Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LờI Mở ĐầU
Ngày nay , chúng ta đang đợc chứng kiến sự phát triển đầy năng
động ,sáng tạo của các nền kinh tế trên thế giới cùng với xu hớng toàn cầu
hoá đang diễn ra mạnh mẻ, sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đẻ có thể
đứng vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh các quốc gia đều phải tìm ra
cho mình một phơng hớng đẻ có thể vơn lên. Ta có thể lấy những ví dụ rất
điển hình nh Nhật , Mỹ , EU , và khối ASEAN (trong đó có VN ) . Nắm
bắt đợc xu thế của thời đại, Đảng ta đã có những bớc chuyển kịp thời .Tại
đại hội Đảng 6 Đảng ta đã đề ra dờng lối đổi mới trong đó quan trọng nhất
là sự chuyển đổi cơ chế kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trờng . nền KTTT (kinh tế thị trờng ) đã từng là động lực
thúc đẩy CNTB phát triển một cách mạnh mẽ trong những giai đoạn trớc
đây và cả hiện nay . Thực tế đã chứng minh cơ chế thị trờng phát triển vô
cùng nhanh chóng từ khi nó ra đời.Cơ chế thị trờng làm cho nền kinh tế trở
nên năng động và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Nền kinh tế thị trờng luôn
là sự cạnh tranh giữa các hãng sản suất với nhau do đó họ phải luôn tìm
tòi,sáng tạo các phơng thức sản suất mới để mang lại lợi nhuận cao trong
kinh doanh. Chính vì thế nó làm cho nền kinh tế của đất nớc ngày càng phát
triển và phồn thịnh. (tốc độ tăng trởng kinh tế giai đoạn 90 95 luôn đạt
8,5%, GDP trên đầu ngời đạt 380 $ / năm tính đến thời điểm năm 2001)
Tuy nhiên cơ chế thị trờng không phải là một hoạt động kinh tế hoàn
hảo mà nó mang trên mình mặt trái của nó nh:sự cạnh tranh không hoàn
hảo; vấn đề ngoại ứng; sự phân hoá giàu nghèo...và các vấn đề xã hội khác.
Chính vì vậy, nhà nớc đã tham gia vào quá trình hoạt động của nền kinh tế
để giảm nhẹ hoặc khắc phục những hậu quả của nó. Nhng trên thực tế
không thể tồn tại một nền kinh tế chỉ đợc điều hành bằng mệnh lệnh và
cũng không có nền kinh tế nào hoạt động trên cơ sở tự nguyện mà không có
sự điều tiết của nhà nớc. Chính phủ ngày càng khẳng định đợc vai trò của
mình trong hoạt đọng của nền kinh tế, đặc biệt đối với một nớc đang trong
thời kì quá độ lên CNXH nh nớc ta .Chính vì vậy sau khi đợc học tập và
nghiên cứu môn KTCT em xin đợc trình bày những hiểu biết của mình về
vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế đồng thời liên hệ
với vai trò kinh tế của CP VN trong giai đoạn CNH HĐH đất nớc.
Phần I
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Vai trò của chính phủ trong nền
kinh tế thị trờng
I-/ Ưu thế và khuyết tật của thị tr ờng
Để hiểu rõ vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trờng, trớc hết
ta phải hiểu khái niệm về thị trờng và cơ chế thị trờng.
1 Khái niệm thị tr ờng và cơ chế thị tr ờng
a) Thị trờng
Có nhiềukháiniệm khác nhau vè thị trờng ,đó là do tuỳ từng gó
độ xem xét . Thị trờng gắn liền với quá trình sản xuất và lu thông hàng
hoá , nó ra đời và phát triển cung với sự ra đơì và phất triển của sản xuất lu
thông hàng hoá .
Vậy thị trờng là gì ? Theo nghĩa ban đầu nghĩa nguyên thuỷ ,
Thị trờng gắn liền với một địa điểm nhất định .Nó là nơi diễn ra quá trình
trao đổi ,mua bán hàng hoá .Thị trờng có tính không gian và thời gian
.Theo nghã này ,thị trờng có thể là nơi hội chợ các địa d hoặc các khu vực
tiêu thụ phân theo các mặt hàng ngành hàng.
