Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.81 MB, 126 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA </b>

<b>Đỗ Phương Thái </b>

<b>QUẢN LÝ DI TÍCH CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẠC LIÊU </b>

<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HĨA </b>

<b>Thanh Hóa, 2023 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>THANH HĨA </b>

<b>Đỗ Phương Thái </b>

<b>QUẢN LÝ DI TÍCH CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẠC LIÊU </b>

<b>Chuyên ngành: Quản lý văn hóa Mã số: 8229042 </b>

<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA </b>

<b>Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thảo </b>

<b>Thanh Hóa, 2023</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CAM ĐOAN </b>

Tôi xin cam đoan những vấn đề được trình bày trong luận văn “Quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu ” là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Lê Thị Thảo. Các số liệu, kết quả nghiên cứu và các dẫn chứng là hoàn toàn trung thực, có sự tham khảo, sưu tầm, thừa kế những nghiên cứu của các tác giả đi trước. Bên cạnh đó những trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc hoặc chỉ rõ trong phần tài liệu tham khảo.

Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về những nội dung đã được trình bày trong luận văn.

<b>Tác giả </b>

<b>Đỗ Phương Thái </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ... 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu... 6

5. Phương pháp nghiên cứu ... 6

6. Những đóng góp của luận văn ... 7

7. Bố cục của Luận văn ... 7

<b>Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH CẤP QUỐC GIA VÀ TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH CẤP QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẠC LIÊU ... 8 </b>

1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di tích cấp quốc gia ... 8

1.1.1. Một số khái niệm ... 8

1.1.2. Nội dung quản lý di tích cấp quốc quốc gia ... 12

1.2. Tổng quan về vùng đất Bạc Liêu và di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu ... 16

1.2.1. Khơng gian lịch sử - văn hóa ... 16

1.2.2. Số lượng, phân bố và loại hình ... 19

1.2.3. Tình trạng kỹ thuật ... 22

1.2.4. Giá trị lịch sử - văn hóa ... 24

1.2.5. Một số di tích quốc gia tiêu biểu ... 24

Tiểu kết chương 1 ... 32

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ DI TÍCH CẤP QUỐC GIA TRÊN </b>

2.2.1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật ... 39

2.2.2. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích ... 41

2.2.3. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn ... 51

2.2.4. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di tích ... 56

2.2.5. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến di tích ... 58

<b>Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ DI TÍCH QUỐC GIA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẠC LIÊU ... 68 </b>

3.1. Một số quan điểm về quản lý di tích cấp quốc gia ... 68

3.1.1. Quan điểm quản lý di tích quốc gia gắn với phát triển bền vững ... 68

3.1.2. Quan điểm bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể gắn với các giá trị văn hoá phi vật thể ... 71

3.1.3. Quan điểm bảo tồn, phát huy di tích gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ... 72

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý ... 72

3.2.1. Nâng cao công tác chỉ đạo, lãnh đạo quản lý ... 72

3.2.2. Xây dựng chính sách, kế hoạch chiến lược quản lý cho từng giai đoạn ... 74

3.2.3. Nâng cao chất lượng tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát

3.2.7. Đa dạng hóa các hình thức tun truyền, nâng cao nhận thức của người dân về bảo tồn và phát huy giá trị di tích ... 83

3.2.8. Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hoá ... 85

Tiểu kết chương 3 ... 88

<b>KẾT LUẬN ... 89 </b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 92 </b>

<b>PHỤ LỤC ... 98 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ </b>

BVHTT Bộ Văn hố - Thơng tin

<b>CNH - HĐH Cơng nghiệp hố - Hiện đại hóa </b>

UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc

VHTT&DL Văn hoá, Thể thao và Du lịch

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Bảng 2.1. Q trình xếp hạng di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu .. 42 Bảng 2.2. Một số hạng mục di tích cấp quốc gia được tu bổ, tôn tạo giai

đoạn 2017-2023 ... 45

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>DANH MỤC SƠ ĐỒ </b>

Sơ đồ 1.1. Sơ đồ các chủ thể quản lý trực tiếp di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu ... 37

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<b>MỞ ĐẦU </b>

<small>1 </small>

<b>1. Lý do chọn đề tài </b>

Bạc Liêu là vùng đất cần kề điểm cuối của đất nước, thuộc duyên hải đồng bằng sơng Cửu Long. Đây là một vùng đất mới, có tuổi đời mới trên 300 năm. Những xóm làng đầu tiên đã được hình thành từ thế kỷ XVII và tồn tại, phát triển cho đến ngày nay. Tuy nhiên, lịch sử, văn hóa của vùng đất này có khơng ít các dấu ấn đậm nét. Khi người Pháp sang xâm lược Việt Nam đã coi Bạc Liêu là vùng đất có vị trí quan trọng trọng chiến lược khai thác và xây dựng Đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì vậy, Pháp đã lên kế hoạch xây dựng Bạc Liêu thành trung tâm hành chính của miền Tây Nam Bộ. Hơn nữa, các cộng đồng người Việt, người Hoa và người Khmer chung sống lâu đời trên vùng đất này đã tạo nên nhiều hiện tượng văn hóa thú vị.

Đặc trưng lịch sử văn hóa đó của Bạc Liêu đã hình thành nên hệ thống di tích lịch sử văn hóa khá dày đặc, với 55 di tích đã xếp hạng, trong đó có 01 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 13 di tích cấp quốc gia, 41 di tích cấp tỉnh. Các di tích ở Bạc Liêu thuộc mọi loại hình di tích đã được phân loại theo Luật Di sản văn hóa, phản ánh khá đậm nét tâm hồn, tính cách của con người và truyền thống văn hóa của Bạc Liêu. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để các di tích này được bảo tồn và phát huy giá trị một cách hiệu quả nhất, vừa đáp ứng được nhu cầu thưởng thức văn hóa của cơng chúng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bạc Liêu.

Đối với mỗi địa phương, các di tích cấp quốc gia là những di tích có những giá trị nổi bật, thể hiện đặc sắc các vấn đề của lịch sử - văn hóa địa phương và dân tộc, đồng thời cũng là điểm thu hút người dân đến tham quan, chiêm bái, do đó có khả năng tạo ra động lực phát triển kinh tế - xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Công tác quản lý các di tích cấp quốc gia ở Bạc Liêu trong những năm qua đã được quan tâm, đầu tư và việc thực hiện đã có có nhiều chuyển biến góp phần đáp ứng nhu cầu giáo dục truyền thống, tìm hiểu lịch sử - văn hóa của cộng đồng. Tuy nhiên cơng tác quản lý di tích vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như bộ máu và phân cấp quản lý chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn; các bên liên quan chưa được đánh giá đúng vai trị của mình, trong quản lý cịn có sự chồng chéo, trong các di tích vẫn còn hiện tượng xuống cấp, lấn chiếm đất đai, công tác thanh, kiểm tra chưa được đẩy mạnh thường xun.

Trước thực trạng đó, cơng tác quản lý nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát huy giá trị các di tích cấp quốc gia của tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn hiện nay cần có những giải pháp phù hợp để phát huy giá trị của di tích, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, hưởng thụ văn hóa, nghiên cứu của nhân dân, qua đó góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Cho đến nay đã có nhiều bài viết riêng lẻ về từng di tích cấp quốc gia ở tỉnh Bạc Liêu, chủ yếu dưới góc độ đánh giá giá trị, các sự kiện có liên quan đến di tích. Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới cho người đọc thấy được sự phong phú, đa dạng và giá trị của các di tích cấp quốc gia ở tỉnh Bạc Liêu, nhưng chưa có một cơng trình khoa học chuyên biệt nào tập trung đi sâu nghiên cứu về quản lý di tích nói chung và di tích quốc gia ở địa phương này.

