Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.38 KB, 11 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
– Về lý luận:
<b>Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩmcủa sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêunước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử giao cho sứ mệnh nắm quyềnlãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam, vì thế, Đảng Cộng sản Việt Namđược Nhân dân suy tôn là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân laođộng và của toàn thể dân tộc Việt Nam. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Theo dòng lịch sử Việt Nam những năm giữa thế kỷ XIX cho thấy, trước khi thực dân Pháp xâm lược, nước ta là một nước phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ với các chính sách vơ cùng bảo thủ và phản động của Triều đình nhà Nguyễn. Ngày 01/9/1958, thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược và từng bước thơn tính Việt Nam. Vào năm 1884, sau khi Điều ước Pa tơ nốt được ký kết, Việt Nam trở thành "một xứ thuộc địa, dân ta là vong
<i>quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác" (Hồ Chí Minh tồn tập). </i>
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa sâu sắc, hình thành giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân, giai cấp công nhân, giai cấp tư sản, tiểu tư sản. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: Công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ phong kiến, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Trước sự xâm luợc của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Tuy nhiên, tất cả đều lần lượt thất bại, chứng tỏ những giai cấp và hệ tư tưởng cũ không đủ khả năng để lãnh đạo nhân dân đến với sự thành cơng hồn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp của ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Trong tác phẩm “Thườngthức chính trị” được viết 1953, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác – Lênin“. Sự kiện Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối Cách mạng sâu sắc về vấn đề lãnh đạo từ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, cũng như tìm được một kim chỉ nam cho sựnghiệp giải phóng đất nước ở nước ta, đồng thời chứng tỏ tầng lớp công nhân lao độngở Việt Nam đã “đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Ngay chính tại giây phút ấy, giai cấp cơng nhân đã có một bộ máy đầu não của giai cấp và dân tộc với đủ khả năng để lãnh đạo, đánh dấu sự chiến thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô sản. Sự ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam khiến cho cách mạng Việt Nam thật sựgóp phần vào bộ máy hoạt động một cách linh hoạt và khăng khít của cách mạng thế giới. Tính từ giây phút này, cách mạng Việt Nam thật sự chiếm được sự ủng hộ của cáctổ chức cách mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn vì mục đích chung của cách mạng thế giới.
hi đề cập các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và của phong trào công nhân châu Âu, Lênin nêu lên hai yếu tố, đó là sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào cơng nhân.
Khi đề cập sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, bên cạnh hai yếu tố chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào công nhân, Hồ Chí Minh cịn kể đến yếu tố thứ ba đó là phong trào yêu nước. Trong bài “Thường thức chính trị” viết năm 1953,
<i>Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ </i>
<i>nghĩa Mác – Lênin“. Nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết </i>
<i>bài Ba mươi năm hoạt động của Đảng, trong đó nói rõ “Chủ nghĩa Mác – Lênin </i>
<i>kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành </i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><i>lập đảng cộng sản Đơng Dương vào đầu năm 1930“. Đây chính là một quan </i>
điểm quan trọng của Hồ Chí Minh về sự hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam.
Trước sự xâm luợc của thực dân Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu trong thời kì này là: Phong trào Cần Vương (1885-1896) mà đỉnh cao là khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, phong trào nơng dân chống Pháp, tiêu biểu là khởi nghĩa Yên Thế (1884-1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Tuy nhiên, tất cả lần lượt đều thất bại, điều đó cho thấy sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trước nhiệm vụ lịch sử - lãnh đạo phong trào yêu nước giải quyết thành công nhiệm vụ dân tộc Việt Nam.
Cùng với đó, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, các phong trào giải phóng dân tộc giai đoạn này có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập nhưng đều với mong muốn gánh vác sứ mệnh lịch sử cứu vớt dân tộc Việt Nam thoát khỏi xiềng xích nơ lệ (phong trào Đơng Du, Đơng kinh nghĩa thục, Duy Tân…) mà đại diện tiêu biểu nhất là hai chí sĩ yêu nước với hai khuynh hướng cứu nước
<i>khác nhau là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Tuy nhiên, các phong trào cứu nước từlập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lầnlượt thất bại, đều bị chính thực tế lịch sử Việt Nam chối bỏ vì chúng hồn tồn khơng đápứng được u cầu phát triển của dân tộc. </i>
Từ trong phong trào đấu tranh, hàng loạt các tổ chức đảng phái ra đời: Đảng Lập hiến (1923); Đảng Thanh niên (tháng 3/1926); Đảng Thanh niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn (năm 1925), sau nhiều lần đổi tên, tháng 7/1928 lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân Đảng (tháng 12/1927). Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản trên đây đã góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp, trong đó nổi bật là Tân Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do những hạn chế về giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng xã hội cơ bản (công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công.