Sản xuất hàng hoá ngày cangf phát ttrển ,lọng sản phẩm hàng hoá lu thông
trên thị trờng ngày càng dồi dào phong phú ,thị trờng dợc mở rộng . Thị tr-
ờng đợc hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn . Nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá
thông qua tiền tệ làm môi giới . Tại đây ,ngời muavà ngời bán tác động qua
lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lọng hàng hoá lu thông trên thị tr-
ờng .Và cũng có thể hiểu theo một nghĩa tong đối khái quát ,đó là: Thị tr-
ờng là một quá trình trong đó ngời mua và ngời bán một thứ hàng tác động
qua lại nhau để xác định giá cả và số lợng hàng (Paul A.Samuelson).
Vai trò của thị trờng : kinh tế hàng hoá gắn liền cới thị trờng .Sản xuất cho
thị trờng .Tiêu dùng phải thông qua thị trờng .Thị trờng là trung tâm của
toàn bộ quá trình tái sản xuất .Thị trờng là yếu tố cơ bản của môi trờng kinh
doanh, là nơi hình thành các quan hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế này là cơ
sở quan trọng để hình thành cơ cấu kinh tế. Thông qua thị trờng các quan
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hệ kinh tế giữa các ngành, các khu vực kinh tế mới đợc biểu hiên. Thị trờng
có khả năng dự báo và hớng dẫn ngới sản suất và tiêu dùng trong hành vi
kinh tế. Nói một cách khác,trong nền kinh tế hàng hoá tất nhiên tồn tại một
cơ chế thị trờng
b) Cơ chế thị trờng
Đề cập đến khái niệm cơ chế thị trờng thì hiện nay còn có nhiều ý kiến
khác nhau nhng hiểu theo một nghĩa khái quát thì cơ chế thị trwongf chính
là bộ máy kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trờng ,điều
tiết quá trình sản xuất và lu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các
quy luật kinh tế ,đặc biệt là quy luật giá trị quy luật kinh tế căn bản của
sản xất và lu thông hàng hoá . Tuy nhiên ,cơ chế thị trờng là sự cạnh tranh
khốc liệt .Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành phần sản
xuất và tiêu thụ hànghoá cólợi cho mình để thu lợi nhuận cao .
Sự tồn tại cơ chế thị trờng là một tất yếu khách quan đối với những
xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá . Coi nhẹ hoặc bỏ qua vai trò của
kinh tế thị trờng là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh
tế . Cơ chế thị trờng đợc coi là bàn tay vô hình điều tiết sự vận động
của nềnkinh tế hàng hoá.
Cơ chế thị trờng có những u thế và khuyết tật của nó mà ta phải nắm
đợc để có biện pháp phát huy những u điểm của nó đồng thời khắc phục
những khuyết tật đó.
2. Những u thế và khuyết tật của cơ chế thị tr ờng
Cơ chế thị tròng có những u thế sau đây :
Một là : cơ chế thị trờng kích thích việc áp dụng những tiến bộ
KHKT , nhờ đó mà năng suất lao động tăng , nâng cao trình độ xẫ hội hoá
sản xuất .
Hai là : cơ chế thị trờng có tính năng động , khả năng thích nghi
nhanh chóng
Ba là : cơ chế thị trờng tạo điều kiện cho mọi chủ thể sản xuất kinh
doanh cho nên hàng hoá rất đa dạng ,phong phú . Vì vậy việc thoã mãn nhu
cầu vật chất ,văn hoá của mọi thành viên trong xã hội ngày càng tốt hơn .
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bốn là:Lợi nhuận là động lực cao nhất để thúc đẩy quá trình sản
xuất. Từ đó nó trả lời các câu hỏi sản suất ra cái gì,sản suất nh thế nào và
sản xuất cho ai. Nó biết kết hợp các nguồn lực một cách hợp lýnhất để sản
xuất ra một khối lợng sản phẩm lớn nhất với chi phí thấp nhất,từ đó tối đa
hoá đợc lợi nhuận. Nền kinh tế thị trờng vận dụng đợc năng lực tối đa của
nền kinh tế về vốn, kinh nghiệm lao động.
Năm là:Trong nền kinh tế thị trờng, tất cả các ngành thuộc các lĩnh
vực khác nhau thì yếu tố chung duy nhất tác động đến doanh nghiệp là tạo
ra lợi nhuận. Các doanh nghiệp chỉ khác nhau ở hình thái quy mô tổ chức.
Nhng chúng có điểm giống nhau là hoạt động trực tiếp với thị trờng. Do đó
họ là những ngời dám chịu trách nhiệm trớc các quyết định của mình, từ đó
đòi hỏi các doanh nghiệp phải có trình độ,năng lực tổ chức kinh doanh
Tuy nhiên bên cạnh những u thế mà không một nền kinh tế nào có
thể sánh đợc thì cơ chế thị trờng cũng có những khuyết điểm tự bản thân nó
không thể giải quyết đợc . Ngời ta gọi đó là những thất bại thị trờng .
