Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.8 KB, 32 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
GVHD: PGS.TS: Đoàn Đức Hiếu Sinh viên thực hiện:
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">Nguyễn Hữu Thông 22110239
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng: “Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội là phải chú ý hạt nhân cho tốt”. Bởi vậy, gia đình khơng chỉ là môi trường để giáo dục nhân cách con người Việt Nam mà còn là cơ sở để xây dựng đời sống mới trong xã hội mới. Đó cũng chính là lý do mà chúng em quyết định nghiên cứu đề tài này.
<b>2. Mục tiêu nghiên cứu</b>
Nắm được những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về gia đình, xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay.
Có kỹ năng, phương pháp khoa học trong nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đến vấn đề gia đình và xây dựng gia đình.
Có thái độ và hành vi đúng đắn trong nhận thức và có trách nhiệm xây dựng gia đình,xây dựng mối quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội.
<b>3. Phương pháp nghiên cứu</b>
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luân chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng và các phương pháp khác như: đánh giá, phân tích, tổng hợp,logic - lịch sử... và các phương pháp cụ thể như: đọc tài liệu, tổng hợp tài liệu.
<b>4. Bố cục đề tài</b>
Tiểu luận được trình bày với nội dung gồm 3 chương chính: Chương 1: Khái niệm, vị trí, chức năng của gia đình trong xã hội.
Chương 2: Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chương 3: Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>B. PHẦN NỘI DUNG</b>
<b>CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ VÀ CHỨC NĂNG CỦA GIA ĐÌNH TRONG XÃHỘI</b>
<b>1. Khái niệm gia đình</b>
Gia đình là một hình thức cộng đồng xã đặc biệt, được hình thanh, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy đinh về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình. Quan hệ hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng nhằm đảm bảo nhu cầu – sinh lý và tình cảm, để duy trì nịi giống, dồng thời để tổ chức cuộc sống gia đình. Quan hệ này được xã hội thừa nhận dưới hình thức, ở những mức độ, trình độ khác nhau.Quan hệ hơn nhân là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình.
Quan hệ huyết thống là quan hệ cha mẹ và con cái (cùng dòng máu giữa các thành viên trong gia đình). Đây là quan hệ cơ bản đặc trưng của gia đình. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau. Hệ này chịu sự chi phối của những điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, do vậy nó cũng biến đổi theo tiến trình phát triển của lịch sử.
Quan hệ ni dưỡng giữa các thành viên và các thế hệ thành viên trong gia đình.Ni dưỡng là một nghĩa vụ, một trách nhiệm, đồng thời còn là một quyền lợi thiêng liêng, là niềm hạnh phúc của các thành viên trong gia đình với nhau. Quan hệ sinh thành – ni dưỡng – dạy dỗ là những hoạt động không tách rời nhau trong gia đình.
Trong gia đình, ngồi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ với con cái, còn có các mối quan hệ khác, quan hệ giữa ơng bà với cháu chắt, giữa anh chị em với nhau, giữa cơ dì, chú bác với chú v.v… Ngày nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ nuôi (người đỡ đâu) với con nuôi ( được công nhân bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ gia đình.
<b>2. Vị trí của gia đình trong xã hội2.1. Gia đình là tế bào của xã hội</b>
Điều này trước hết chỉ ra răng, gia đình và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau.Quan hệ đó giống như sự tương tác hữu cơ của quá trình trao đổi chất, duy trì sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">sống giữa tế bào và cơ thể sinh vật. Xã hội (cơ thể) lành mạnh tạo điêu kiện cho các gia đình tiến bộ, gia đình (tế bào) hạnh phúc góp phần cho sự phát triển hài hồ của xã hội. Trải qua các xã hội nô lệ, phong kiến tư bản,... và từng giai đoạn khác nhau, gia đình cá thể cịn có những đặc thù riêng. Theo Ph.Ăngghen, chính từ các xã hội có chế độ tư hữu tư nhân và đối kháng giai cấp, trong các tầng lớp nhân dân lao động cũng đã xuất hiện mầm mống một kiểu gia đình mới mà hơn nhân khơng phải là chỉ hình thành đầy đủ và phổ biến trong những điều kiện mới của xã hội có tự do và bình đẳng thực sự. Đến khi đó, gia đình mới có khả năng thể hiện đầy đủ vị trí xứng đáng của mình đối với sự phát triển chung của xã hội.
