này cũng đã bị nhiều hao tổn trong những lần giao tranh trước và quân số mỗi sư đoàn chỉ chừng 3.000 5.000 người, bằng một nửa quân số củ - a sư đoàn Việt Nam.
Các sư đoàn: 164, 170, 290, 310, 450, 703, 801, 902 - Một số máy bay chiến đấu T- . 28
- Một phân đội MiG-19, số MiG-19 này khơng kịp tham chiến vì khơng có phi cơng và rơi vào tay quân Việt Nam khi họ chiếm Phnom Penh
- Một sư đoàn thủy quân lục chiến, nhưng chiến đấu như bộ binh - Một sư đoàn hải quân, nhưng hầu hết chiến đấu như bộ binh - Một sư đồn khơng qn, nhưng chiến đấu như bộ binh. - Nhiều đơn vị xe tăng và pháo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">6
<b>1.2. Nguyên nhân của cuộc chiến tranh </b>
Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gịn. Ngày 04/05/1975, một tốn qn Khmer Đỏ đột
kích đảo Phú Quốc, 6 ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu. Tức giận vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, Hà Nội phản công giành lại các đảo này. Trận đánh ởPhú Quốc làm nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam và Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện
trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ. Tiếp theo sau cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập quy mô lớn vào Việt Nam.
Với Việt Nam, Pol Pot ra sức vu khống: “Việt Nam xâm lược, cướp đất, cướp đảo… của Campuchia”. Chúng kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, giết nhiều kiều bào Việt Nam; đòi hoạch định lại biên giới Việt Nam - Campuchia. Pol Pot tuyên bố Việt Nam là “kẻ thù truyền kiếp”, “kẻ thù số 1”, là “tai họa lớn nhất” của dân tộc Campuchia… Ngay sau khi Việt Nam hồn tồn giải phóng, chúng tấn công đảo Phú Quốc (ngày 04/05/975); tấn công đảo Thổ Chu (ngày 10/5/1975). Tại đây, chúng bắt và giết hơn 500 dân thường. Trên đất liền, chúng khiêu khích, tập kích vào bộ đội biên phòng, tự tiện di dời cột mốc biên giới ở các tỉnh: Tây Ninh, Kon Tum, Đắc Lắc…
Cuộc chiến tranh này đã được chính quyền Pol Pot chuẩn bị bài bản với tham vọng có thể giành được chiến thắng. Chúng phát triển quân chủ lực từ 7 sư đồn khi mới giải phóng lên 12 sư đồn qn chính quy với đầy đủ thành phần, binh chủng. Cuối tháng 4/1977, Pol Pot điều động 5 sư đoàn và hàng trăm khẩu pháo, xe tăng áp sát biên giới Việt Nam thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn vào lãnh thổ vùng biên giới Tây Nam của Việt Nam. Và từ đó cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam bùng nổ mãnh liệt.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">7
<b>1.3. Diễn bi n cuếộc chiến tranh </b>
<i><b>Cuộc chiến tranh diễn ra theo 2 giai đoạn: </b></i>
<i><b>1.3.1. Giai đoạn 1 (từ ngày 30/4/1977 đến ngày 05/01/1978): </b></i>
<i>Quân Pol Pot mở các cuộc tiến công quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam; cùng với việc tổ chức lực lượng vũ trang đánh lui quân địch, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục nỗ lực ngoại giao nhằm tìm kiếm giải pháp hịa bình. </i>
Với dã tâm xâm lược, mở đầu cuộc chiến tranh, Pol Pot liên tiếp mở 3 cuộc tiến công quy mô lớn sang lãnh thổ Việt Nam:
Ngày 30/4/1977, chúng đánh vào 14/16 xã biên giới thuộc tỉnh An Giang, tàn phá các bản làng, trường học, cơ sở sản xuất của ta, bắn pháo vào những nơi đông dân cư ở sát biên giới và vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Các cuộc tiến cơng và pháo kích của qn Pol Pot vào An Giang tính đến ngày 19/5/1977 đã giết hại 222 người và làm , 614 người dân Việt Nam bị thương, phá nhiều nhà cửa, tài sản của nhân dân,...