Đó là :
Thứ nhất : khủng hoảng kinh tế .Khủng hoảng sản xuất thừa luôn là
căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trờng phát triển . Lúc này , sản l-
ợng hàng hoá trên thị trờng vợt quá mức mức cầu có khả năng thanh toán
dẫn đến tình trạng d thừa hàng hoá và cùng với đó là sự phá sản của
hàng loạt các doanh nghiệp do hàng hoáẩan xuất ra không tiêu thụ đợc ,
khoong có khả năng thu hồi vốn để tái sản xuất .
Thứ hai : gắn liền với khủng hoảng kinh tế là nạn thất nghiệp của
ngời lao động , đây luôn là vấn đề nan giải đối với kinh tế thị trờng .
Thứ ba : sự phân hoá giai cấp sâu sắc càng làm cho mâu thuẫn giai
cấp vốn đã không thể điều hoà đợc trở nên gay gắt hơn . Các tác động của
nền kinh tế thị trờng đã dẫn đến tình trạng một số ngòi trở nên giàu có còn
một số khác làm ăn thua lỗ phá sản trơ thành những ngòi làm thuê . Sự đối
kháng về lợi ích kinh tế là cơ sở của đấu tranh giai cấp .
Thứ t : cơ chế thị trờng gây ô nhiễm môi trờng sinh thái , tàn phá
nghiêm trọng các tài nguyên thiên nhiên .
Thứ năm: Thị trờng phát triển dẫn đến độc quyền do đó làm giảm
động lực phát triển.
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thứ sáu: Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nó gây ra những
tệ nạn xã hội nh: hàng giả, buôn lậu, tham nhũng, hối lộ ...
Thứ bẩy: Thị trờng trong nhiều trờng hợp là kìm hãm chứ không phải
là thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Tóm lại, cơ chế thị trờng có tác động điều tiết sản xuất và lu thông
hàng hoá , chi phối sự vận đọng của nền kinh tế thị trờng , song tuy nhiên
sự điều tiết đó là mù quáng . Các chủ thể tham gia chỉ vì lợi ích của riêng
mình cho nên sự vâv động của cơ chế thị trờng tất yếu dẫn đến mâu thuẫn .
Bên cạnhđó ,cạnh tranh khó tránh khỏi lừa gạt , phá sản ,thất nghiệp . Tất
cả đều gây nên sự bất bình thờng trong quan hệ kinh tế và sự mất ổn định
xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 1933 càng chứng tỏ
bàn tay vô hình không thể đảm bảo cho kinh tế thị trờng phát triển bình
thờng , hơn nữa trình độ xã hội hoá ngà càng cao của lực lợng sản xuất đòi
hỏi phải có sự điều tiét của một trung tâm quyền lực . Chính vì lẽ đó , các
quan hệ kinh tế đòi hỏi phải có sự kiểm tra , điều tiết , định hớng có ý thức
đối với sự vận động của kinh tế thị trờng . Do đó trong kinh tế thị trờng ,
mọi nhà nớc , bất kể nhà nớc đó thuộc chế độ chính trị nào ,cũng đều phải
can thiệp , quản lý nền kinh tế ấy nói cách khác là cần tới bàn tay hữu
hình của Nhà nớc can thiệp vào nền kinh tế. ở nứơc ta sự quản lý của Nhà
nớc là nhằm hớng tới sự ổn định về kinh tế xã hội , công bằng hiệu quả làm
cho nền kinh tế ngày càng tăng trởng và phát triển với tốc độ cao .
II-/ Vai trò của nhà n ớc trong nền kinh tế thị
tr ờng
ở phần trên ta đã xem xét những u thế và khuyết tật của kinh tế thị
trờng , kinh tế thị trờng vẫn luôn tồn tại tính hai mặt nhng cho đến hiện nay
nó vẫn đợc rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng , đó là do không một
nền kinh tế thị trờng nào lại không có sự điều tiết ,quản lý của Nhà nớc . .
Chính sự điều tiết đó đã làm giảm bớt hoặc khắc phục những hậu quả của
cơ chế thị trờng làm cho cơ chế thị trờng u việt hơn hẳn so với các cơ chế
kinh tế khác và chính phủ dễ dàng hơn trong việc hớng nền kinh tế đi đúng
mục tiêu mà mình đã đề ra.