<i><b>Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Quản lý di </b></i>

<i><b>tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu” làm luận văn Thạc sĩ chuyên </b></i>

ngành Quản lý văn hóa, với mong muốn thơng qua đó có thể góp một phần nhỏ vào cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa tỉnh Bạc Liêu.

<b>2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu </b>

Nghiên cứu về quản lý di tích khơng phải là vấn đề mới mà đã có nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu chủ yếu đi vào tìm

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

hiểu những vấn đề chung trong công tác quản lý nhà nước, trong khi mỗi địa phương đều có những đặc điểm riêng, cần phải có những biện pháp phù hợp. Một số cơng trình đề cập đến những nội dung liên quan của đề tài là:

<i><b>2.1. Các cơng trình nghiên cứu về quản lý di tích lịch sử - văn hóa </b></i>

Một số cơng trình nghiên cứu hiện nay đề cập đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị của DSVH, làm cơ sở tham khảo cho việc quản lý di tích lịch sử - văn hóa ở tỉnh Bạc Liêu. Có thể kể đến:

<i>Các sách xuất bản thuộc lĩnh vực bảo tồn - bảo tàng như: “Sổ tay cơng </i>

<i>tác bảo tàng” của Lâm Bình Tường, Đặng Văn Bài, Mai Khắc Ứng, Phạm </i>

<i>Xanh năm 1980; “Sổ tay công tác bảo tồn” Lâm Bình Tường năm 1986; </i>

<i>“Bảo tồn di tích lịch sử -văn hóa” của Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức năm </i>

<i>1993; “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân tộc” của tác </i>

giả Hoàng Vinh năm 1997… bước đầu đã bàn về một trong những lĩnh vực tương đối quan trọng của cơng tác quản lý văn hóa từ sau thập kỷ 60 đến nay - lĩnh vực bảo tồn DSVH. Tuy không đề cập cụ thể về cơng tác quản lý di tích lịch sử - văn hóa ở tỉnh Bạc Liêu, nhưng những cơng trình nghiên cứu này có thể được xem như là những tham khảo có giá trị khoa học về mặt phương pháp và kỹ thuật.

<i>Về lĩnh vực phát huy DSVH trong hoạt động du lịch, GS Thế Đạt trong cơng trình Tài ngun du lịch Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005) </i>

đã giới thiệu các loại tài nguyên du lịch với bạn đọc, du khách trong nước và quốc tế. Cuốn tài liệu được chia thành 6 chương, chương 1 bao quát toàn bộ tình hình chung về tài nguyên du lịch của Việt Nam; các chương sau giới thiệu tài nguyên du lịch theo địa hình (đồng bằng, núi - rừng, biển đảo, lễ hội...). Đây là một công trình cho thấy rõ diện mạo và tính đặc trưng về tài nguyên du lịch Việt Nam theo địa hình. Tuy cơng trình khơng đề cập trực tiếp đến di tích lịch sử - văn hóa ở tỉnh Bạc Liêu, nhưng sự phân chia tiềm năng của các vùng cho phép

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

các cơng trình nghiên cứu tiếp theo lựa chọn loại hình du lịch, sản phẩm du lịch phải mang tính đặc trưng của vùng, tạo ra nét khác biệt, hấp dẫn riêng.

Một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến việc quản lý một di tích lịch sử - văn hóa hay di tích lịch sử - văn hóa ở một địa phương cụ thể, là tài liệu tham khảo quan trọng cho đề tài.

<i>Tác giả Nguyễn Chí Bền trong Cơng trình nghiên cứu Bảo tồn, phát </i>

<i>huy giá trị DSVH vật thể Thăng Long - Hà Nội (2009), đã trình bày, phân tích </i>

khá rõ những vấn đề về lý luận, thực tiễn, những kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị của di sản văn hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội. Cơng trình đã chỉ ra và tiếp thu những quan điểm mới về quản lý di sản của nhiều nước trên thế giới và lựa chọn những kinh nghiệm có thể áp dụng vào thực tiễn ở nước ta. Cơng trình nghiên cứu đã đề xuất các nhóm giải pháp phù hợp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của các DSVH vật thể của Hà Nội. Đây là một nguồn thông tin quan trọng cho các địa phương khác nhau trong cả nước tham khảo.

<i>* Một số cơng trình nghiên cứu về quản lý di tích lịch sử - văn hóa ở tỉnh Bạc Liêu </i>

Bạc Liêu là vùng đất mới được hình thành trên 300 năm, nên các tài liệu về địa phương này khơng nhiều như các tỉnh thành có bề dày lịch sử - văn hóa khác. Tuy nhiên, có nhiều giá trị văn hóa độc đáo, cùng với cộng đồng cư dân phong phú về sắc tộc, đã có một một số cơng trình tiêu biểu đề cập đến hệ thống di tích lịch sử - văn hóa và vấn đề quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị như sau:

<i>Đáng chú ý là cơng trình Địa phương chí tỉnh Bạc Liêu của tác giả </i>

Nguyễn Lộc Tấn (1974). Tuy sách có dung lượng mỏng, chỉ 63 trang nhưng đã giới thiệu được khái quát về lịch sử - văn hóa Bạc Liêu qua 2 phần: 1- Sử lược và Diện tích, 2-Địa lý, 3-Nhân sinh, 4-Tổ chức hành chính, 5-Chính trị, 6-Tài chính và kinh tế, 7-giáo dục, y tế, lao động, xã hội, 8-Kết luận. Các di tích, danh lam thắng cảnh chỉ được đề cập đến theo dạng thống kê tên gọi, địa

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

điểm, tuy nhiên đã giúp tác giả luận văn có một cái nhìn khái quát về đối tượng nghiên cứu.

<i>Cơng trình Bạc Liêu - thế và lực trong thế kỷ XXI của tác giả Chu Viết </i>

Luân xuất bản năm 2006 đã khái quát các nguồn lực phát triển của Bạc Liêu, trong đó có các giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là hệ thống di tích lịch sử - văn hóa. Đây là tài liệu cung cấp cái nhìn tổng quan về khả năng khai thác, phát huy giá trị của các di tích lịch sử - văn hóa ở Bạc Liêu.

Các di tích ở Bạc Liêu cũng được nhắc đến và giới thiệu khái qt ở một số

<i>cơng trình khác như: Bạc Liêu xưa (Huỳnh Minh, Nxb Thanh niên, 2002), Văn </i>

<i>học dân gian Bạc Liêu (Nguyễn Văn Thanh, Nxb Hội Nhà văn, 2009). </i>

Một số cơng trình, bài viết đã đề cập khá chi tiết đến phương diện giá trị của một số di tích, loại hình di tích, như: tác giả Trần Thuận với bài viết

<i>Bước đầu tìm hiểu những ngôi chùa ở Bạc Liêu trong các thế kỷ XVII - XIX, </i>

Hội thảo “Nam bộ và Nam Trung bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII -

<i>XIX”, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh; Cơng trình Văn học dân gian Bạc </i>

<i>Liêu của tác giả Nguyễn Văn Thanh (Nxb Hội Nhà văn, 2009). Tuy nhiên, </i>

những cơng trình như này cịn ít ỏi và chưa đề cập đến vấn đề quản lý di tích ở Bạc Liêu.