Trước hành động xâm lược trắng trợn của quân Pol Pot, các lực lượng biên phòng và dân quân, du kích các xã Vĩnh Xương, Vĩnh Gia, Nhân Hưng… đã anh dũng chiến đấu, ngăn chặn địch. Quân đội ta đã sử dụng 1 trung đoàn (thuộc Sư đoàn 330), 1 trung đoàn tàu thuyền và 2 tiểu đoàn địa phương An Giang đánh trả, diệt 300 tên, buộc quân Pol Pot rút về bên kia biên giới. Ngày 23/5/1977, Quân ủy Trung ương ra chỉ thị cho lực lượng vũ trang ở phía Nam: “Kiên quyết bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của ta, không dung thứ bất cứ sự xâm lấn nào của lực lượng khiêu khích phản động Campuchia vào lãnh thổ ta; đồng thời tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của Campuchia. Tìm mọi cách làm nhụt tinh thần của bọn khiêu khích. Tuyên truyền vận động nhân dân bạn và tranh thủ sự đồng tình của dư luận, tạo điều kiện ổn định một bước biên giới với Campuchia. Đập tan âm mưu chia rẽ các nước anh em trên bán đảo Đông Dương”
Thực hiện chỉ thị của Quân ủy Trung ương, các đơn vị Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 tổ chức điều chỉnh lực lượng, phương tiện, xây dựng phương án, sẵn sàng chiến đấu. Tổng cục Hậu cần triển khai một số kho, bảo đảm yêu cầu chiến đấu; các binh chủng Công binh, Pháo binh triển khai một số đơn vị sẵn sàng đánh địch ở các hướng; mạng thông tin liên lạc từ quân khu tới các đồn, chốt biên phòng được tăng cường thêm lực lượng và phương tiện.
Từ ngày 25/9/1977, quân Pol Pot tập trung 9 sư đoàn chủ lực cùng lực lượng địa phương mở cuộc tiến công lớn thứ 2 đánh sang địa bàn các tỉnh An Giang, Kiên Giang,
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">8
Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh, gây nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam. Riêng ở 3 xã thuộc các huyện Tân Biên, Bến Cầu (Tây Ninh), quân Pol Pot đã tàn sát trên một nghìn người dân.
Trước diễn biến mới của cuộc chiến tranh, do ta chưa tổ chức được tuyến phòng thủ biên giới, Bộ Tổng Tham mưu quyết định sử dụng một bộ phận lực lượng chủ lực cơ động của Bộ đánh lui các cuộc tiến công của quân Pol Pot ở nhiều khu vực trên biên giới, giành lại những khu vực bị lấn chiếm, sau đó lui về củng cố lực lượng.
Phát hiện ta đã lui quân về phía sau, ngày 15/11/1977, quân Pol Pot lại mở cuộc tiến công mới nhằm đánh chiếm thị xã Tây Ninh.
Trước tình hình đó, từ 5/12/1977 đến 5/01/1978, Qn đồn 4, Qn đoàn 3 và Quân khu 7, Quân khu 9 tập trung 8 sư đồn mở đợt phản cơng trên các hướng đường 7, đường 1, đường 2, truy kích quân Pol Pot sâu vào đất Campuchia 20-30km; đánh thiệt hại 5 sư đoàn, làm thất bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch.
Với âm mưu thủ đoạn nham hiểm “vừa ăn cướp, vừa la làng”, tập đoàn Pol Pot đưa chiến tranh biên giới ra trước dư luận thế giới: Ngày 31/12/1977, chúng ra tuyên bố vu khống Quân đội Việt Nam “tiến công xâm lược Campuchia dân chủ” nhằm cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
Cũng trong ngày 31/12/1977, Chính phủ ta ra tuyên bố về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia, nêu rõ lập trường và nguyên tắc của ta là: Kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mình; ln ln tơn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, làm hết sức mình để bảo vệ tình đồn kết chiến đấu và hữu nghị Việt Nam - Campuchia; vạch trần âm mưu thủ đoạn và những tội ác man rợ của tập đoàn Pol Pot đối với đồng bào ta ở các tỉnh vùng biên giới Tây Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">9
<b>Hình ảnh Bộ đội tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phối hợp đánh địch </b>
Tinh thần xây dựng, lập trường chính nghĩa của Đảng, Nhà nước ta mong muốn giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước Việt Nam - Campuchia thơng qua đàm phán hịa bình, tôn trọng lẫn nhau được dư luận thế giới đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, mọi nỗ lực ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới của Chính phủ ta đều bị tập đoàn Pol Pot từ chối. Chúng tiếp tục phát động chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam nước ta.