1. Mục tiêu của kinh tế vĩ mô
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mọi quốc gia hiện nay đều hớng tới mục tiêu là :sản lợng cao , tạo
đủ công ăn việc làm cho ngời lao động , ổn định giá cả và cán cân ngoại th-
ơng .
Mục tiêu 1: Ngày nay, thớc đo cuối cùng để đánh giá thành công
kinh tế, là khả năng của một nớc để tạo ra sản lợng cao và tăng nhanh đợc
sản lợng hàng hoá và dịch vụ kinh tế <Paul Samuelson>.Có nghĩa là tốc
độ tăng trởng kinh tế ở mức cao.
Mục tiêu 2: tỉ lệ thất nghiệp cao luôn là vấn đề làm đau đầu những
nhà quản lý kinh tế của chính phủ .Một quốc gia có số lao động thất nghiệp
thấp chứng tỏ nền kinh tế đó đang ở giai đoạn tăng trởng kinh tế cao.
Mục tiêu 3: ổn định giá cả và tỉ lệ lạm phát thấp . Việc ổn định đợc
giá cả trên thị trờng giúp cho các nhà kinh doanh có thể định hớng đầu t
sản xuất . Khi đồng tiền mất giá ,giá cả hàng hoá tăng thì đó là lạm phát .
Chính phủ luôn muốn duy trì tỉ lệ lạm phát ở mức hai con số bởi vì nếu tỉ lệ
lạm phát quá thấp thì cũng không có lợi cho phát triển kinh tế .
Mục tiêu 4: Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, ổn định tỷ giá hối
đoái. Hầu hết nền kinh tế của các nớc đều là nền kinh tế mở cửa, buôn bán
với nớc ngoài do đó luôn tồn tại việc xuất-nhập khẩu hàng hoá hoặc vay m-
ợn giữa các nớc... Cân bằng cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái
nhằm làm cho cán cân hơng mại không có những cú sốc lớn .
2 Chức năng kinh tế của Chính phủ
Khi thảo luận vai trò của chính phủ, chúng ta thờng đơng chấp nhận
rằng chính phủ là ngời đề ra luật lệ đi đờng. Để khẳng định vai trò của
mình chính phủ thực hiện các chức năng của mình.
Hiệu quả,nh đã nói ở trên, các nền kinh tế trên thực tế đôi khi chịu
thất bại thị trờng. Ơ hệ thống kinh tế cạnh tranh, nhiều nhà sản xuất đơn
giản không biết kỹ thuật sản xuất rẻ nhất, và chi phí sản xuất không hạ
xuống mức tối thiểu đợc. Trên thị trờng thực tế, một doanh nghiệp có thể
có lãi bằng cách giữ giá cao cũng nh bằng cách giữ mức sản xuất cao.
Trong nhiều lĩnh vực khác có rất nhiều tác động bên ngoài, vì ô nhiễm độc
hại hoặc vì kiến thức quí giá, đối với các nhà doanh nghiệp khác hoặc ngời
tiêu dùng. Trong mỗi một trờng hợp này, một thất bại thị trờng dẫn đến sản
xuất không hiệu quả hoặc tiêu dùng không hiệu quả, và ở đây, chính phủ có
thể đóng vai trò chữa bệnh. Nhng trong khi đánh giá vai trò của chính phủ
chữa bệnh kinh tế, chúng ta cũng phải cảnh giác với những thất bại của
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chính phủ - đó là tình huống chính phủ gây thêm bệnh hoặc làm cho bệnh
trầm trọng thêm.