Như vậy, gia đình là sản phẩm của lịch sử. Nhưng với tư cách là tế bào của xã hội, gia đình tác động tích cực đến tiến trình phát triển của xã hội. Những trật tự xã hội, trong đó mỗi con người của một thời đại lịch sử nhất định và một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: “một mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình”. Nhận định đó cho thấy vai trị to lớn của gia đình đối với xã hội.
<b>2.2. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hịa trong đời sống</b>
Trong gia đình, cá nhân được đùm bọc về vật chất và được giáo dục về tâm hồn, trẻ thơ có điêu kiện được an tồn và khơn lớn, người già có nơi nương tựa, người lao động được phục hồi sức khoẻ và thoải mãi tinh thần. Ở đó hàng ngày diễn ra các quan hệ thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ – chống , cha – con, anh - em, những người đồng tâm, đồng cảm nâng đỡ, đùm bọc nhau suốt cuộc đời. Có rất nhiều vẫn đề ngồi mơi trường gia đình, khơng ở đâu có và giải quyết có hiệu quả. Chỉ khi nào được yên ấm trong gia đình và hữu ái trong xã hội, cá nhân mới thực sự yên tâm lao động và làm việc sáng tạo. Một trong những bất hạnh lớn nhất của con người là lâm vào cảnh “vô gia cư”, gia đình lục đục tan nát hoặc rơi vào cảnh khốn cùng . Vì vậy, việc xây dựng gia đình mới là một trong những vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tích Hồ Chí Minh đã nói: “ Nhiều gia đình cộng lại mới là một xã hội, xã hội tốt thì gia đình tốt, gia đình tốt thì xã hơi tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.</b>
Nhiều thông tin về xã hội tác động đến con người thơng qua gia đình. Xã hội (nhà nước, cơ quan, bạn bè...) nhận đầy đủ và toàn diện hơn về một người khi nhận rõ hồn cảnh gia đình của người ấy. Nhiều nội dung quản lý xã hội không chỉ thông qua hoạt động của các thiết chế xã hội, mà cịn thơng qua hoạt động của gia đình để tác động đến con người; nghĩa vụ và quyền lợi xã hội của mỗi người được thực hiện với sự tác động chung của các thành viên gia đình. Qua đó, ý thức cơng dân của cá nhân được nâng cao và gắn bó giữa gia đình và xã hội có một nội dung xác thực.
<b>3. Chức năng của gia đình trong xã hội3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người.</b>
Gia đình là nơi tái sản xuất con người, giúp duy trì và phát triển giống nịi. Gia đình đóng vai trị hết sức quan trọng đối với một xã hội, một đất nước. Ở các nước khác nhau,để phù hợp với tùy thuộc vào tình hình dân số, điều kiện kinh tế - xã hội mà quốc gia đó điều chỉnh, ban hành các quy định về kế hoạch hóa gia đình phù hợp. Ở nước ta hiện nay,điều kiện kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của đất nước, nhà nước đã ban hành chính sách kế hoạch hóa gia đình: Mỗi gia đình chỉ nên sinh từ một đến hai con.
<b>3.2. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục.</b>
Việt Nam là một quốc gia mang đậm nét đẹp truyền thống về đạo đức và lối sống thuần phong mỹ tục, vì thế nội dung giáo dục của gia đình cũng phải chú ý đến việc giáo dục toàn diện cả về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm, lối sống, ý thức, cung cách cư xử trong cuộc sống và giáo dục cả về tri thức...