Tư liệu chi tiết nhất về các di tích lịch sử - văn hóa ở Bạc Liêu cho đến nay vẫn là các Hồ sơ di tích được Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu tổ chức xây dựng qua các năm phục vụ cho công tác xếp hạng di tích. Tư liệu này cung cấp những thông tin khá phong phú và quý giá cho luận văn trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, tư liệu này vẫn đang ở dạng hồ sơ, chưa phải là công trình khoa học được cơng bố.

Tóm lại, mặc dù cho đến nay đã có một số cơng trình đã cơng bố liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn, nhưng chưa có cơng trình nào đề

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

cập trực tiếp và có hệ thống về quản lý di tích cấp quốc gia ở tỉnh Bạc Liêu, cho nên đề tài luận văn khơng trùng lặp với các cơng trình đã cơng bố.

<b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý di tích cấp quốc gia và tổng quan về di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

- Nghiên cứu thực trạng quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu, phân tích rõ những ưu điểm và hạn chế.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>

<i><b>4.1. Đối tượng nghiên cứu </b></i>

Cơng tác quản lý đối với di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

Vấn đề nghiên cứu: Chỉ tập trung vào các hoạt động quản lý đối với các di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu

<b>5. Phương pháp nghiên cứu </b>

- Phương pháp khảo sát, điền dã thực địa: Khảo sát thực tế tại các cơ quan quản lý và tại các di tích lịch sử văn hoá.

- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Sử dụng phương pháp nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: Văn hóa học, Quản lý văn hóa, Sử học, Dân tộc học, Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, Khoa học quản lý...

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

- Phương pháp tổng hợp, phân tích tư liệu, tài liệu, thống kê và phân loại: Sau khi thu thập tư liệu, tác giả tiến hành tổng hợp, phân tích và rút ra những nhận định về thực trạng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phù nhằm tăng cường hiệu quả quản di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

<b>6. Những đóng góp của luận văn </b>

- Góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác quản lý nhà nước đối với di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

- Mô tả và đánh giá thực trạng công tác quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn hiện nay.

- Cung cấp một số kiến giải và giải pháp mang tính ứng dụng trong q trình quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích, phục vụ nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa ở tỉnh Bạc Liêu.

<b>7. Bố cục của Luận văn </b>

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn kết cấu thành 03 Chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý di tích cấp quốc gia, tổng quan về di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

Chương 2: Thực trạng quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý trong giai đoạn hiện nay

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<b>Chương 1 </b>

<b>CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH CẤP QUỐC GIA VÀ TỔNG QUAN VỀ DI TÍCH CẤP QUỐC GIA </b>

<b>TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẠC LIÊU 1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di tích cấp quốc gia </b>

<i><b>1.1.1. Một số khái niệm </b></i>

<i>1.1.1.1. Di tích lịch sử - văn hóa </i>

<i>Theo "Từ điển tiếng Việt" của tác giả Hồng Phê thì “Di tích là dấu vết </i>

<i>của quá khứ còn lưu lại trong lòng đất hoặc trên mặt đất có ý nghĩa về mặt văn hóa và lịch sử” [41] </i>

Theo Cơng ước về Bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới thì

<i>khái niệm “Di tích là những dấu tích, vết tích vật chất có giá trị trong quá </i>

<i>khứ trải qua sự biến thiên của lịch sử, sự dầm mưa dãi nắng, qua thời gian còn tồn tại cho đến ngày nay” [12]. </i>

Luật Di sản văn hóa do Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2001 và sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa 2009 quy

<i>định: “Di tích lịch sử - văn hóa là những cơng trình xây dựng địa điểm và các </i>

<i>di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Trong đó, Danh lam thắng cảnh được hiểu “là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ khoa học”. Các cơng trình xây </i>

dựng, địa điểm đó là các tịa nhà, đài tưởng niệm, quảng trường, khu phố… gắn với các sự kiện lịch sử, các di chỉ khảo cổ, các địa điểm gắn với hoạt động tơn giáo tín ngưỡng [[43], tr.13].

Để được cơng nhận di tích lịch sử - văn hóa cần phải đảm bảo các tiêu chí được quy định tại điều 28, chương IV, Luật Di sản Văn hóa:

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

- Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong q trình dựng nước và giữ nước.

- Cơng trình xây dựng địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, của danh nhân đất nước.

- Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của thời kỳ cách mạng kháng chiến.

- Quần thể các cơng trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.

Phân loại di tích được quy định tại Điều 11 Nghị định 98/2010/NĐ-CP hướng dẫn Luật di sản văn hóa và Luật di sản văn hóa sửa đổi như sau:

- Loại hình di tích lịch sử.

- Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật. - Loại hình di tích khảo cổ học.

- Loại hình di tích danh lam thắng cảnh.

Loại hình di tích lịch sử bao gồm: những cơng trình địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước; gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước; gắn với lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến.

Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật bao gồm: quần thể các cơng trình kiến trúc hoặc cơng trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.

Loại hình di tích khảo cổ học là: cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu hoặc địa điểm ghi dấu hoạt động của con người trong lịch sử để lại có giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Loại hình di tích danh lam thắng cảnh: là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.

<i>1.1.1.2. Di tích cấp quốc gia </i>

Ở Việt Nam hiện nay, theo các quy định hiện hành, di tích được xếp hạng theo 3 cấp: Di tích quốc gia đặc biệt; Di tích quốc gia; Di tích cấp tỉnh.

Khoản 2 Điều 29 Luật Di sản văn hóa 2001 được sửa đổi bởi Khoản 10

<i>Điều 1 Luật di sản văn hóa sửa đổi 2009 định nghĩa: “Di tích lịch sử - văn </i>

<i>hoá, danh lam thắng cảnh quốc gia (di tích quốc gia) là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia, bao gồm: </i>

<i>- Cơng trình xây dựng, địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan trọng của dân tộc hoặc gắn với anh hùng dân tộc, danh nhân, nhà hoạt động chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học nổi tiếng có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình lịch sử của dân tộc; </i>

<i>- Cơng trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam; </i>

<i>- Địa điểm khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển của văn hóa khảo cổ; </i>

<i>- Cảnh quan thiên nhiên đẹp hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc, nghệ thuật hoặc khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù” </i>

<i>1.1.1.3. Quản lý </i>

<i>Từ điển tiếng Việt đưa ra khái niệm “quản lý” như sau: “Quản lý được hiểu là việc tổ chức, điều khiển hoạt động của một số đơn vị, cơ quan, việc trơng coi, gìn giữ và theo dõi việc gì” [[41], tr.1288]. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước của Học viện Hành chính Quốc gia đưa ra định nghĩa: “Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển các </i>

<i>quá trình xã hội và hành vi, hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đã đề ra và theo ý chí của nhà quản lý” </i>

[[21], tr.13].

Như vậy, các khái niệm về quản lý chủ yếu tập trung làm rõ hai vấn đề cơ bản sau:

- Thứ nhất, quản lý là một hoạt động có mục đích của chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu của đặt ra.