Cạnh tranh không hoàn hảo. Một sai lệch nghiêm trọng của cạnh
tranh hoàn hảo là cạnh tranh không hoàn hảo hoặc nhân tố độc quyền.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ định nghĩa chính xác của nhà kinh tế về
ngời cạnh tranh hoàn hảo . Mới chỉ có một vài địch thủ cha đủ cho cạnh
tranh hoàn hảo. Định nghĩa kinh tế về cạnh tranh hoàn hảo trên một thị tr-
ờng là có đủ một số lợng doanh nghiệp hoặc mức độ cạnh tranh đến mức
không có một doanh nghiệp nào có thể ảnh hởng đến giá cả của hàng hoá
đó. Một ngời cạnh tranh không hoàn hảo là một ngời mà hành động có
thể ảnh hởng đến giá của một mặt hàng. Thực tế, điều này có nghĩa là hầu
hết các ông chủ doanh nghiệp, có lẽ trừ số hàng triệu nhà nông mà từng ng-
ời một sản xuất ra một phần không đáng kể trong toàn bộ thu hoạch, đều là
những ngời cạnh tranh không hoàn hảo. Ơ đầu cực cạnh tranh không hoàn
hảo là nhà độc quyền, ngời duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế là sự kết hợp giữa các nhân tố độc quyền
và cạnh tranh. Cạnh tranh không hoàn hảo chứ không phải cạnh tranh hoàn
hảo là hình thái chính. Nhng nói rằng, Một doanh nghiệp có thể tác động
tới giá cả sản phẩm của mình không có nghĩa là độc tài . Phần sau chúng
ta sẽ thấy rõ, một doanh nghiệp không thể định giá hàng hoàn toàn theo ý
muốn riêng mà vẫn có lãi. Doanh nghiệp đó phải tính đến giá của các hàng
có thể thay thế cho hàng của mình. Thậm chí nếu doanh nghiệp đó sản xuất
ra một loại dầu đốt đã có mác với những đặc tính độc đáo, họ vẫn phải tính
đến giá của các loại dầu đốt khác cũng nh giá của củi, khí đốt và chất cách
nhiệt. Nh vậy, sức mạnh kinh tế của những ngời cạnh tranh không hoàn
hảo luôn bị kiềm chế phần nào.
Các ông chủ doanh nghiệp và công nhân vừa a vừa ghét cạnh tranh
khi nó giúp chúng ta mở rộng thị trờng. Nhng chúng ta gọi nó là có tính
chất đục đẽo, không công bằng hoặc tai hại khi đối thủ cạnh tranh
của ta làm chúng ta chúnh ta mất lợi nhuận. Những công nhân sống phụ
thuộc vào giá bán sức lao động của mình trên thị trờng có thể là những ngời
đầu tiên la ó khi cạnh tranh nớc ngoài đe doạ tiền lơng của họ ở trong nớc.
Khi sức mạnh độc quyền- tức là khi một doanh nghiệp lớn có khả
năng tác động đến giá cả ở một thị trờng nào đó- thực sự trở thành quan
trọng về kinh tế, chúng ta sẽ thấy giá cả cao hơn mức hiệu quả, kiểu mẫu
méo mó về cầu và sản xuất, và lợi nhuận siêu thờng. Những lợi nhuận này
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có thể bị biến thành điều quảng cáo lừa dối hoặc là thậm chí có thể mua
ảnh hởng và sự bảo hộ của ngành lập pháp.
Chính phủ không coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu. Từ
những năm 1890 chính phủ Liên bang đã ra các luật chống độc quyền và
luật lệ kinh tế để tăng hiệu lực của hệ thống thị trờng cạnh tranh không
hoàn hảo của chúng ta.
Tác động bên ngoài. Một cách thứ hai để cơ chế thị trờng không bị
kiềm chế có thể dẫn đến kết quả không có hiệu quả xuất khẩu khi có nhân
tố tác động bên ngoài.
Vì xã hội chúng ta đã trở nên đông dân hơn xa, vì sản xuất ngày
càng dựa trên những quy trình sử dụng chất độc tác động bên ngoài đã từ
những phiền toái nhỏ mà trở thành những mối đe doạ lớn. Kết quả là chính
phủ đã sử dụng đến luật lệ điều tiết hành vi kinh tế nh là một cách để ngăn
chặn những tác động tiêu cực bên ngoài nh ô nhiễm nớc và không khí, khai
thác đến cạn khoáng sản, chất thải-gây nguy hiểm thức ăn, uống thiếu an
toàn và các chất phóng xạ...
Mặt khác, khi kinh doanh, các nhà sản xuất luôn muốn thu đợc lợi
nhuận cao nhất, nguồn vốn quay vòng nhanh... Do đó, một số loại hàng hoá
quan trọng cho việc phát triển kinh tế, cho sự bảo đảm an ninh trật tự cho
nền kinh tế lại không đợc đầu t vì nó không mang lại lợi nhuận hoặc lợi
nhuận quá ít. Vì thế chính phủ pnải đầu t vào các loại hàng hoá này. Sự
can thiệp của chính phủ vào thị trờng để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế
chứng tỏ những việc làm nh thế không phải do ý thích .(Paul A.Samuel).