Chức năng giáo dục của gia đình chịu tác động trực tiếp của các yếu tố khách quan và chủ quan. Sự thay đổi lớn trong các chính sách kinh tế xã hội, những biến đổi trong lĩnh vực văn hóa, thơng tin, lối sống, sự thiếu hụt kinh nghiệm, ý thức dạy con trong những gia đình trẻ… đó là những yếu tố ảnh hướng đến chức năng giáo dục của gia đình. Lại có những gia đình cha mẹ mãi kiếm tiền mà khơng biết hài hịa giữa vật chất và tình thần nển khơng có thời giân quan tâm sát sao đến con cái khiến chúng trở nên sống buông thả, bị cám dỗ vào những tệ nạn xã hội, có những hành vi đi ngược lại với thuần phong mỹ tục và truyền thống đạo đức của dận tộc…
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Tuy việc giáo dục ở gia đình chỉ là một khía cạnh nhưng đó vẫn là cái gốc, con người sẽ trở nên hồn thiện hơn khi có sự kết hợp ở gia đình, nhà trường, xã hội và hơn nữa là ý thức tự giác tu dưỡng rèn luyện từ phía mỗi con người…
Gia đình là phạm trù lịch sử, biến đổi theo thời gian. Mỗi thời đại lịch sử cũng như mỗi chế độ xã hội đều sản sinh ra một loại gia đình, xây dựng một kiểu gia đình lý tưởng với chức năng xã hội của nó.
<b>3.3. Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý và duy trì tình cảm gia đình:</b>
Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý và duy trì tình cảm gia đình là hai chức năng quan trọng khác của gia đình trong xã hội chủ nghĩa khoa học.
Chức năng thỏa mãn nhu cầu sinh lý của gia đình đảm bảo cho các thành viên trong gia đình có một mơi trường an tồn, chăm sóc sức khỏe và cung cấp cho các nhu cầu cơ bản như ăn uống, sinh hoạt, sinh sản và giải trí. Trong gia đình, các thành viên thường chia sẻ và hỗ trợ lẫn nhau để đảm bảo mọi người được đáp ứng các nhu cầu sinh lý cơ bản. Chức năng duy trì tình cảm gia đình là quan trọng để xây dựng và duy trì mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Điều này bao gồm việc tạo ra một môi trường ấm áp, yên tĩnh và an toàn cho các thành viên cảm thấy gắn kết và có tình cảm với nhau. Gia đình cũng cung cấp cho các thành viên một nơi để chia sẻ, tương tác và giải trí cùng nhau, đóng vai trị quan trọng trong việc tạo ra mối quan hệ bền vững giữa các thành viên trong gia đình.Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, gia đình đóng vai trị quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu sinh lý và duy trì tình cảm gia đình. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, một số gia đình đã phải đối mặt với những thách thức và áp lực trong việc đáp ứng các chức năng này. Do đó, các chính sách và các biện pháp hỗ trợ gia đình được đưa ra nhằm giúp gia đình đáp ứng các chức năng này một cách tốt nhất.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>CHƯƠNG 2: CƠ SỞ XÂY DỰNG GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦNGHĨA XÃ HỘI</b>
<b>1. Cơ sở kinh tế - xã hội:</b>
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở kinh tế - xã hội của Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế cơng nghiệp hóa và hiện đại hơn. Điều này đã ảnh hưởng đến việc xây dựng và phát triển gia đình trong thời kỳ đó.
Trước khi lên chủ nghĩa xã hội, gia đình ở Việt Nam thường có cấu trúc tập thể, nơng hộ truyền thống, với vai trị chủ yếu là sản xuất và ni dưỡng con cái. Tuy nhiên, sau khi lên chủ nghĩa xã hội, gia đình trở thành một cơ quan chức năng trong xã hội, với nhiệm vụ chính là ni dưỡng và giáo dục con cái, đồng thời đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Cơ sở kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đó chưa được phát triển đồng đều ở mọi vùng miền, do đó cũng ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế - xã hội của gia đình. Những gia đình ở vùng nơng thơn có cơ sở kinh tế - xã hội yếu hơn, thường phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc ni dưỡng và giáo dục con cái. Trong khi đó, những gia đình ở thành thị, đặc biệt là ở các thành phố lớn, có cơ sở kinh tế - xã hội tốt hơn, tuy nhiên lại phải đối mặt với nhiều thách thức về mơi trường sống, xã hội hóa và đối diện với những thay đổi trong nền văn hoá, giá trị và lối sống.