<i><b>1.3.2. Giai đoạn 2 (từ ngày 06/01/1978 đến ngày 07/01/1979) </b></i>
<i>Tập đoàn phản động Pol Pot tiến hành xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, Quân tình nguyện Việt Nam mở cuộc tổng phản công và cùng quân dân Campuchia tiến công đánh đổ chế độ diệt chủng Pol Pot </i>
Bị thiệt hại nặng nhưng do được hỗ trợ về vũ khí, trang bị và cố vấn quân sự từ bên ngoài, quân Pol Pot lại tiếp tục chuẩn bị lực lượng, tập trung quân về biên giới Việt Nam. Tháng 01/1978, Pol Pot đưa thêm 2 sư đoàn ra biên giới, tiếp tục gây xung đột, liên tục tiến công lấn chiếm, bắn pháo vào những nơi đông dân cư, gây nhiều tội ác với đồng bào ta. Trước tình hình đó, Bộ Tổng Tham mưu điều động Sư đoàn 341 (Quân đoàn 4) tăng cường cho Quân khu 9, sẵn sàng chiến đấu; đồng thời ra lệnh cho các đơn vị ta trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nâng cao cảnh giác, thực hiện phịng ngự tích cực để hỗ trợ cho Đảng, Nhà nước ta thực hiện đấu tranh chính trị và ngoại giao.
Ngày 05/02/1978, Chính phủ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố ba điểm:
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">10
(1) Chấm dứt mọi hoạt động quân sự, rút lực lượng vũ trang cách biên giới 5km. (2) Hội đàm tiến tới ký hiệp ước hữu nghị và không xâm lược, kí hiệp ước về biên giới.
(3) Thoả thuận về một hình thức thích hợp bảo đảm thơng lệ quốc tế và giám sát quốc tế.
Phớt lờ thiện chí của ta, quân Pol Pot tiếp tục huy động lực lượng áp sát biên giới và cho quân tiến công, xâm nhập nhiều điểm trên địa phận nước ta; lực lượng của ta đã kiên quyết đánh trả, giành lại các khu vực bị lấn chiếm.
Từ ngày 26/3/1978, các đơn vị Quân đội ta chuyển sang tiến công, đẩy quân Pol Pot lùi xa dần biên giới và dồn đối phương vào thế bị động, đối phó. Địn phản cơng quyết liệt của Việt Nam trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao đã đẩy quân Pol Pot vào tình thế khó khăn và tác động lớn đến tình hình chính trị nội bộ Campuchia; đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho phong trào nổi dậy của lực lượng cách mạng Campuchia phát triển, đỉnh cao là cuộc nổi dậy từ ngày 26/5/1978 ở Quân khu Đông, làm suy yếu một bộ phận lực lượng quân Pol Pot. Lực lượng cách mạng Campuchia đã lập được những khu căn cứ du kích có điều kiện thuận lợi về nhiều mặt, nhất là những khu căn cứ gần Việt Nam, từng bước hình thành sự chỉ đạo thống nhất.
Ngày 15/6/1978, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp bàn về chống lại cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và tình hình căng thẳng ở biên giới phía Bắc, trong đó quyết định phát động chiến tranh nhân dân, kiên quyết phản công và tiến công địch một cách chủ động, liên tục bằng mọi lực lượng, với các quy mô nhỏ, vừa và lớn, đánh địch cả trong và ngoài biên giới, tiêu diệt, tiêu hao và làm tan rã một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
Sau cuộc nổi dậy của lực lượng cách mạng Campuchia ở Quân khu Đông ngày 26/5/1978, quân Pol Pot vừa ráo riết thanh trừng nội bộ, vừa phải đối phó với lực lượng cách mạng Campuchia vẫn đang tiếp tục hoạt động ở nhiều nơi. Để hỗ trợ cho lực lượng cách mạng Campuchia tồn tại và phát triển, tạo thế cho hoạt động của ta vào mùa khô 1979, từ ngày 14/6 đến 30/9/1978, ta sử dụng Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 và 2 sư đoàn (thuộc Quân khu 7), 2 sư đoàn (thuộc Quân khu 5) mở tiếp đợt tiến công lớn trên các hướng đường 1, đường 7, vùng giáp biên giới Tây Ninh và đường 19 kéo dài nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tiến tới làm suy yếu một bước lực lượng quân Pol Pot.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">11
Do bị bất ngờ hoàn toàn về thời gian, quy mô và phương thức hoạt động của ta, quân Pol Pot rơi vào thế bị động, ngay ngày đầu đã bị ta đánh thiệt hại và tê liệt một số sư đồn. Cuộc tiến cơng của ta đã hỗ trợ kịp thời cho lực lượng cách mạng Campuchia ở Quân khu Đông, buộc quân Pol Pot bị động đối phó trên cả 2 mặt trận biên giới và nội địa. Ở nhiều khu vực quan trọng, lực lượng nổi dậy đã lập được căn cứ, dựa vào dân để phát triển lực lượng. Phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia trong đợt tiến cơng này, ta loại khỏi vịng chiến đấu 6 sư đoàn, làm suy yếu nghiêm trọng lực lượng chủ lực quân Pol Pot, đẩy lùi hầu hết quân Pol Pot ra khỏi đất Việt Nam.
Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11/1978, Việt Nam đã giúp lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia phát triển được 15 tiểu đoàn, 5 khung tiểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo. Với sự giúp đỡ của Việt Nam, ngày 2/12/1978, tại vùng giải phóng thuộc xã Chơng Th’nu, huyện Snuol, tỉnh Kratié (Campuchia), Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra mắt nhân dân Campuchia, công bố cương lĩnh cách mạng 11 điểm, trong đó nêu rõ quyết tâm đồn kết, tập hợp mọi lực lượng yêu nước nổi dậy đánh đổ tập đồn phản động Pol Pot, xóa bỏ chế độ diệt chủng tàn ác, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân; khẳng định tăng cường tình đồn kết với nhân dân Việt Nam và nhân dân u chuộng hịa bình, cơng lý trên thế giới; kêu gọi chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế giúp đỡ mọi mặt cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Campuchia.
<b>Hình ảnh Bác sĩ Quân tình nguyện Việt Nam giúp LLVT cách mạng Campuchia huấn luyện và đào tạo quân y chiến trường. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">12
Phát hiện quân Pol Pot có ý định tập trung 5 sư đồn và 4 trung đồn tiến cơng đánh chiếm Tây Ninh, sau đó sẽ mở rộng địa bàn đánh chiếm lãnh thổ Việt Nam, ngày 06 và 07 tháng 12/1978, Bộ Chính trị và Qn ủy Trung ương thơng qua quyết tâm tổng phản công - tiến công chiến lược tiêu diệt quân địch, hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc; đồng thời sẵn sàng hỗ trợ lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia nổi dậy đánh đổ tập đoàn Pol Pot diệt chủng, giành chính quyền về tay nhân dân.
Phát hiện sự chuẩn bị của ta, quân Pol Pot tập trung phần lớn lực lượng chủ lực bố trí dọc biên giới với Việt Nam, toàn bộ phía sau hầu như trống rỗng. Ngày 23/12/1978, quân Pol Pot huy động 10 trong số 19 sư đồn đang bố trí ở biên giới mở cuộc tiến cơng trên tồn tuyến biên giới Tây Nam nước ta.
Trước hành động xâm lược của quân Pol Pot và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, ngày 23/12/1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia mở cuộc tổng phản công - tiến công trên tồn tuyến biên giới.
Ngày 26/12/1978, tồn bộ hệ thống phịng thủ vịng ngồi của qn Pol Pot bị phá vỡ. Đến ngày 31/12/1978, quân và dân ta đã hoàn thành nhiệm vụ đánh đuổi quân Pol Pot, thu hồi toàn bộ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc bị kẻ thù lấn chiếm.
Ngày 02/01/1979, ba cụm quân chủ lực của Pol Pot, mỗi cụm 5 sư đoàn, án ngữ các trục đường tiến về Phnom Penh (đường 1, đường 7 và đường 2) cơ bản bị tiêu diệt và tan rã. Ngày 05 và 06 tháng 01/1979, trên tất cả các hướng, quân Pol Pot khơng cản được Qn tình nguyện Việt Nam truy kích và tiến sát Thủ đơ Phnom Penh.
Ngày 06/01/1979, Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia bắt đầu tổng cơng kích vào Thủ đơ Phnom Penh. Sau 2 ngày tổng cơng kích, ngày 07/01/1979, Thủ đơ Phnom Penh hồn tồn được giải phóng.