Công bằng. Cho đến nay chúng ta đã tập trung vào các thiếu sót
trong vai trò chỉ đạo của bàn tay vô hình-những sự thiếu hoàn hảo có lẽ có
thể sửa chữa đợc bằng sự can thiệp đúng đắn. Nhng hãy tạm cho rằng nền
kinh tế hoạt động hoàn toàn có hiệu quả-luôn ở trên ranh giới khả năng sản
xuất và không bao giờ ở bên trong ranh giới này cả, luôn chọn đúng số lợng
hàng hoá công cộng so với hàng hoá t nhân.v.v... Nhng thậm chí nếu hệ
thống thị trờng hoạt động hoàn hảo nh vừa mô tả thì nhiều ngời vẫn không
cho nó là lý tởng.
Ôn định. Ngoài vai trò thúc đẩy hiệu quả và công bằng, chính phủ
cũng tham gia vào chức năng kinh tế vĩ mô là thúc đẩy sự ổn định kinh tế.
Từ khi ra đời, chủ nghĩa t bản đã từng gặp phải những thăng trầm chu kỳ
của lạm phát (giá cả lên) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao)mà ví dụ
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
điển hình là thời kì siêu lạm phát ở Đức ,đại suy thoái ở Mĩ. Trong sự phát
triển của mỗi quốc gia, không có một nền kinh tế ở quốc gia nào đều luôn
ổn định mà nó luôn có sự biến động. Có những thời kỳ nền kinh tế cực kỳ
phồn thịnh nhng cũng có lúc nền kinh tế nằm trong vùng đại suy thoái do
nhiều nguyên nhân: do lạm phát cao, những thay đổi của nền kinh tế thế
giới... Do đó chính phủ góp phần làm cho nền kinh tế dần dần ổn định bằng
cách đa ra những chính sách hợp lý.
Cơ chế quản lý kinh tế bao gồm hai nhóm yếu tố: Cơ chế thị trờng-
nhóm yếu tố chịu sự chi phối của bàn tay vô hình tức các quy luật kinh
tế thị trờng . Nhóm yếu tố này mang tính chất tự điều chỉnh. Nhóm hai là
sự quản lý của chính phủ ở tầm vĩ mô, nhóm này gắn liền với bàn tay hữu
hình , tức các công cụ quản lý của nhà nớc nh: pháp luật, chính sách, kế
hoạch.
Tóm lại, chính phủ có vai trò thúc đẩy nền kinh tế hớng tới sự công
bằng, hiệu quả và ổn định. Tuy nhiên chính phủ không thể hô hào nhân dân
là phải làm thế này hay thế kia thì mới đạt đợc hiệu quả mà chính phủ phải
sử dụng các công cụ của kinh tế vĩ mô đang có trong tay một cách hữu hiệu
nhất để thực hiện vai trò không thể thiếu đợc đối với nền kinh tế đất nớc .
3, Các công cụ quản lý vĩ mô của Chính phủ
Nhà nớc muốn thực hiện chức năng quản lý của mình thì phải có những
công
cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế có hiệu quả . . Một công cụ chính sách là một
biến số kinh tế chịu sự quản lý trực tiếp hay gián tiếp của chính phủ thay
đổi công cụ chính sách này sẽ có tác động đến một hoặc nhiều mục tiêu
kinh tế vĩ mô.
a) Hệ thống pháp luật :
Hệ thống pháp luật tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt
động kinh tế, đến mọi thành phần kinh tế ... nhằm tạo ra sự yên tâm cho các
nhà đầu t đồng thời đảm bảo trật tự kinh tế cũng nh đảm bảo trật tự xã hội
để nền kinh tế phát triển một cách lành mạnh. Nó đa xã hội nói chung và
nền kinh tế nói riêng vận động theo ý muốn chủ quan của chính phủ. Hệ
thống pháp luật có thể đợc sửa đổi bổ sung cho phù hợp với từng giai đoạn
cụ thể .
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
b. Chính sách tài khoá
Chính sách tài khoá bao gồm : Chi tiêu của Chính phủ và hệ thống
thuế .
Chi tiêu của Chính phủ : Chính phủ không thể không chi tiêu bởi vì
để có thể đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định thì Nhà nớc phải bỏ
tiền để xây dựng những công trình phục vụ cho các hoạt động kinh tế nh :
đờng sá , cầu cống , chợ , các ngành công nghiệp quan trọng ngoài ra
còn phải trả lơng cho cán bộ công nhân viên chức , cảnh sát , quân đội .
Việc chi tiêu này của chính phủ cũng là một hình thức đầu t nhng nó khác
với việc đầu t của doanh nghiệp do nó không đem lại lợi nhuận cho Nhà n-
ớc nhng bù lại nó lại đem lại những lợi ích rất thiết thực cho xã hội và nâng
cao hiệu quả kinh tế . Trong thời kì lạm phát , Chính phủ phải cắt giảm chi
tiêu của mình và sử dụng những công cụ kinh tế khác để đẩy lùi lạm phát .