- Thứ hai, quản lý là phương thức đảm bảo cho những hoạt động diễn ra được hoàn thành với hiệu quả cao, bằng và thông qua những người khác.

Chủ thể quản lý có thể là một cá nhân hay một nhóm người, một tổ chức. Đối tượng quản lý cũng có thể là một cá nhân hay một nhóm người, cộng đồng người hay một tổ chức nhất định.

Từ các phân tích trên, tác giả luận văn đưa ra khái niệm quản lý như

<i>sau: “Quản lý là quá trình tác động có mục đích của chủ thể quản lý lên đối </i>

<i>tượng quản lý để đạt được mục tiêu nhất định thông qua hệ thống luật pháp và các quy định có tính pháp lý”. </i>

<i>1.1.1.4. Quản lý di tích lịch sử - văn hóa </i>

Quản lý văn hoá là một trong những lĩnh vực của quản lý và thường

<i>được hiểu là: “Công việc của nhà nước được thực hiện thông qua việc ban </i>

<i>hành, tổ chức thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hoá, đồng thời nhằm góp phần phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương nói riêng, của cả nước nói chung. Ngồi ra quản lý văn hố cịn được hiểu là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp của chủ thể quản lý (cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, các cơ cấu dân sự, các cá nhân được trao quyền và trách nhiệm quản lý) đối </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<i>với khách thể (là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hoá) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn…” [[16], tr. 36]. </i>

Từ định nghĩa trên về quản lý văn hóa có thể đưa ra định nghĩa quản lý

<i>di tích lịch sử văn hóa như sau: “Quản lý di tích lịch sử - văn hoá là sự định </i>

<i>hướng, tạo điều kiện tổ chức, điều hành việc bảo vệ, gìn giữ các di tích, làm cho các giá trị của di tích được phát huy theo chiều hướng tích cực. Việc quản lý di tích được thực hiện bởi các chủ thể quản lý (cơ quan quản lý, cộng đồng có di tích…) tác động bằng nhiều hình thức khác nhau đến đối tượng quản lý (các di tích) nhằm gìn giữ, bảo vệ và khai thác các giá trị của di tích phục vụ sự phát triển của xã hội, đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần cho cộng đồng.” </i>

Di tích quốc gia là những di tích có giá trị độc đáo trên bình diện quốc gia dân tộc, khơng bị bó hẹp ở khn khổ địa phương, vì thể cần phải có cách ứng xử đặc biệt đối với các di tích đó. Từ khái niệm quản lý di tích lịch sử

<i>văn hóa, có thể hiểu “Quản lý di tích quốc gia là sự định hướng, tổ chức điều </i>

<i>hành việc bảo vệ, gìn giữ các di tích quốc gia của chủ thể quản lý bằng các công cụ quản lý nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di tích”. </i>

<i><b>1.1.2. Nội dung quản lý di tích cấp quốc quốc gia </b></i>

<i>1.1.2.1. Nội dung quản lý di tích cấp quốc gia theo quy định của pháp luật </i>

Di tích quốc gia là một là một bộ phận của của di tích nói riêng và di sản văn hóa nói chung, do vậy nội dung quản lý di tích quốc gia tuân thủ theo các quy định của Nhà nước về quản lý di sản văn hóa.

Điều 54 của Luật Di sản văn hóa do Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2001, sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009 đã xác định 8 nội dung của quản lý di sản văn hóa, bao gồm:

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

“1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược quy hoạch, chính sách cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị DSVH;

2. Ban hành và thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về DSVH; 3. Tổ chức chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích LS - VH tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về DSVH;

4. Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về DSVH;

5. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị DSVH;

6. Tổ chức chỉ đạo, khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá trị; 7. Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị DSVH; 8. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khâu khiếu nại tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về DSVH” [43], [47].

Đồng thời, vấn đề quản lý di sản văn hóa cũng được quy chiếu bởi các quy định khác như Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Căn cứ Luật DSVH, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Nghị định quy định chức năng của Bộ VHTTDL, Thông tư liên tịch số 07/2015 giữa Bộ VHTTDL-Bộ Nội vụ. Thêm vào đó, trên cơ sở nghiên cứu về cơ sở lý luận về quản lý di tích cấp quốc gia và thực tiễn quản lý di tích cấp quốc gia ở tỉnh Bạc Liêu, tác giả xác định các nội dung quản lý di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu như sau:

1. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật; 2. Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di tích; 3. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn;

4. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di tích;

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

5. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm di tích.

<i>1.1.2.2. Sự khác nhau giữa quản lý di tích quốc gia và các di tích thuộc phân cấp khác ở Việt Nam </i>

Theo quy định của Luật di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi chung là di tích) được xếp thành 03 hạng là di tích cấp tỉnh, di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt. Ngoài ra các di tích tiêu biểu của Việt Nam còn được đề nghị UNESCO xem xét đưa vào Danh mục di sản thế giới.

Sự khác nhau giữa quản lý di tích quốc gia và các di tích thuộc phân cấp khác ở Việt Nam được thể hiện như sau:

<i>- Thẩm quyền xếp hạng di tích: </i>

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh, cấp bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh;

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích quốc gia, cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia;

Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đề nghị UNESCO xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục di sản thế giới.

Trong trường hợp di tích đã được xếp hạng mà sau đó có đủ căn cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị huỷ hoại khơng có khả năng phục hồi thì người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích nào có quyền ra quyết định huỷ bỏ xếp hạng đối với di tích đó.

<i>- Thủ tục xếp hạng di tích: </i>

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức kiểm kê di tích ở địa phương và lựa chọn, lập hồ sơ khoa học để quyết định xếp hạng di tích cấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

tỉnh; trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích quốc gia.

Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo lập hồ sơ khoa học trình Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, lập hồ sơ khoa học di tích tiêu biểu của Việt Nam trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đề nghị UNESCO xem xét đưa vào Danh mục di sản thế giới. Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phải có ý kiến thẩm định bằng văn bản của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia.

<i>- Chủ thể quản lý: </i>

Đối với di sản văn hóa thế giới, chủ thể quản lý ngồi hệ thống quản lý từ trung ương đến địa phương, cịn có vai trị cuả Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO), là cơ quan có thẩm quyền xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào danh mục di sản thế giới. Trong quá trình tổ chức quản lý nhà nước về di sản văn hóa thế giới, các chủ thể quản lý trong hệ thống từ cấp trung ương đến địa phương đều phải tuân thủ những quy tắc do UNESCO đặt ra trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Ví dụ như kế hoạch quản lý di sản thế giới phải phù hợp với hồ sơ di sản thế giới đã được đệ trình và lưu giữ tại UNESCO và quy hoạch tổng thể di sản thế giới; tổ chức được giao quản lý, sử dụng di sản thế giới phải thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, đột xuất với Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam theo quy định tại Nghị định số 109/2017/NĐ-CP của Chính phủ. Di tích được xếp hạng cấp quốc gia có cấp quản lý cao nhất của di tích cấp quốc gia là Bộ VHTT&DL;

Di tích được xếp hạng cấp tỉnh có cấp quản lý cao nhất là UBND tỉnh. Xem xét hệ thống cấu thành của các chủ thể quản lý trong hệ thống quản lý di tích, Bộ VHTT&DL với vai trò là chủ thể quản lý chịu trách nhiệm thành lập Cục Di sản văn hóa để phụ trách chuyên ngành thực hiện chức năng

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nhiệm vụ quản lý đối với di tích nói chung. Đối với di tích cấp quốc gia, Cục di sản văn hóa thực hiện nội dung QLNN về di tích như việc thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch, thẩm định dự án tu bổ; Thẩm định dự án cải tạo, xây dựng cơng trình nằm ngồi các khu vực bảo vệ di tích; xếp hạng và điều chỉnh khu vực bảo vệ; Thẩm định hồ sơ thiết kế tu bổ, tôn tạo di tích. Sở VHTT&DL cấp tỉnh tham mưu cho UBND tỉnh các nội dung QLNN tương tự đối với các di tích xếp hạng cấp tỉnh và các di tích trong danh mục kiểm kê của tỉnh.