Mặc dù thất bại nhưng sự phát triển mạnh mẽ của phòng trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, và chính sự phát triển của phong
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sinh ra trong một gia đình tri thức yêu nước, lớn lên từ một miền quê có truyền thống đấu tranh quật khởi, Nguyễn Ái Quốc từ rất sớm đã có "chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào". Với khát vọng giải phóng dân tộc, cùng với thiên tài trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén và được kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Mặc dù Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… nhưng không tán thành con đường cứu nước của các cụ. Xuất phát từ lòng yêu nước và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách mạng tiền bối, ngày 5/6/1911, với tên gọi Nguyễn Tất Thành, Người đã quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước.
Sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc trên cuộc hành trình tìm kiếm con đường cứu nước mới cho dân tộc diễn ra vào tháng
<i>7/1920, khi Người đã đọc được Bản sơ thảo lần thứ nhất Đề cương các vấn đề dân tộc và</i>
<i>thuộc địa của Lênin, và tìm thấy trong đó con đường đúng đắn để giành độc lập thật sự. Đó</i>
<i>là con đường cách mạng vơ sản. Chỉ có thể giải phóng dân tộc, giành độc lập thật sự khi</i>
<i>gắn liền sự nghiệp đó với cách mạng vơ sản. Từ đó, trào lưu cách mạng theocon đường vơsảncủa chủ nghĩa Mác - Lênin do Nguyễn Ái Quốc tiếp thu và được đưa vào phong trào "vơ</i>
sản hóa" ở Việt Nam là đứng vững trong các trào lưu có tính chất cách mạng những năm 20 của thế kỷ XX. Vào thời điểm đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với tầm nhìn chiến lược và nhạy bén chính trị đã tiến hành tổ chức vận động thành lập Đảng ở Đông Dương. Người đã biên soạn nhiều tài liệu, giáo trình tập huấn, tuyên truyền trong phong trào công nhân. Khi những điều kiện cần thiết đã chín muồi, Nguyễn Ái Quốc cùng các chiến sĩ cộng sản đã quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930. Sứ mệnh lịch sử đó là tất yếu, khơng ai, khơng một lực lượng nào có thể thay thế. Nó phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. hệ thống lý luận cách mạng khoa học do C. Mác; Ăngghen xây dựng được tổng kết khái quát từ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nước chống lại giai cấp tư sản, được Lênin phát triển qua thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và được Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự sáng tạo, độc đáo của Hồ Chí Minh về vận dụng học thuyết Mác – Lê nin về Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa Mác – Lênin về Đảng Cộng sản đã chỉ ra quy luật ra đời, tồn tại, phát triển của Đảng là chủ nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân. Đối với nước ta lúc bấy giờ là một nước thuộc
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">địa nửa phong kiến, kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, giai cấp cơng nhân cịn nhỏ bé, phong trào công nhân phát triển, phong trào yêu nước mạnh mẽ. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh nhận thấy: Để thành lập Đảng phải làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước chuyển biến về chất và phải được chủ nghĩa Mác – Lênin soi sáng, các yếu tố đó phải được kết hợp với nhau. Người đã tích cực thực hiện và thực hiện thành cơng điều đó, dẫn
<i>tới sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03/02/1930. Như vậy, sự ra đời của</i>
<i>Đảng là đòi hỏi khách quan của thực tế lịch sử lúc bấy giờ, không phải tự nhiên mà có,</i>
cũng khơng phải muốn là được. Đảng ra đời đáp ứng được khát vọng lớn lao của toàn thể cần lao, xóa tan màn đêm đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong.
<i>Trong quá trình vận động cách mạng, với tơn chỉ mục đích rõ ràng "trước làm tư sản dân</i>
<i>quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản", Đảng Cộng sản Việt</i>
Nam nhanh chóng giành được vị thế lãnh đạo và được sự ủng hộ rộng rãi của quảng đại quần chúng Nhân dân lao động, một lịng, một dạ đồn kết xung quanh Đảng, quyết tâm ủng hộ Đảng lãnh đạo đất nước đi đến thắng lợi cuối cùng. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng: về mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể; về tổ chức và xây dựng lực lượng cách mạng; về hình thức và phương pháp đấu tranh, sách lược cách mạng; về đoàn kết mọi lực lượng của toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; về xây dựng Đảng - đội tiền phong lãnh đạo cách mạng. Cương lĩnh của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển và cụ thể hóa trong đường lối, chính sách và những chủ trương lớn ở các thời kỳ cách mạng.
Đường lối đúng đắn của Đảng được các giai cấp, tầng lớp hưởng ứng và ủng hộ, phát triển mạnh mẽ khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Việt Minh, thúc đẩy cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại năm 1945. Cách mạng Tháng Tám đã xóa bỏ chế độ thực dân gần một thế kỷ, chấm dứt chế độ phong kiến hàng nghìn năm, giành được chính về tay Nhân dân; thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ cộng hịa đầu tiên ở Đơng Nam Á, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. "Do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt Minh, cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi". "Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong
<i>lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảngmới 15 tuổi đã</i>
<i>lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền tồn quốc".</i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Sau khi giành được chính quyền, khác với các đảng chính trị khác trên thế giới, khi lãnh đạo Nhân dân giành được chính quyền thì tự mình hưởng thành quả cách mạng, Đảng ta không làm như vậy mà chủ trương "dựng ra chính phủ cơng - nơng - binh" và "mọi quyền lợi đều trao cho Nhân dân". Đúng như lời cam kết mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra ngay từ khi vận động thành lập Đảng: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm đến nơi, nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền lợi giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một số ít người".
