Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô đề tài vai trò của chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.12 KB, 22 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>

<b>TRƯỜNG: ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT HƯNG YÊNKHOA: KINH TẾ</b>

<b>TIỂU LUẬN</b>

Kinh tế vĩ mô ĐỀ TÀI:

<i>Vai trị của chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô</i>

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : ĐỖ VĂN CƯỜNG SINH VIÊN THỰC HIỆN : NGUYỄN VŨ HẬU MÃ SINH VIÊN : 10922215

MÃ LỚP : 109222

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

LỜI MỞ ĐẦU...2

Phần A: Vai trị cửa chính phủ trong nền kinh tế thị trường...2

I. Ưu thế và khuyết tật của thị trường...2

1.Khái niệm thị trường và cơ chế thị trường...2

2. Những ưu thế và khuyết tật của cơ chế thị trường...2

II. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường...2

1.Mục tiêu của kinh tế vĩ mô...2

2.Chức năng kinh tế của chính phủ...2

3. Cơng cụ quản lý vĩ mơ của Chính phủ...2

Phần B: Vai trị của chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô nền kinh tế nước ta...2

I. Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mơ nền kinh tế...2

1. Thực trạng nền kinh tế...2

2. Thực trạng quản lý kinh tế của nhà nước...2

II. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của chính phủ...2

Kết luận...2

Danh mục tài liệu tham khảo...2

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

Ngày nay , chúng ta đang được chứng kiến sự phát triển đầy năng

động ,sáng tạo của các nền kinh tế trên thế giới cùng với xu hướng tồn cầu hố đang diễn ra mạnh mẻ, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đẻ có thể đứng vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh các quốc gia đều phải tìm ra cho mình một phương hướng đẻ có thể vươn lên. Ta có thể lấy những ví dụ rất điển hình như Nhật , Mỹ , EU , và khối ASEAN (trong đó có VN ) . Nắm bắt được xu thế của thời đại, Đảng ta đã có những bước chuyển kịp thời .Tại đại hội Đảng 6 Đảng ta đã đề ra dường lối đổi mới trong đó quan trọng nhất là sự chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường . nền KTTT (kinh tế thị trường ) đã từng là động lực thúc đẩy CNTB phát triển một cách mạnh mẽ trong những giai đoạn trước đây và cả hiện nay . Thực tế đã chứng minh cơ chế thị trường phát triển vơ cùng nhanh chóng từ khi nó ra đời.Cơ chế thị trường làm cho nền kinh tế trở nên năng động và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nền kinh tế thị trường luôn là sự cạnh tranh giữa các hãng sản suất với nhau do đó họ phải ln tìm tịi,sáng tạo các phương thức sản suất mới để mang lại lợi nhuận cao trong kinh doanh. Chính vì thế nó làm cho nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển và phồn thịnh. (tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 90 –95 luôn đạt 8,5%, GDP trên đầu người đạt 380 $ / năm tính đến thời điểm năm 2001) Tuy nhiên cơ chế thị trường không phải là một hoạt động kinh tế hồn hảo mà nó mang trên mình mặt trái của nó như:sự cạnh tranh khơng hồn hảo; vấn đề ngoại ứng; sự phân hoá giàu nghèo...và các vấn đề xã hội khác. Chính vì vậy, nhà nước đã tham gia vào quá trình hoạt động của nền kinh tế để giảm nhẹ hoặc khắc phục những hậu quả của nó. Nhưng trên thực tế khơng thể tồn tại một nền kinh tế chỉ được điều hành bằng mệnh lệnh và cũng khơng có nền kinh tế nào hoạt động trên cơ sở tự nguyện mà khơng có sự điều tiết của nhà nước. Chính phủ ngày càng khẳng định được vai trị của mình trong hoạt đọng của nền kinh tế, đặc biệt đối với một nước đang trong thời kì quá độ lên CNXH như nước ta .Chính vì vậy sau khi được học tập và nghiên cứu môn KTCT em xin được trình bày những hiểu biết của mình về vai trị của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế đồng thời liên hệ với vai trò kinh tế của CP VN trong giai đoạn“ CNH – HĐH” đất nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Phần A: Vai trị cửa chính phủ trong nền kinh tế thị trường</b>

I. Ưu thế và khuyết tật của thị trường

Để hiểu rõ vai trị của chính phủ trong nền kinh tế thị trường, trước hết ta phải hiểu khái niệm về thị trường và cơ chế thị trường. 1 Khái niệm thị trường và cơ chế thị trường a) Thị trường Có nhiềukháiniệm khác nhau vè thị

trường ,đó là do tuỳ từng gó độ xem xét . Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thơng hàng hố

1.Khái niệm thị trường và cơ chế thị trường a.Thị trường

Có nhiềukhái niệm khác nhau về thị trường ,đó là do tuỳ từng góc độ xem xét . Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thơng hàng hố , nó ra đời và phát triển cung với sự ra đơì và phát triển của sản xuất lưu thơng hàng hố .