Đối với di tích quốc gia đặc biệt, ngoài hệ thống các chủ thể QLNN như di tích quốc gia, chủ thể QLNN cấp cao nhất có tác động đến cơng tác quản lý di tích quốc gia đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ. Bộ VHTT&DL trình Thủ tướng Chính phủ quyết định: Xếp hạng và điều chỉnh khu vực bảo vệ đối với di tích quốc gia đặc biệt; Phê duyệt chủ trương, nhiệm vụ và đồ án quy hoạch tổng thể.

Như vậy, quản lý di tích quốc gia khác với quản lý di sản văn hóa thế giới hay quản lý các di tích khác ở chỗ trong hệ thống quản lý cao nhất là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Các hoạt động của chuỗi các tiểu hệ thống quản lý trong hệ thống tổng thế có sự phụ thuộc vào các chủ trương, chính sách do cấp quản lý cao nhất này điều chỉnh.

<b>1.2. Tổng quan về vùng đất Bạc Liêu và di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu </b>

<i><b>1.2.1. Không gian lịch sử - văn hóa </b></i>

Tỉnh Bạc Liêu có diện tích 2.669 km², chiếm gần 0,8% diện tích cả nước, có diện tích đất tự nhiên đứng thứ 7 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, đa phần tỉnh nằm trên bán đảo Cà Mau,.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Vị trí địa lý của tỉnh Bạc Liêu như sau: Phía tây bắc giáp với tỉnh Kiên Giang

Phía đơng và đơng bắc giáp với tỉnh Sóc Trăng Phía bắc giáp với tỉnh Hậu Giang

Phía tây nam giáp với tỉnh Cà Mau

Phía đơng nam giáp với Biển Đơng (đường bờ biển dài 56 km).

Bạc Liêu nằm ở gần cuối đất nước nhưng lại án ngữ tuyến đường những tuyến đường giao thông huyết mạch quan trọng của cả nước (Quốc lộ 1). Bạc Liêu có vị trí trung chuyển so với các thành phố lớn, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 280 km về phía Bắc và cách thành phố Cần Thơ khoảng 110 km. Có nhiều tuyến đường mới được xây dựng như: Ngã Bảy, Nam Sông Hậu, tạo nên sự thuận lợi trong giao thương, phát triển kinh tế - xã hội.

Tỉnh Bạc Liêu hiện nay bao gồm 7 đơn vị hành chính cấp huyện (1 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện, 64 đơn vị hành chính cấp xã).

Tỉnh Bạc Liêu Tỉnh có lịch sử trên 300 năm, thành lập ngày 20/12/1899. Tỉnh bị giải thể và sáp nhập vào tỉnh Minh Hải tháng 2/1976 và được tái lập tháng 1/1997, hoạt động cho đến ngày nay.

<i>Theo tiếng Hoa, từ Bạc Liêu xuất phát từ từ Pô Léo (nghề hạc bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá). Pô sau này được đọc chệch là là Bạc và Léo được đọc chệch ra là Léo. Từ đó có tên gọi Bạc Liêu. </i>

Theo lịch sử, năm 1680, Mạc Cửu, một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hưng úc (tức Vũng Thơm hay Kompong som), Cần Bột (Campốt) lập ra những thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc Liêu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Tuy nhiên, khơng phải đến 1680 mới có lưu dân đến khai hoang lập ấp ở Bạc Liêu, bởi vì theo như lời kể của một giáo sĩ người Pháp tên là Chevrenil thì vào cuối năm 1665, đã thấy hai làng Việt Nam nằm ven sông ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, số lượng khoảng 500 người. Như vậy không loại trừ Bạc Liêu khi đó đã có người sinh sống. Hơn nữa vùng đất Nam Bộ xưa thuộc lãnh thổ nước Chân Lạp nên vùng này có rải rác người sinh sống là đương nhiên.

Đến cuối thế kỷ XIX, khi Pháp đến, Bạc Liêu mới trở nên phồn thịnh nhờ vào những đoàn người ào ạt về Bạc Liêu mưu sinh, nhất là đoàn người Hoa lưu vong vì chống lại Mãn Thanh. Họ di cư đến Bạc Liêu rất đông để lập nghiệp, nhiều nhất là người Triều Châu (tục gọi người Tiều), họ giữ vị trí quan trọng và chiếm gần hết guồng máy sinh hoạt ở Bạc Liêu.

Như vậy là tuy được khai phá vào thế kỷ XVII nhưng đến thế kỷ XIX thì mới có đông người đến và Bạc Liêu mới phồn thịnh.Vùng đất mà các cư dân đầu tiên đến định cư là vùng ven biển Bạc Liêu.

Chủ thể văn hóa ở tỉnh Bạc Liêu là cộng đồng cư dân sinh sống ở đây. Bạc Liêu là vùng đất mới hình thành, cư dân được hội tụ về từ bốn phương. Các tộc người ở Bạc Liêu gồm Kinh, Hoa, Khmer, Chăm. Tuy nhiên nơi đây có sự cộng cư của ba dân tộc chính là Kinh, Hoa, Khmer, còn dân tộc Chăm chỉ chiếm một số lượng rất ít, chỉ vài hộ dân.

Dù là vùng đất mới, nhưng sinh hoạt văn hóa của người dân Bạc Liêu khá sơi động, đã hình thành các phong tục tập quán cổ truyền và lễ hội truyền thống. Một số lễ hội truyền thống tiêu biểu như: lễ hội Phật giáo Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn, lễ hội Chôl Chnăm Thmây, lễ hội Kỳ n, lễ hội c-om-bóc, Đơn-ta, lễ cúng Thanh minh, lễ Giỗ tổ cổ nhạc..

Bạc Liêu nổi tiếng với văn hóa ẩm thực độc đáo, nhiều món ăn đã trở thành điểm hấp dẫn đối với du khách như bán xèo, bún bò cay, bún nước lèo…

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Khơng thể nói đến Bạc Liêu mà khơng nói đến đờn ca tài tử Nam Bộ. Bạc Liêu là quê hương của nghệ thuật dân gian độc đáo này.

Bên cạnh đó là hệ thống di tích khá phong phú, đa dạng, sẽ bình bày ở phần sau của luận văn.

<i><b>1.2.2. Số lượng, phân bố và loại hình </b></i>

Theo thống kê theo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bạc Liêu, tính đến hết tháng 8/2023, tồn tỉnh có tổng số 55 di tích được xếp hạng, có 01 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 13 di tích cấp quốc gia và 41 di tích cấp tỉnh.