Do đó, trong thời kỳ đó, việc xây dựng gia đình phải đi đơi với phát triển cơ sở kinh tế - xã hội, đặc biệt là ở những vùng miền đang phát triển chậm. Công cuộc cải cách kinh tế - xã hội và xây dựng gia đình trong thời kỳ đó là một q trình kéo dài, địi hỏi sự kiên trì, nỗ lực.
<b>2. Cơ sở chính trị - xã hội:</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Cơ sở chính trị - xã hội là các yếu tố, quy luật, quan hệ, cấu trúc của xã hội được xác định bởi các quyết định chính trị và các hoạt động của chính phủ, các tổ chức và các cá nhân trong xã hội. Cơ sở chính trị - xã hội bao gồm các yếu tố về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tơn giáo, giáo dục và pháp luật. Các yếu tố này có tác động lẫn nhau và tạo nên bức tranh tổng thể về cơ sở chính trị - xã hội của một xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở chính trị - xã hội đã thay đổi đáng kể, với sự phát triển của các quan hệ sản xuất mới và việc thay đổi các quyết định chính trị và các hoạt động của chính phủ.
<b>3. Cơ sở văn hóa:</b>
Cơ sở văn hóa là các giá trị, tư tưởng, tín ngưỡng, thực tiễn văn hóa, tác phẩm nghệ thuật, truyền thống, phong tục tập quán và những thứ liên quan đến văn hóa của một xã hội. Cơ sở văn hóa thường được hình thành và phát triển dựa trên các yếu tố như lịch sử, địa lý, tôn giáo, ngôn ngữ, hệ thống giáo dục, nghệ thuật, văn hóa dân tộc và những ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cơ sở văn hóa của một số nước đã thay đổi đáng kể, bao gồm cả văn hóa gia đình. Việc thay đổi này đơi khi đã gây ra mâu thuẫn với các giá trị truyền thống và tập qn văn hóa của gia đình, và đã cần phải tìm cách thích ứng với các thay đổi trong cơ sở văn hóa.
<b>4. Chế độ hơn nhân tiến bộ:</b>
Chế độ hôn nhân tiến bộ không chỉ là một khái niệm quan trọng trong quá trình xây dựng xã hội mới, mà còn là một phần quan trọng của q trình phát triển văn hóa và nhân văn. Nó giúp tạo ra một mơi trường xã hội tốt hơn, nơi mà quan hệ giữa con người được đặt lên hàng đầu và đảm bảo sự công bằng và tự do cho mọi thành viên trong gia đình.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Chế độ hôn nhân tiến bộ cũng giúp thúc đẩy sự phát triển của các hình thức gia đình đa dạng. Trong quá khứ, hình thức gia đình chủ yếu chỉ là gia đình truyền thống với vai trò rõ ràng của nam giới trong vai trò trưởng gia đình. Nhưng hiện nay, với sự tiến bộ của chế độ hơn nhân tiến bộ, các hình thức gia đình mới đã được cơng nhận và được coi là bình đẳng với hình thức gia đình truyền thống. Gia đình đơn thân, gia đình đồng tính, và gia đình phụ nữ độc thân được xem là các hình thức gia đình đa dạng và đáp ứng nhu cầu của một số nhóm cộng đồng đặc biệt.