Vậy thị trường là gì ? Theo nghĩa ban đầu – nghĩa nguyên thuỷ , Thị trường gắn liền với một địa điểm nhất định .Nó là nơi diễn ra q trình trao đổi ,mua bán hàng hố .Thị trường có tính khơng gian và thời gian .Theo nghiã này ,thị trường có thể là nơi hội chợ các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo các mặt hàng ngành hàng.

Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển ,lưọng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào phong phú ,thị trường dược mở rộng . Thị trường được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn . Nó là lĩnh vực trao đổi hàng hố thơng qua tiền tệ làm môi giới . Tại đây ,người muavà người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lưọng hàng hố lưu thơng trên thị

trường .Và cũng có thể hiểu theo một nghĩa tưong đối khái quát ,đó là: “Thị trường là một q trình trong đó người mua và người bán một thứ hàng tác động qua lại nhau để xác định giá cả và số lượng hàng“ (Paul A.Samuelson). Vai trò của thị trường : kinh tế hàng hoá gắn liền cới thị trường .Sản xuất cho thị trường .Tiêu dùng phải thông qua thị trường .Thị trường là trung tâm của tồn bộ q trình tái sản xuất .Thị trường là yếu tố cơ bản của mơi trường kinh doanh, là nơi hình thành các quan hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế này là cơ sở quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế. Thông qua thị trường các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các khu vực kinh tế mới được biểu hiên. Thị trường có khả năng dự báo và hướng dẫn ngưới sản suất và tiêu dùng trong hành vi kinh tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Nói một cách khác,trong nền kinh tế hàng hoá tất nhiên tồn tại một cơ chế thị trường.

b. Cơ chế thị trường

Đề cập đến khái niệm “cơ chế thị trường ”thì hiện nay cịn có nhiều ý kiến khác nhau nhưng hiểu theo một nghĩa khái quát thì cơ chế thị trwongf chính là bộ máy kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường ,điều tiết quá trình sản xuất và lưu thơng hàng hố thơng qua sự tác động của các quy luật kinh tế ,đặc biệt là quy luật giá trị –quy luật kinh tế căn bản của sản xất và lưu thơng hàng hố . Tuy nhiên ,cơ chế thị trường là sự cạnh tranh khốc liệt .Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản xuất và tiêu thụ hànghố cólợi cho mình để thu lợi nhuận cao .

Sự tồn tại cơ chế thị trường là một tất yếu khách quan đối với những xã hội cịn tồn tại nền kinh tế hàng hố . Coi nhẹ hoặc bỏ qua vai trò của kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế . Cơ chế thị trường được coi là “ bàn tay vô hình ’’ điều tiết sự vận động của nềnkinh tế hàng hố.

Cơ chế thị trường có những ưu thế và khuyết tật của nó mà ta phải nắm được để có biện pháp phát huy những ưu điểm của nó đồng thời khắc phục những khuyết tật đó.

2. Những ưu thế và khuyết tật của cơ chế thị trường Cơ chế thị trưịng có những ưu thế sau đây :

Một là : cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng những tiến bộ KHKT , nhờ đó mà năng suất lao động tăng , nâng cao trình độ xẫ hội hố sản xuất

Hai là : cơ chế thị trường có tính năng động , khả năng thích nghi nhanh chóng

Ba là : cơ chế thị trường tạo điều kiện cho mọi chủ thể sản xuất kinh doanh cho nên hàng hoá rất đa dạng ,phong phú . Vì vậy việc thỗ mãn nhu cầu vật chất ,văn hoá của mọi thành viên trong xã hội ngày càng tốt hơn .

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Bốn là: Lợi nhuận là động lực cao nhất để thúc đẩy q trình sản xuất. Từ đó nó trả lời các câu hỏi sản suất ra cái gì,sản suất như thế nào và sản xuất cho ai. Nó biết kết hợp các nguồn lực một cách hợp lýnhất để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm lớn nhất với chi phí thấp nhất,từ đó tối đa hoá được lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường vận dụng được năng lực tối đa của nền kinh tế về vốn, kinh nghiệm lao động.