Di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu gồm có 14 di tích, trong đó có 01 di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt.

<b>Bảng 1.1. Danh mục di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu </b>

1 Căn cứ Cái Chanh <sup>Ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh </sup>

Lợi, huyện Hồng Dân <sup>2011 </sup> <sup>Lịch sử </sup>

2 Nọc Nạng <sup>Ấp 4, xã Phong Thạnh, </sup>

3 Tháp Vĩnh Hưng <sup>Ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh </sup>

Hưng A, huyện Vĩnh Lợi <sup>1992 </sup> <sup>Lịch sử </sup>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Bảng trên cho thấy, mặc dù là tỉnh có diện tích khơng lớn, lại có lịch sử mới trên 300 năm, nhưng Bạc Liêu là tỉnh có nhiều di tích cấp quốc gia

Sự phân bố các di tích cấp quốc gia ở Bạc Liêu như sau:

<b>Bảng 1.2. Phân bố các di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu </b>

<i>[Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bạc Liêu] </i>

Bảng trên cho thấy, các di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu tập trung chủ yếu ở thành phố Bạc Liêu với 7/14 di tích, chiếm 50%, nguyên nhân do Thành phố Bạc Liêu từ xưa đến nay là tỉnh lỵ, là trung tâm của nhiều giá trị lịch sử - văn hóa, thể hiện đặc sắc các giá trị văn hóa của địa phương. Các huyện khác phân bố rải rách 1- 2 di tích cấp quốc gia/huyện, thị xã. Trong đó có huyện Hịa Bình và huyện Phước Long khơng có di tích cấp quốc gia nào.

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b>Bảng 1.3. Loại hình của các cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu </b>

<i>[Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu ] </i>

Bảng trên cho thấy di tích cấp quốc gia của Bạc Liêu chủ yếu thuộc loại hình di tích lịch sử (chiếm 57,1%) và di tích kiến trúc - nghệ thuật (chiếm 42,9%). Trong cách di tích lịch sử, chủ yếu có tính chất là di tích lịch sử - cách mạng, gắn với những sự kiện tiêu biểu trong cuộc chiến tranh cách mạng Việt Nam như: căn cứ cái Chanh, Nọc Nạng, Nơi thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên tỉnh Bạc Liêu, địa điểm trận Giồng Bốm. Còn lại là các di tích lưu niệm danh nhân như: Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Di tích cấp quốc gia ở Bạc Liêu khơng có loại hình di tích khảo cổ học và danh lam thắng cảnh.

<i><b>1.2.3. Tình trạng kỹ thuật </b></i>

Trải qua các cuộc chiến tranh khốc liệt, theo chiều dài lịch sử của đất nước và con người Việt Nam, các di tích LS -VH ở tỉnh Bạc Liêu hình thành và phát triển tồn tại đến nay đã trải qua nhiều thế kỷ, nhiều di tích LS - VH có niên đại sớm như: Tháp Vĩnh Hưng, Phước Đức Cổ Miếu, Thành Hoàng Cổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Miếu, Miếu Ơng Bổn, Đình Tân Hưng… Do các di tích được xây dựng bằng các nguyên vật liệu như: gỗ, cát, gạch, ngói..trải qua thời gian dài đã xuống cấp nghiêm trọng, ngói bể, tường rơi vữa, cột kèo mối ăn mục nát khả năng chịu tải trọng… Do đó, cần phải trùng tu, tôn tạo, xây dựng lại. Qua thời gian cùng với các biến cố lịch sử, tác động của con người và đặc biệt chịu tác động của các điều kiện tự nhiên nắng, mưa, gió, bão… khắc nghiệt các di tích bị hư hỏng, xuống cấp và các kết cấu kiến trúc khơng cịn ngun vẹn. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, khảo sát hiện trạng về tình trạng kỹ thuật của các di tích LS - VH, tác giả phân chia thành các loại như sau:

<i> * Di tích hiện đang trong tình trạng tốt: một số di tích mới được xây </i>

dựng và được sử dụng, chăm sóc, tu bổ thường xuyên như: Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Một di tích khác đã trải qua nhiều biến động của lịch sử nhưng vẫn giữ được kiến trúc cổ và còn tương đối nguyên vẹn như: Chùa Kro Pum Mean Chey Costhum (Chùa Cỏ Thum).

<i>* Di tích có biểu hiện xuống cấp: Hầu hết các di tích đang có biểu hiện </i>

xuống cấp, mức độ hư hỏng khoảng từ 30 - 50%. Khi di tích Nọc Nạng có nhiều hạng mục bị hư hỏng như đường vào di tích, nhà thủy tạ, nhà trưng bày, khu cụm tượng trận đánh của gia đình nơng dân Mười Chức, khu mộ, nền sân, và nhiều cơng trình phụ trợ khác…

Đặc biệt, sau đại dịch Covid, ngân sách của tỉnh dành cho tu bổ, tôn tạo di tích bị hạn chế, nên nhiều hạng mục cần đầu tư nhưng chưa được triển khai, dẫn tới nhiều di tích bị xuống cấp trầm trọng, trong đó có cả các di tích cấp quốc gia. Do làm đường và tu sửa các cơng trình xây dựng của nhân dân ở xung quanh, đình An Hưng hiện nay có nền đất thấp, thường xuyên bị ngập lụt. Nhiều di tích ở thành phố Bạc Liêu bị sức ép dân sinh nên khơng gian di tích trở nên chật hẹp, thậm chí hàng qn cịn bày tràn lan lấn át di tích.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i><b>1.2.4. Giá trị lịch sử - văn hóa </b></i>

Di tích cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu là những di sản vô giá phản ánh những giá trị lịch sử, văn hóa vật thể và phi vật thể của Bạc Liêu hàng trăm năm khai phá, xây dựng và đấu tranh kiên cường bất khuất chống kẻ thù xâm lược của quân và dân Bạc Liêu trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Mỗi một di tích lịch sử - văn hóa là nơi hội tụ các giá trị của thiết chế văn hóa, một khơng gian văn hóa cơng cộng cho tất cả nhân dân đến tham quan, vui chơi, thực hiện các nghi lễ truyền thống và nghiên cứu, học tập. Đây chính là tài nguyên du lịch nhân văn vô cùng phong phú - lợi thế phát triển du lịch của Bạc Liêu điển hình như: Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu lưu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu, di tích Nọc Nạng, di tích Cái Chanh…

Ngồi ra, một số di tích có giá trị nghệ thuật cao như Thành Hoàng Cổ miếu, Phước Đức Cổ miếu. Các di tích gắn với tơn giáo như chùa Kro Pum Mean Chey Costhum (Chùa Cỏ Thum) là nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần quan trọng cho cộng đồng Phật tử nói riêng và cư dân Bạc Liêu nói chung.

Các di tích lịch sử - cách mạng như Địa điểm thành lập Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Bạc Liêu, di tích Nọc Nạng, căn cứ Cái Chanh, địa điểm trận Giồng Bốm… là những địa chỉ đỏ, vừa tôn vinh chiến công của quân và dân ta vừa góp phần giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống anh hùng của quê hương. Đồng thời thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây", tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ hôm nay và mai sau về tinh thần chiến đấu, hi sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

<i><b>1.2.5. Một số di tích quốc gia tiêu biểu </b></i>

<i>1.2.5.1. Căn cứ Cái Chanh </i>

Căn cứ Cái Chanh đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt năm 2011. Di tích tọa lạc tại ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Đây là địa điểm trú đóng và triển khai các hoạt động cách mạng của bộ máy đầu não Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp. Nhiều nhà hoạt động cách mạng như Lê Duẩn, Phạm Hùng, Ung Văn Khiêm, Lê Đức Thọ, Võ Văn Kiệt… đã tham gia hoạt động tại đây.