Ngày 08/01/1979, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia được thành lập và ra tun bố: Xóa bỏ hồn toàn chế độ diệt chủng của tập toàn Pol Pot, thành lập chế độ Cộng hòa nhân dân Campuchia. Việt Nam cùng nhiều nước đã công nhận nước Cộng hòa nhân dân Campuchia.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">13
<b>Hình ảnh Tiểu đồn 2 - Lữ đồn Xe tăng và Sư đồn 7 - Qn đồn 4 tấn cơng giải phóng Phnom Penh </b>
Ngày 17/01/1979, tồn bộ đất nước Campuchia được giải phóng; phần lớn lực lượng Pol Pot bị tiêu diệt và tan rã, số còn lại lẩn trốn vào rừng trên tuyến biên giới phía Tây, Tây Bắc Campuchia.
Trong thời gian gần hai năm chiến tranh, quân Pol Pot giết hại và bắt hơn 30 nghìn dân thường tại các xã biên giới của Việt Nam, 400 nghìn người dân mất nhà cửa, trên 3 nghìn nhà bị bỏ hoang; nhiều nhà thờ, trường học, chùa chiền bị chúng đốt phá…
<b>Hình ảnh thể hiện sự tàn bạo của chế độ diệt chủng P Pot ol </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">14
<b>1.4. Kết quả và ý nghĩa c a cuủộc chiến tranh </b>
<i><b>1.4.1. Kết quả </b></i>
Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia được sự giúp đỡ, phối hợp và hỗ trợ giữa quân Việt Nam và Campuchia đã đập tan được chính quyền phản động Pol Pot từ trung ương đến cơ sở. Ngày 07/01/1979, thủ đơ Phnom Penh đã được giải phóng hoàn toàn, Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia do ông Heng Samrin làm Chủ tịch được thành lập và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia ra đời, mở đầu cho sự hồi sinh trên đất nước Chùa Tháp.
Cuối tháng 1 năm 1979 cuộc phản công của Việt Nam kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17 tháng 01 thị xã cuối cùng là Koh Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền mới của Campuchia. Từ ngày 23/12/1978 đến 17/1/1979, quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng cách mạng Campuchia đã tiêu diệt và làm tan rã 18 sư đồn Khmer Đỏ (diệt 12.000 lính, bắt 8.800 lính, gọi hàng 3.200 lính và làm tan rã tại chỗ 44.000 lính); giải phóng trên 4 triệu dân Campuchia, thu hồi toàn bộ cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật quân sự, đập tan bộ máy chính trị của Khmer Đỏ từ trung ương đến cơ sở.
Ngày 18/2/1979, Việt Nam và Campuchia kí Hiệp ước hịa bình, hữu nghị và hợp tác. Theo Hiệp ước, quân đội Việt Nam có mặt ở Campuchia để giúp bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hồi sinh đất nước. Hành động đó của Việt Nam là hành động chính nghĩa và xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng được ghi nhận trong Điều 51 Hiến chương Liên hợp quốc, đã được nhân dân Campuchia và thế giới ghi nhận.
<i><b>Hình ảnh Ký Hiệp ước hoạch định biên giới Quốc gia Việt Nam – Campuchia ngày 27/12/1985 </b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">15
Đây là sự kiện lịch sử hết sức trọng đại của dân tộc Campuchia; là kết quả đấu tranh kiên cường của lực lượng cách mạng chân chính Campuchia và sự giúp đỡ chính nghĩa, chí tình, vơ tư, trong sáng - một nghĩa cử quốc tế vơ cùng cao đẹp của Qn tình nguyện Việt Nam…
<i><b>Hình ảnh Tượng đài Hữu Nghị Việt Nam – Campuchia tại Phnom Penh1.4.2. Ý nghĩa </b></i>
<i><b>• Đối với Việt Nam: </b></i>
Chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1979) đã chứng tỏ sức mạnh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam sẵn sàng đánh bại quân Khmer Đỏ xâm lược và không ngại hy sinh mất mát để giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Từ trong cuộc chiến tranh vệ quốc đó đã thể hiện quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Trong gần 4 năm tiến công đánh bại quân Khmer Đỏ xâm lược và 10 năm sau (1979 1989) đó thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả giúp dân tộc Campuchia hồi -sinh là minh chứng sống động hùng hồn nhất khơng thể phủ nhận tính chính nghĩa của cuộc chiến tranh vệ quốc mà quân dân Việt Nam tiến hành ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Thắng lợi cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc một lần nữa khẳng định nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng, sẵn sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ
</div>