Năm là: Trong nền kinh tế thị trường, tất cả các ngành thuộc các lĩnh vực khác nhau thì yếu tố chung duy nhất tác động đến doanh nghiệp là tạo ra lợi nhuận. Các doanh nghiệp chỉ khác nhau ở hình thái quy mơ tổ chức. Nhưng chúng có điểm giống nhau là hoạt động trực tiếp với thị trường. Do đó họ là những người dám chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình, từ đó địi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ,năng lực tổ chức kinh doanh

Tuy nhiên bên cạnh những ưu thế mà không một nền kinh tế nào có thể sánh được thì cơ chế thị trường cũng có những khuyết điểm tự bản thân nó khơng thể giải quyết được . Người ta gọi đó là những thất bại thị trường .Đó là:

Thứ nhất : khủng hoảng kinh tế .Khủng hoảng sản xuất thừa luôn là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường phát triển . Lúc này , sản lượng hàng hoá trên thị trường vượt quá mức mức cầu có khả năng thanh tốn dẫn đến tình trạng “dư thừa hàng hoá ” và cùng với đó là sự phá sản của hàng loạt các doanh nghiệp do hàng hốẩan xuất ra khơng tiêu thụ được , khoong có khả năng thu hồi vốn để tái sản xuất .

Thứ hai : gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của người lao động , đây luôn là vấn đề nan giải đối với kinh tế thị trường .

Thứ ba : sự phân hoá giai cấp sâu sắc càng làm cho mâu thuẫn giai cấp vốn đã không thể điều hoà được trở nên gay gắt hơn . Các tác động của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng một số ngưịi trở nên giàu có cịn một số khác làm ăn thua lỗ phá sản trơ thành những ngưòi làm thuê . Sự đối kháng về lợi ích kinh tế là cơ sở của đấu tranh giai cấp .

Thứ tư : cơ chế thị trường gây ô nhiễm môi trường sinh thái , tàn phá nghiêm trọng các tài nguyên thiên nhiên .

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Thứ năm: Thị trường phát triển dẫn đến độc quyền do đó làm giảm động lực phát triển.

Thứ sáu: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nó gây ra những tệ nạn xã hội như: hàng giả, buôn lậu, tham nhũng, hối lộ ...

Thứ bẩy: Thị trường trong nhiều trường hợp là kìm hãm chứ không phải là thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và cơng nghệ.

Tóm lại, cơ chế thị trường có tác động điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hố , chi phối sự vận đọng của nền kinh tế thị trường , song tuy nhiên sự điều tiết đó là mù quáng . Các chủ thể tham gia chỉ vì lợi ích của riêng mình cho nên sự vâv động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến mâu thuẫn . Bên

cạnhđó ,cạnh tranh khó tránh khỏi lừa gạt , phá sản ,thất nghiệp . Tất cả đều gây nên sự bất bình thường trong quan hệ kinh tế và sự mất ổn định xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 càng chứng tỏ “ bàn tay vơ hình ”khơng thể đảm bảo cho kinh tế thị trường phát triển bình thường , hơn nữa trình độ xã hội hố ngà càng cao của lực lượng sản xuất địi hỏi phải có sự điều tiét của một trung tâm quyền lực . Chính vì lẽ đó , các quan hệ kinh tế địi hỏi phải có sự kiểm tra , điều tiết , định hướng có ý thức đối với sự vận động của kinh tế thị trường . Do đó “ trong kinh tế thị trường , mọi nhà nước , bất kể nhà nước đó thuộc chế độ chính trị nào ,cũng đều phải can thiệp , quản lý nền kinh tế ấy ” nói cách khác là cần tới “ bàn tay hữu hình ’’ của Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. ở nứơc ta sự quản lý của Nhà nước là nhằm hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội , công bằng hiệu quả làm cho nền kinh tế ngày càng tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao .

II. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Ở phần trên ta đã xem xét những ưu thế và khuyết tật của kinh tế thị trường , kinh tế thị trường vẫn luôn tồn tại tính hai mặt nhưng cho đến hiện nay nó vẫn được rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng , đó là do khơng một nền kinh tế thị trường nào lại khơng có sự điều tiết ,quản lý của Nhà nước . . Chính sự điều tiết đó đã làm giảm bớt hoặc khắc phục những hậu quả của cơ chế thị trường làm cho cơ chế thị trường ưu việt hơn hẳn so với các cơ chế kinh tế khác và chính phủ dễ dàng hơn trong việc hướng nền kinh tế đi đúng mục tiêu mà mình đã đề ra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

1.Mục tiêu của kinh tế vĩ mô

Mọi quốc gia hiện nay đều hướng tới mục tiêu là :sản lượng cao , tạo đủ công ăn việc làm cho người lao động , ổn định giá cả và cán cân ngoại thương . Mục tiêu 1: “Ngày nay, thước đo cuối cùng để đánh giá thành công kinh tế, là khả năng của một nước để tạo ra sản lượng cao và tăng nhanh được sản lượng hàng hoá và dịch vụ kinh tế” .Có nghĩa là tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao.

Mục tiêu 2: tỉ lệ thất nghiệp cao luôn là vấn đề làm đau đầu những nhà quản lý kinh tế của chính phủ .Một quốc gia có số lao động thất nghiệp thấp chứng tỏ nền kinh tế đó đang ở giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao.

Mục tiêu 3: ổn định giá cả và tỉ lệ lạm phát thấp . Việc ổn định được giá cả trên thị trường giúp cho các nhà kinh doanh có thể định hướng đầu tư sản xuất . Khi đồng tiền mất giá ,giá cả hàng hố tăng thì đó là lạm phát . Chính phủ ln muốn duy trì tỉ lệ lạm phát ở mức hai con số bởi vì nếu tỉ lệ lạm phát q thấp thì cũng khơng có lợi cho phát triển kinh tế .

Mục tiêu 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá hối đoái. Hầu hết nền kinh tế của các nước đều là nền kinh tế mở cửa, bn bán với nước ngồi do đó ln tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay mượn giữa các nước... Cân bằng cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái nhằm làm cho cán cân hương mại khơng có những “cú sốc lớn” .

2.Chức năng kinh tế của chính phủ

Khi thảo luận vai trị của chính phủ, chúng ta thường đương chấp nhận rằng chính phủ là người đề ra luật lệ đi đường. Để khẳng định vai trị của mình chính phủ thực hiện các chức năng của mình.

Hiệu quả,như đã nói ở trên, các nền kinh tế trên thực tế đôi khi chịu thất bại thị trường. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn giản không biết kỹ thuật sản xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất khơng hạ xuống mức tối thiểu được. Trên thị trường thực tế, một doanh nghiệp có thể có lãi bằng cách giữ giá cao cũng như bằng cách giữ mức sản xuất cao. Trong nhiều lĩnh vực khác có rất nhiều tác động bên ngồi, vì ơ nhiễm độc hại hoặc vì kiến thức q giá, đối với các nhà doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Trong mỗi một trường hợp

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

này, một thất bại thị trường dẫn đến sản xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng khơng hiệu quả, và ở đây, chính phủ có thể đóng vai trị chữa bệnh. Nhưng trong khi đánh giá vai trị của chính phủ chữa bệnh kinh tế, chúng ta cũng phải cảnh giác với “ những thất bại của chính phủ “- đó là tình huống chính phủ gây thêm bệnh hoặc làm cho bệnh trầm trọng thêm.

Cạnh tranh khơng hồn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh tranh hoàn hảo là cạnh tranh khơng hồn hảo hoặc nhân tố độc quyền.

Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chính xác của nhà kinh tế về “người cạnh tranh hồn hảo “. Mới chỉ có một vài địch thủ chưa đủ cho cạnh tranh hoàn hảo. Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị trường là có đủ một số lượng doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức khơng có một doanh nghiệp nào có thể ảnh hưởng đến giá cả của hàng hố đó. Một “ người cạnh tranh khơng hồn hảo “ là một người mà hành động có thể ảnh hưởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều này có nghĩa là hầu hết các ơng chủ doanh nghiệp, có lẽ trừ số hàng triệu nhà nông mà từng người một sản xuất ra một phần khơng đáng kể trong tồn bộ thu hoạch, đều là những người cạnh tranh khơng hồn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh khơng hồn hảo là nhà độc quyền, người duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể.

Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền và cạnh tranh. Cạnh tranh khơng hồn hảo chứ khơng phải cạnh tranh hồn hảo là hình thái chính. Nhưng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động tới giá cả sản phẩm của mình khơng có nghĩa là “ độc tài “. Phần sau chúng ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp không thể định giá hàng hoàn toàn theo ý muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh nghiệp đó phải tính đến giá của các hàng có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu doanh nghiệp đó sản xuất ra một loại dầu đốt đã có mác với những đặc tính độc đáo, họ vẫn phải tính đến giá của các loại dầu đốt khác cũng như giá của củi, khí đốt và chất cách nhiệt. Như vậy, sức mạnh kinh tế của những người cạnh tranh khơng hồn hảo ln bị kiềm chế phần nào.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa ưa vừa ghét cạnh tranh khi nó giúp chúng ta mở rộng thị trường. Nhưng chúng ta gọi nó là “ có tính chất đục đẽo”, “ không công bằng “ hoặc “ tai hại “ khi đối thủ cạnh tranh của ta làm chúng ta chúnh ta mất lợi nhuận. Những công nhân sống phụ thuộc vào giá bán sức lao động của mình trên thị trường có thể là những người đầu tiên la ó khi cạnh tranh nước ngồi đe doạ tiền lương của họ ở trong nước.

Khi sức mạnh độc quyền- tức là khi một doanh nghiệp lớn có khả năng tác động đến giá cả ở một thị trường nào đó- thực sự trở thành quan trọng về kinh tế, chúng ta sẽ thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu méo mó về cầu và sản xuất, và lợi nhuận siêu thường. Những lợi nhuận này có thể bị biến thành điều quảng cáo lừa dối hoặc là thậm chí có thể mua ảnh hưởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp.

Chính phủ khơng coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ những năm 1890 chính phủ Liên bang đã ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để tăng hiệu lực của hệ thống thị trường cạnh tranh không hoàn hảo của chúng ta.

Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trường không bị kiềm chế có thể dẫn đến kết quả khơng có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân tố tác động bên ngồi.

Vì xã hội chúng ta đã trở nên đơng dân hơn xưa, vì sản xuất ngày càng dựa trên những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngồi đã từ những phiền tối nhỏ mà trở thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính phủ đã sử dụng đến luật lệ điều tiết hành vi kinh tế như là một cách để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngồi như ơ nhiễm nước và khơng khí, khai thác đến cạn khoáng sản, chất thải-gây nguy hiểm thức ăn, uống thiếu an tồn và các chất phóng xạ...

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu được lợi nhuận cao nhất, nguồn vốn quay vịng nhanh... Do đó, một số loại hàng hoá quan trọng cho việc phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho nền kinh tế lại không được đầu tư vì nó khơng mang lại lợi nhuận hoặc lợi nhuận q ít. Vì thế chính phủ pnải đầu tư vào các loại hàng hoá này. “Sự can thiệp của chính phủ vào thị trường để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế chứng tỏ những việc làm như thế khơng phải do ý thích “.(Paul A.Samuel).

Cơng bằng. Cho đến nay chúng ta đã tập trung vào các thiếu sót trong vai trị chỉ đạo của bàn tay vơ hình-những sự thiếu hồn hảo có lẽ có thể sửa chữa được bằng sự can thiệp đúng đắn. Nhưng hãy tạm cho rằng nền kinh tế hoạt động hồn tồn có hiệu quả-ln ở trên ranh giới khả năng sản xuất và không bao giờ ở bên trong ranh giới này cả, luôn chọn đúng số lượng hàng hố cơng cộng so với hàng hố tư nhân.v.v... Nhưng thậm chí nếu hệ thống thị trường hoạt động hồn hảo như vừa mơ tả thì nhiều người vẫn khơng cho nó là lý tưởng.

Ơn định. Ngồi vai trị thúc đẩy hiệu quả và cơng bằng, chính phủ cũng tham gia vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế. Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ của lạm phát (giá cả lên) và suy thối (nạn thất nghiệp rất cao)mà ví dụ điển hình là thời kì siêu lạm phát ở Đức ,đại suy thoái ở Mĩ. Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, khơng có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều ln ổn định mà nó ln có sự biến động. Có những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ phồn thịnh nhưng cũng có lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do nhiều nguyên nhân: do lạm phát cao, những thay đổi của nền kinh tế thế giới... Do đó chính phủ góp phần làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng cách đưa ra những chính sách hợp lý.

Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trường-nhóm yếu tố chịu sự chi phối của “bàn tay vơ hình “ tức các quy luật kinh tế thị trường . Nhóm yếu tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ mơ, nhóm này gắn liền với “bàn tay hữu hình “, tức các cơng cụ quản lý của nhà nước như: pháp luật, chính sách, kế hoạch.

</div>

×