Nh vậy , Chính phủ không thể chi tiêu một cách lãng phí ngân sách Nhà n-
ớc . Chính phủ luôn phải cân nhắc kĩ càng trong việc chi tiêu của mình để
tránh thâm hụt ngân sách nhà nớc . Trong trờng hợp ngân sách nhà nớc bị
thâm hụt thì Chính phủ phải huy động tiền gửi trong nhân dân hay vay nớc
ngoài để bù đắp ngân sách .
Nh vậy, Nhà nớc nào cũng phải chi tiêu, nhng không phải số tiền mà
nhà nớc đã chi tiêu là tự nhiên có mà phải có nguồn thu. Nguồn thu chính
của nhà nớc là thuế , còn những nguòn thu khác không đáng kể .
Hệ thống thuế : Thuế khoá là khoản đóng góp mang tính pháp lệnh
mà nhà nớc bắt buộc mỗi công dân và các tổ chức kinh tế phải nộp để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Tất cả các quốc gia đều quy định mức
thuế suất với mỗi loại thuế và buộc mọi ngời phải tuân theo. Thuế còn ảnh
hởng đến việc đầu t của mỗi doanh nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến
khích đầu t, việc giảm các sắc thuế đánh vào các khoản bổ sung cho đầu t
hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu t ở nhiều ngành từ
đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên trong tơng
lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nớc. Nếu
các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế đợc việc
nhập khẩu các mặt hàng đó, tơng tự đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều
tiết đợc lợng hàng hoá nội địa và nhập ngoại. Nh vậy, khi chính phủ muốn
bảo hộ một loại mặt hàng nào đó ở trong nớc thì chỉ cần tăng thuế nhập
khẩu của mặt hàng đó lên cao đến mức các doanh nghiệp không muốn nhập
khẩu loại mặt hàng đó nữa.
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nh vậy, để ổn định sản lợng gần với sản lợng tiềm năng thì chính
phủ có thể sử dụng chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của
tổng cầu hạ thấp một cách không bình thờng thì chính phủ phải kích thích
nhu cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách.
Trong trờng hợp các bộ phận của tổng cầu cao hơn mức bình thờng thì
chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả hai cách.
Cính sách thuế đúng đắn không chỉ có mục đích tạo nguồn thu cho ngân
sách mà còn khyuến khích sản xuất , xuất khẩu , điều tiết tiêu dùng ,khắc
phục có hiệu quả các hiện tợng tiêu cực trog nền kinh tế , thu hút đợc nhiều
vốn đầu t của nớc ngoài , khuyến khích việc đầu t có hiệu quả kinh tế - xã
hội cao.
c, Chính sách tiền tệ
Trong nền kinh tế thị trờng , tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng
Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô đợc dùng tơng đối phổ biến
của chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu t t nhân, hớng
nền kinh tế vào mức sản lợng và việc làm mong muốn.
Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lợng cung về tiền và lãi
suất. Thực chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng
trung ơng kiểm soát việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung
ơng kiểm soát bằng cách tăng hoặc giảm lợng cung ứng tiền trong lu thông
thông qua lãi suất hoặc chứng khoán... Thông thờng trong những thời kỳ
lạm phát cao, ngân hàng trung ơng nâng lãi suất lên cao (chính sách thắt
chặt tiền tệ)để thu hút một khối lợng lớn tiền vào ngân hàng làm cholợng
tiền trong lu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng trung
ơng giảm lãi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lợng
tiền trong lu thông. Nh vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm
ảnh hởng đến đầu t,từ đó sẽ ảnh hởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy
chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song do tác động đến đầu t, nên nó cũng có
ảnh hởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn.
d.Chính sách thu nhập:
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử
dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp.
Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn nh:đồng l-
ơng,đồng giá; những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lơng-tiền...,
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đến các biện pháp linh hoạt nh:việc hớng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu
nhập...
Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát
cao. Thực chất của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lơng-tiền.