<i>Như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển là do chính địi hỏi của</i>
<i>lịch sử, cần có một tổ chức chính trị Đảng Cộng sản lãnh đạo để đánh đổ thực dân phong</i>
kiến, xây dựng một xã hội mới chứ không phải Đảng áp đặt hay địi hỏi cho mình mà được. Như vậy, mặc dù Đảng giành được chính quyền qua quá trình lãnh đạo cách mạng, nhưng Đảng được trao quyền lãnh đạo đất nước lại thông qua con đường luật pháp, bầu cử dân chủ mà ra.<small>.</small>Chỉ sau khi Quốc hội được bầu bằng cuộc Tổng tuyển cử và Quốc hội thơng qua Hiến pháp thì quyền lực nhà nước của Nhân dân ta mới được xác lập về mặt pháp lý. Đảng có trách nhiệm trọng đại lãnh đạo toàn dân tộc tiếp tục con đường cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Quyền lực của Đảng là do nhân dân và cả dân tộc Việt Nam tin tưởng giao cho chứ Đảng khơng địi hỏi bắt buộc phải có sứ mệnh lịch sử đó. Vì niềm tin của dân tộc, của nhân dân, Đảng đã hy sinh cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc và của nhân dân Việt Nam, làm chọn vẹn sứ mạng cao cả mà nhân dân giao cho. Đảng Cộng sản Việt Nam trước vận mệnh sống còn của dân tộc đã quyết tâm lãnh đạo toàn dân tiến hành các cuộc kháng chiến oanh liệt giành và bảo vệ độc lập, thống nhất của dân tộc. Sự nghiệp đó được hoàn thành với Đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế, ghi vào lịch sử dân tộc như như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt, dân tộc Việt.
Đất nước thống nhất (1975), Đảng lãnh đạo xây dựng CNXH trên cả nước. Sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH là hoàn toàn mới mẻ, chưa từng có ở Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ nặng nề đó, chúng ta đã giành được những thành tựu quan trọng, song cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thậm chí sai lầm, khuyết điểm. Thực tế đó địi hỏi Đảng phải chú trọng nắm bắt đặc điểm thực tiễn của đất nước, đổi mới tư duy lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, để nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đường lối đổi mới của Đại hội VI (12/1986) đã được hoạch định trên cơ sở đó. Thực tiễn đổi mới và sự phát triển nhận thức
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>lý luận có ý nghĩa quan trọng để Đảng đề raCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ</i>
<i>quá độ lên chủ nghĩa xã hộitại Đại hội VII (6/1991) và bổ sung, phát triển Cương lĩnh tại Đại</i>
hội XI của Đảng (1/2011).
<i>Thứ ba,nhận thức rõ hơn về cội nguồn sức mạnh của Đảng. Đảng ra đời là quy </i>
luật tất yếu của sự vận động phong trào công nhân từ tự phát đến tự giác khi nó được trang bị lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào yêu nước Việt Nam. Nguồn gốc sức mạnh của Đảng là sức mạnh của lý luận “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất” được vận dụng vào điều kiện cụ thể nước ta, là sự kết hợp chặt chẽ giữa phong trào đấu tranh tự giác của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước của đông đảo các giai cấp tấng lớp trong xã hội. Để giữ vững và phát huy năng lực lãnh đạo, một mặt Đảng phải tuyệt đối trung thành với nền tảng tư tưởng, mặt khác phải đổi mới tư duy phù hợp với thực tiễn để đề ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn. Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất và cũng là lý do tồn tại của Đảng. Bên cạnh đó cần phải tăng cường bản chất giai cấp của Đảng đồng thời với việc xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đồn kết dân tộc trên cơ sở nịng cốt là liên minh công
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, từ một nước nghèo đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình. Thành quả đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cấp bách là phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn. Đảng ta đã bước sang tuổi 86, được đánh dấu bằng sự kiện trọng đại là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã thành công tốt đẹp với việc lựa chọn ra được bộ máy lãnh đạo mới và thông qua Nghị quyết Đại hội. Đây là sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống chính trị nước ta. Cán bộ, đảng viên, Nhân dân cả nước kỳ vọng nghị quyết của đại hội sẽ sớm đi vào cuộc sống. Trước yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới, với những dư âm tốt đẹp và niềm tin trọn vẹn trong lòng cán bộ, đảng viên và Nhân dân, Đảng ta ln kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
<i>độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. "Mùa Xuân Bính Thân đang về, mang theo</i>
<i>những điều tốt lành. Chúng ta đang chuẩn bị kỷ niệm 86 năm Ngày thành lập Đảngquang vinh. Với quyết tâm mới, khí thế mới, sức sống mới, với niềm tin tưởng sâusắc vào sức mạnh, ý chí của tồn Đảng, toàn dân tộc, vào tương lai tươi sáng của</i>
</div>