Trong kháng chiến chống Mỹ, đây là đóng trú của Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu và là nơi diễn ra Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu vào ngày 20/11/1973. Chủ trương quyết tâm giải phóng Bạc Liêu vào năm 1915 cũng được họp và quyết định tại đây.

<i>1.2.5.2. Đồng Nọc Nạng </i>

Đây là một di tích lưu niệm sự kiện xảy ra trên cánh đồng Nọc Nạng năm 1928 làm chấn động dư luận cả nước, vang cả đến Đơng Dương, đó là cuộc nổi dậy của anh em nông dân Mười Chức với dao mác và gậy gộc chống lại bọn địa chủ Tây cò được trang bị súng ống vào cướp lúa, cướp đất của nông dân Nọc Nạng giành được thắng lợi tuy phải đổi bằng máu của 04 người thân trong gia đình Mười Chức. Thắng lợi ấy thể hiện tinh thần đấu tranh không khoan nhượng của nông dân Nọc Nạng - Bạc Liêu trước bọn thực dân và tay sai vào thời kỳ chưa có Đảng lãnh đạo.

Với những giá trị nhân văn đó, di tích lịch sử đồng Nọc Nạng trong những năm qua được nhà nước tu bổ nhiều hạng mục cơng trình như: nhà mồ, phịng trưng bày, nhóm tượng thể hiện sự kiện…để đáp ứng nhu cầu khách tham quan.

<i>1.2.5.3. Tháp Vĩnh Hưng </i>

Tọa lạc tại ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1992.

Tháp Vĩnh Hưng còn gọi là tháp Trà Long hay tháp Lục Hiền.Tháp có diện tích bình diện khá lớn (9,36m x 9,44m) và được xây cao hơn 10m, thân

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

tháp được xây dựng bằng 02 loại gạch khác nhau dạng mài chập. Đây không chỉ là một kiến trúc tháp thuộc nền văn hóa Ĩc Eo cịn sót lại duy nhất ở Tây Nam Bộ, mà trong cuộc khai quật tại tháp năm 2002, các nhà khảo cổ học còn thu được một bộ sưu tập hết sức quí giá với nhiều tượng đá, đồng, gốm, đá q và ngói,… đánh dấu một giai đoạn hình thành và phát triển của tháp (từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ XIII sau công nguyên). Trong số các di vật được phát hiện, có những hiện vật được các nhà khảo cổ đánh giá là bộ sưu tập có giá trị cao ở vùng Nam Bộ và cả nước.

<i>1.2.5.4. Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh </i>

Tọa lạc ấp Bà Chăng A, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia năm 1998

Sau khi được tin Bác mất, khắp nơi trong cả nước, đặc biệt là khu vực đồng bằng sông Cửu Long dấy lên phong trào dựng đền thờ để thể hiện tình cảm, tưởng nhớ cơng ơn Người. Tuy nhiên, vì được lập nên trong bối cảnh cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước gay go, ác liệt, nên hầu hết các đền thờ tưởng niệm Bác trở thành mục tiêu càn quét đốt phá của địch nhiều ngôi đền bị địch phá huỷ không dựng lại được. Trong bối cảnh đó, Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu được lập nên và bảo vệ an toàn từ năm 1972 đến 1975, có thể xem như một kỳ tích, nó thể hiện tấm lịng kiên trung, tri ân sâu sắc của Đảng bộ và quân dân Bạc Liêu nói riêng, nhân dân Nam Bộ nói chung ln một lịng hướng về Bác, vị cha già kính yêu của dân tộc.

Sau ngày đất nước thống nhất, đền thờ tiếp tục được tu bổ nhiều hạng mục cơng trình như: trùng tu, nâng cấp đền thờ, xây dựng nhà trưng bày bổ sung di tích… trên diện tích khn viên trên 9000 m<small>2</small>. Những năm gần đây đền thờ Bác được nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ ta về thăm viếng và trồng cây lưu niệm. Đền thờ Bác hiện nay xứng đáng là “địa chỉ đỏ”, một di tích lịch sử Quốc gia mà nhân dân Bạc Liêu rất đỗi tự hào.

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<i>1.2.5.5. Đình An Trạch </i>

Tọa lạc khóm 2, phường 5, TP Bạc Liêu, được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia năm 2000

Đình xây dựng năm 1877, ban đầu bằng cây lá đơn sơ. Đến năm 1929, đình được Ban trị sự cho xây dựng lại bằng vật liệu bằng gỗ gồm các cơng trình kiến trúc theo lối kiến trúc đình miền Trung như: chính điện, nhà đơng lang, tây lang, nhà hậu đình cùng 04 miếu nhỏ ở các góc sân đình. Tồn bộ các cơng trình trên đều được xây dựng vững chắc, hài hịa, khang trang với mái ngói, cột gỗ, tường vơi vữa. Nội thất bên trong bài trí rất trang nghiêm. Từ đó đến nay, đình tiếp tục được tu bổ 03 lần vào các năm 1995, 1998 và năm 2008.

Đình thờ Thần “Thành Hồng Bổn Cảnh” theo tín ngưỡng dân gian của người Việt. Ngồi ra đình cịn thờ danh sĩ Nguyễn Cơng Trứ và nhiều thần linh khác. Đình còn lưu giữ sắc thần của Vua Khải Định ban cho năm 1924.

Lễ hội lớn nhất trong năm của đình là đại lễ Kỳ Yên được diễn ra vào 03 ngày đêm 15, 16 và 17 tháng giêng hàng năm, thu hút rất nhiều khách tham quan.

<i>1.2.5.6. Thành Hoàng Cổ Miếu </i>

Tọa lạc phường 3, TP Bạc Liêu, được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2000

Thành Hoàng Cổ Miếu còn mang nhiều tên khác như: Chùa Minh, Chùa Minh Hương,... Miếu được khởi dựng năm Ất Dậu - 1865 và trải qua 03 lần tu bổ vào các năm 1895. 1918 và 1993, miếu mới được khang trang như hiện hữu. Miếu có lối kiến trúc rất đặc trưng của người Trung Hoa, được xây dựng theo hình chữ Quốc - một lối kiến trúc mơ phỏng kiến trúc cung đình thời Minh cùng với những đồ án, hoa văn trang trí được chạm lọng thật tỉ mỉ tinh xảo, có giá trị nghệ thuật cao. Nội thất bên trong còn lưu giữ nhiều cổ vật quí, đặc biệt là bộ lư mắt tre bằng đồng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i>1.2.5.7. Phước Đức Cổ Miếu </i>

Tọa lạc phường 3, TP Bạc Liêu, được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia năm 2000

Miếu cịn có tên gọi là Chùa Bang. Lúc đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ bằng cây lá rừng. Đến năm 1810, miếu được xây lại bằng gạch ngói. Năm 1823, miếu tiếp tục được mở rộng xây dựng mới ở cập sông Bạc Liêu. Miếu có kiến trúc cổ truyền của người Hoa.