Tổng thể, chế độ hôn nhân tiến bộ đã mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, đặc biệt là trong việc tạo ra một môi trường xã hội công bằng và tự do. Nó khơng chỉ khuyến khích sự phát triển của quan niệm về tình yêu và tình cảm trong mối quan hệ hơn nhân, mà cịn đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề liên quan đến bạo lực gia đình. Việc quy định rõ ràng các quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình cùng việc khuyến khích sự đa dạng trong hình thức gia đình giúp cho các vấn đề liên quan đến bạo lực gia đình được giải quyết một cách hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, chế độ hơn nhân tiến bộ cũng đóng góp vào việc tạo ra một xã hội tôn trọng và đánh giá cao những giá trị nhân văn, tình cảm, đồng cảm và sự chia sẻ.
Tóm lại, chế độ hôn nhân tiến bộ là một khái niệm quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nó đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội bình đẳng và tự do, trong đó quan hệ giữa con người được coi là quan trọng nhất. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ ràng về những khó khăn và thách thức của chế độ hơn nhân tiến bộ để có thể xây dựng một chế độ hơn nhân thực sự bình đẳng và tự nguyện giữa các thành viên
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động đáng kể đến việc xây dựng gia đình. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra sự tự do kinh tế và tăng trưởng kinh tế đáng kể, từ đó làm thay đổi cách nhìn nhận của người dân về hơn nhân và gia đình.
Trong q trình phát triển kinh tế, các gia đình Việt Nam đã trải qua nhiều thay đổi và chuyển đổi. Trong quá khứ, gia đình Việt Nam thường có tính chất đa thế hệ và hợp tác xã, trong đó mỗi thành viên có trách nhiệm phụ trách một lĩnh vực cụ thể trong gia đình. Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế, gia đình Việt Nam đã thay đổi từ tính chất đa thế hệ sang tính chất nhân tạo, với những hộ gia đình nhỏ.
Ngồi ra, với sự gia tăng của thu nhập và cải thiện điều kiện sống, người dân Việt Nam đã có khả năng lựa chọn và kiểm sốt hơn về cuộc sống của mình, trong đó bao gồm cả việc lựa chọn đối tác trong hơn nhân. Việc lựa chọn đối tác khơng cịn bị giới hạn bởi các yếu tố như tôn giáo, sắc tộc hay gia cảnh như trước đây, mà thay vào đó, tình u và sự đồng cảm giữa hai người được coi trọng hơn.
Ngoài ra, sự thay đổi trong cách nhìn nhận về hơn nhân và gia đình cũng có ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội khác, ví dụ như quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ con cái, và quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình. Các quan hệ này đang trở nên bình đẳng hơn và dựa trên sự đồng tình và sự tôn trọng lẫn nhau.
Tổng thể, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động tích cực đến sự phát triển của gia đình Việt Nam, và đã đóng góp vào việc thúc đẩy các giá trị gia đình mới và tiên tiến hơn, đồng thời mở ra nhiều cơ hội cho những người muốn tạo dựng và duy trì một gia đình phù hợp với giá trị cá nhân của mình. Nền kinh tế thị trường cũng đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát triển các hình thức gia đình đa dạng, như gia đình đơn thân, gia đình đồng tính và gia đình phụ nữ độc thân.
Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng đem lại nhiều thách thức cho việc xây dựng và duy trì một gia đình vững mạnh và hạnh phúc. Sự cạnh tranh, áp lực công việc và cuộc sống hiện đại có thể gây ra nhiều áp lực và stress cho các thành viên
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Việc giải quyết các thách thức này đòi hỏi sự đồng lịng, tình u thương và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, cũng như sự hỗ trợ từ cộng đồng và xã hội. Ngoài ra, việc xây dựng một hệ thống pháp luật về gia đình cũng là một yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình. Tóm lại, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động tích cực đến sự phát triển của gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, để duy trì và phát triển một gia đình vững mạnh và hạnh phúc trong bối cảnh hiện nay, cần phải có sự đồng lịng và hỗ trợ từ cộng đồng và xã hội, cũng như việc đưa ra các giải pháp và chính sách hỗ trợ cho gia đình.