Trong thời kỳ lạm phát cao chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và
đông tiền lơng, tức là cố định giá cả và tiền công trong một thời gian nhất
định nhằm giảm bớt lợng tiền.
e.Chính sách kinh tế đối ngoại:
Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế
đối ngoại để sự trao đổi mua bán giữa các nớc đợc thuận lợi. Chính sách
kinh tế đối ngoại bao gồm nhiều loại công cụ nh: quản lý tỷ giá hối đoái,
chính sách ngoại thơng, trợ giá, hàng rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác
động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá cả hàng hoá đó đều thông qua
các công cụ này.Chẳng hạn nh để khuyến khích xuất khẩu thì chính phủ có
thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm cho giá ngoại tệ
giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động bằng cách
hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí xuất
khẩu hạ xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh
tranh với các hãng sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nớc khác. Nh vậy,
những biện pháp này nhằm duy trì sự cân bằng trên thị trờng ngoại hối và
giữ cho xuất-nhập khẩu theo nh mong muốn của chính phủ .
Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ,
ngoài ra còn có các công cụ khác nh các kế hoạch, các chơng trình phát
triển...Việc sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở
mỗi quốc gia là không giống nhau. Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem
xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở quốc gia mình .
Qua nghiên cứu việc điều tiết của Nhà nớc trong nền kinh tế thị tr-
ờng ta có thể thấy đợc mặt tiến bộ vợt trội hơn hẳn so với trong nền kinh tế
chỉ huy :
Nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế mà ở đó Chính phủ trực tiếp giải
quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế .Còn trong nền kinh tế thị trờng có
sj điều tiết của Nhà nớc thì cả Chính phủ và thị trờng đều tham gia giải
quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế . Ba vấn đề đó là : sản xuát cái
gì , sản xuất nh thế nào , và sản xuất cho ai .
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sản xuất cái gì : trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nớc sẽ trực tiếp phân
bố những nguồn lực ( đất đai , nguyên liệu , vốn kỹ thật , lao động) cho
các ngành , địa phơng , các đơn vị kinh tế (công ty, xí nghiệp); Nhà nớc
qui định công ty này , xí nhgiệp này sẽ sản xuất cái gì , số lợng là bao
nhiêu , nhà nớc cấp vốn , nguyên liệu . Còn trong kinh tế thị trờng , Chính
phủ cho phép các doanh nghiệp sản xuất bất cứ mặt hàng nào đem lại lợi
nhuận cho họ trong khuôn khổ của pháp luật . Còn Chính phủ tham gia sản
xuất những hàng công cộng hay còn gọi là cơ sở hạ tầng phục vụ cho các
quá trình kinh tế . Bên cạnh đó Nhà nớc cũng tham gia sản xuất những mặt
hàng t nhân nh sắt , thép
Sản xuất nh thế nào : trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nớc quyết định
kỹ thuật , công nghệ , cách thức sản xuất . Còn trong kinh tế thị trờng , Nhà
nớc sẵn sàng nhập những công nghệ kĩ thuật tốt nhất mà Nhà nớc có thể và
can thiệp tới những công ty nhập những ccông nghệ có hại cho cộnh
đồng .
Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nớc phân chia tổng
sản phẩm quốc dân cho từng đơn vị , từng gia đình , từng cá nhân . Nghĩa là
, các đơn vị sản xuất sau khi hoàn thành chỉ tiêu đã đợc đặt ra thì nộp lại
cho Nhà nớc .Nhà nớc sẽ phân phối đều những mặt hàng đó đến các
ngành , các gia đình thông qua tem phiếu . Trong kinh tế thị trờng , cả Nhà
nớc và thị trờng đều tham gia quá trình phân phối sản phẩm. Nhà nớc có
những chính sách trợ cấp cho ngời già , ngời tàn tật , trợ cấp khó khăn . Đối
với một số mặt hàng , Nhà nớc khyuến khích bằng những chính sách nh :
giảm thuế , trợ giá
Qua đây ta thấy, nền kinh tế chỉ huy hoạt động kém hiệu quả hơn
hẳn so với nền kinh tế thị trờng có sự điều tiết của chính phủ do chỉ đợc
điều hành bằng mệnh lệnh, sản xuất không thông qua cung- cầu trên thị tr-
ờng, bên cạnh đó hệ thống cơ quan nhà nớc rất đồ sộ làm cho nhà nớc phải
có chi phí quá lớn vào hệ thống này. Trên thực tế cơ chế kinh tế chỉ huy
này đã đợc áp dụng ở các nớc XHCN trớc đây và nó đã bị tan rã . Chính vì
vậy việc chuyển đổi cơ cấu cấu kinh tế ở nức ta là một quyết định đúng
đắn.
Chu Thị Phơng Anh
4022 Kế toán Kiểm toán.
Trang 13