Miếu thờ ơng Bổn theo tín ngưỡng người Hoa. Ngồi ra, trong khn viên miếu cịn có trường dạy tiếng Hoa. Miếu hiện còn lưu giữ nhiều cổ vật, hồnh phi, câu đối có giá trị.

<i>1.2.5.8. Miếu ông Bổn </i>

Tọa lạc khóm Trà Kha B, phường 8, TP Bạc Liêu, được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia năm 2005.

Đây là ngơi miếu của người Hoa, cịn có tên là Phước Đức Cổ Miếu, dân gian thường gọi là Miếu ông Bổn. Miếu khởi dựng năm 1871, đến năm 1910 miếu được kiến tạo lại theo kiến trúc cung đình triều Minh - Trung Quốc, gồm các cơng trình: Chính điện, Đơng lang, Tây lang, tất cả đều được xây dựng bằng vật liệu bền vững như: mái ngói óng, tường xây, cột gỗ.

Ngoài giá trị kiến trúc nghệ thuật, Miếu cịn là nơi trú đóng và hoạt động của Chi bộ Đảng làng Long Thạnh, quận Vĩnh Lợi trong thời kỳ chống thực dân Pháp.

<i>1.2.5.9. Chùa Kro Pum Mean Chey Costhum </i>

Toạ lạc tại ấp Cỏ Thum, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia năm 2008.

Đây là ngôi chùa của người Khmer theo Hệ phái Nam Tông. Chùa thường gọi là chùa Cỏ Thum. Chùa do Đại đức Sơn Pờ Rum (Sơn Prum) và

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

ông ShaTel khởi dựng vào năm 1832 (Phật lịch 2376) bằng cây lá địa phương. Trải qua quá trình lịch sử, để từng bước tăng thêm vẻ tôn nghiêm cho ngôi chùa, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào phật tử, các vị trụ trì và Ban quản trị nối tiếp nhau vận động phật tử đóng góp cơng sức, tiền của tu bổ ngôi chùa ngày càng khang trang. Đây là ngơi chùa có nhiều đóng góp cho sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cứu nước.

<i>1.2.5.10. Nơi thành lập Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên tỉnh Bạc Liêu </i>

Tọa lạc ấp Rạch Rắn, xã Long Điền, huyện Đông Hải, được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia năm 2011.

Đây nguyên là nơi tổ chức thành lập Chi bộ Đảng làng Phong Thạnh vào tháng 02 năm 1930 với 3 Đảng viên ưu tú: Nguyễn Văn ng (Bí thư), Châu Văn Lục (Đảng viên), và Trần Văn Tiện (Đảng viên) để kịp thời lãnh đạo quân dân trong huyện Giá Rai đấu tranh chống thực dân phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Chi bộ Đảng làng Phong Thạnh sau này được công nhận là Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Bạc Liêu.

Di tích hiện tu bổ được một số cơng trình để phục vụ nhu cầu tham quan như: Bia kỷ niệm, nhà trưng bày, khu dừa nước,…

<i>1.2.5.11. Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử và nhạc sỹ Cao Văn Lầu </i>

Toạ lạc phường 2, Thành phố Bạc Liêu được xếp hạng di tích lịch sử năm 2014.

Đây nguyên là khu niệm nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1890-1976) - cha đẻ bài “Dạ cổ hoài lang” làm nền tảng cho sự phát triển loại hình vọng cổ và sân khấu cải lương Nam Bộ, được nhiều người dân Việt Nam, nhất là khu vực Nam Bộ yêu thích suốt hơn 90 năm qua.

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Khu lưu niệm gồm nhiều hạng mục cơng trình, được đưa vào khai thác, sử dụng trong dịp Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần thứ nhất - Bạc Liêu 2014.

<i>1.2.5.12. Thiên Hậu cung </i>

Tọa lạc Phường 1, thành phố Bạc Liêu, được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 2014.

Miếu còn gọi Cung Thiên Hậu hay chùa Bà Thiên Hậu, là một cơng trình kiến trúc đặc sắc có từ lâu đời của người Quảng Đông - Trung Quốc được khởi dựng năm 1901 để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu (vị thần biển) để bà phò hộ, độ trì cho dân chúng, nhất là ngư dân được thuận buồm xi gió, đánh bắt nhiều cá tôm. Hàng năm ngày 23/3 âm lịch người Hoa Bạc Liêu dù bộn bề công việc cũng tranh thủ về dự viếng bà đông vui.

<i>1.2.5.13. Trận Giồng Bốm năm 1946 </i>

Tọa lạc ấp 07, xã Phong Thạnh Tây, huyện Giá Rai, được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 2021.

Đây là di tích lưu niệm sự kiện lịch sử, đó là trận Giồng Bốm năm 1946. Trận Giồng Bốm có giá trị lịch sử và ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn, là sự thể hiện tinh thần u nước, tình đồn kết trên dưới một lịng của tín đồ Cao đài Minh Chơn Đạo, dưới sự lãnh đạo của chưởng pháp Cao Triều Phát, đi theo lời kêu gọi cứu nước của Hồ chủ tịch, đứng lên chống thực dân Pháp trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến, gây cho địch nhiều tổn thất lớn.

<i>1.2.5.14. Đình Tân Hưng </i>

Tọa lạc Phường 3, Thành phố Bạc Liêu, được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 2014.

Đây là một ngơi đình thần lớn và là một trong các ngơi đình ở Bạc Liêu có lịch sử xây dựng sớm nhất - đầu thế kỷ 19. Ban đầu đình Tân Hưng được lợp bằng cây lá rừng tạm bợ, về sau đình được xây dựng lại bằng cây gỗ quý,

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

và để có được vẻ uy nghi, khang trang hơm nay, đình đã được trùng tu nhiều lần. Đặc biệt, đình Tân Hưng đã được vua Tự Đức phong sắc vào năm 1852. Hàng năm, đình Tân Hưng diễn ra 2 lễ lớn: lễ Trung nguyên (tổ chức vào ngày 12/7 âm lịch - vía tổ tiên) và lễ Kỳ yên (được tổ chức trong ba ngày 20, 21 và 22 tháng Giêng âm lịch hàng năm). Có thể nói, lễ Kỳ n là lễ hội đơng vui và quan trọng nhất trong năm ở đình Tân Hưng. Vào các ngày diễn ra lễ Kỳ yên, người dân tề tựu đến đây rất đông, trước là tạ ơn thần linh đã bảo hộ cho dân, sau là để khấn vái điều tốt lành và gặp nhau để thăm hỏi nhau về chuyện làm ăn, sinh sống…

Nếu có nhu cầu được thưởng thức một cơng trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo lâu đời ở TP. Bạc Liêu thì du khách khơng nên bỏ qua điểm đến này. Tại đình Tân Hưng hiện còn lưu giữ nhiều tác phẩm mỹ thuật độc đáo. Ở giữa chánh điện có hương án sơn son thếp vàng, mặt trước vẽ hình cọp và rồng, với nhiều tác phẩm mỹ thuật đẹp như: bao lam, hồnh phi, câu đối chạm trổ tinh vi…

Đình Tân Hưng là một di tích tín ngưỡng dân gian của người Kinh ở Bạc Liêu, một cơng trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo được bảo tồn để phát huy giá trị bản sắc văn hóa bản địa, đồng thời phục vụ nhu cầu tham quan, du lịch.

</div>

×