<b>1.2. Q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước:</b>
Trong q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, gia đình Việt Nam đã trải qua nhiều thay đổi về cách sống, cách xây dựng và quản lý gia đình. Điều này là do nền kinh tế đang phát triển, với sự gia tăng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, dẫn đến sự thay đổi về cách sống và phát triển của xã hội.
Trước đây, gia đình Việt Nam thường có nhiều thành viên và thường ở cùng nhau trong một ngôi nhà lớn. Tuy nhiên, với sự phát triển của kinh tế, nhu cầu về nhà ở và không gian sống đã thay đổi. Nhiều gia đình Việt Nam đã chuyển từ các ngôi nhà lớn sang các căn hộ và nhà phố nhỏ hơn, với số lượng thành viên trong gia đình cũng giảm đi. Các gia đình cũng trở nên năng động hơn, với các thành viên phải di chuyển nhiều hơn để đến nơi làm việc và trường học.
Đồng thời, trong q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, các giá trị và thói quen của gia đình cũng thay đổi. Gia đình Việt Nam trước đây thường có thói quen tiết kiệm và tập trung vào việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội, các giá trị về tình bạn, tình yêu và sự đa dạng hóa về mối quan hệ cũng được coi trọng hơn.
Bên cạnh đó, việc phụ nữ tham gia vào cuộc sống kinh tế cũng đã thay đổi cách quản lý gia đình của người Việt. Trước đây, phụ nữ thường được xem là người chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý gia đình, nhưng với sự phát triển của nền kinh tế, cả nam và nữ đều tham gia vào công việc kiếm sống và chia sẻ trách nhiệm trong việc quản lý gia đình.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Tổng thể, q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đã tác động rất lớn đến sự phát triển của gia đình Việt Nam. Những thay đổi về cách sống, giá trị và thói quen trong gia đình cũng đã xảy ra theo nhịp độ của quá trình đó. Một trong những thay đổi đáng chú ý nhất là sự thay đổi về vai trò của phụ nữ trong gia đình. Trong quá khứ, phụ nữ thường được xem là thành viên thứ hai của gia đình, chỉ đảm nhận các cơng việc chăm sóc gia đình và con cái. Tuy nhiên, với sự thay đổi của nền kinh tế và văn hóa, vai trị của phụ nữ trong gia đình đã thay đổi rất nhiều. Ngày nay, phụ nữ được coi là người cùng với nam giới trong việc chăm sóc và quản lý gia đình.
Ngồi ra, q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng đã làm thay đổi cách thức sinh hoạt của các gia đình. Các gia đình bây giờ có nhiều lựa chọn hơn khi muốn mua sắm và tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ. Điều này đã đưa đến một nhu cầu mới trong gia đình, đó là nhu cầu về quản lý tài chính. Vì vậy, sự phát triển của các hình thức tài chính như ngân hàng và bảo hiểm cũng đã ảnh hưởng đến sự phát triển của gia đình Việt Nam.
Tuy nhiên, q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng mang lại những thách thức mới cho gia đình Việt Nam. Với sự thay đổi của giá trị và thói quen, một số gia đình có thể gặp khó khăn trong việc thích nghi với những thay đổi này. Hơn nữa, nhu cầu tài chính cũng đưa ra những áp lực về thu nhập và chi tiêu đối với các gia đình.
Tóm lại, q trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đã tác động tích cực đến sự phát triển của gia đình Việt Nam, tuy nhiên cũng mang lại những thách thức và áp lực mới. Để đáp ứng những thách thức đó, gia đình cần có sự linh hoạt và sáng tạo để thích nghi với những thay đổi trong xã hội và kinh tế.
<b>1.3. Xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế:</b>
Trong thời kỳ chuyển đổi từ chế độ kinh tế truyền thống sang chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã góp phần thúc đẩy sự thay đổi trong cách xây dựng gia đình và quan hệ gia đình.
Xu thế tồn cầu hóa là q trình tích hợp và liên kết kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa của các quốc gia trên tồn cầu. Trong lĩnh vực gia đình, xu thế này đã tác động
</div>