Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Thành tựu đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2020 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.1 KB, 29 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>PHẦN II. NỘI DUNG 2 </b>

<b>1. Khái niệm cơ cấu kinh tế 2 </b>

<b>2. Khái niệm cơ cấu lại nền kinh tế 2 </b>

<b>3. Những kết quả và hạn chế cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 2 </b>

<b>TIỂU LUẬN </b>

<b>MƠN: CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ ĐƯƠNG ĐẠI </b>

<b>Chủ đề: “Thành tựu đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2020 đến nay” </b>

<b>Họ và tên học viên: Nguyễn Văn Bình Lớp: Cao học Chính trị phát triển K29.1 </b>

<b>NĂM 2024 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>PHẦN I. MỞ ĐẦU ... 1 </b>

<b>PHẦN II. NỘI DUNG ... 2 </b>

1. CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI .... 2

<b>1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại ...2 </b>

1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc ...4

1.3. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong nước ...5

1.4. Tình hình thế giới và khu vực ...6

2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI ... 11

2.1. Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến năm 1995 ... 11

2.2. Giai đoạn từ sau Đại hội VIII (1996) đến năm 2010 - giai đoạn mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ... 13

2.3. Giai đoạn từ sau Đại hội XI (2011) đến nay - giai đoạn đưa các quan hệ đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế toàn diện ... 14

3. NHỮNG THÀNH TỰU ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2020 ĐẾN NAY ... 15

4. MỘT SỐ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TRỌNG TÂM HỘI NHẬP QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ... 23

<b>PHẦN III. KẾT LUẬN ... 26 </b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 27 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Đường lối, chính sách đối ngoại của một quốc gia là tổng thể quan điểm xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và phương châm chỉ đạo các hoạt động đối ngoại mà quốc gia đó thể hiện trong quan hệ với các nhà nước quốc gia và các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế nhằm mục đích thực hiện thắng lợi những lợi ích quốc gia dân tộc và của giai cấp cầm quyền trong từng giai đoạn lịch sử. Như vậy, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là hệ thống quan điểm về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp, phương châm chỉ đạo hoạt động của nước ta với bên ngoài nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc chân chính, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì mục tiêu của thời đại là hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng được hoạch định nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp một cách có hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Qua 35 năm đổi mới, Đảng ta đã có những bước trưởng thành về tư duy và hành động, đã chuyển được tư duy mới vào chủ trương, chính sách và quyết tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả trong suốt quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập. Để làm rõ hơn về đường lối ngoại của Đảng ta, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới về chủ động và tích

<b>cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay, em xin chọn vấn đề “Thành tựu </b>

<b>đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 2020 đến nay” cho chuyên đề tự chọn môn </b>

Chính trị quốc tế đương đại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHẦN II. NỘI DUNG </b>

<b>1. CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI </b>

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) đã thông qua đường lối đổi mới tồn diện, trong đó có đổi mới lĩnh vực hoạt động đối ngoại. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời kỳ đổi mới được hoạch định trên những cơ sở chủ yếu sau:

<b>1.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại </b>

Trong quá trình hoạch định đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là cơ sở lý luận và là vấn đề có tính ngun tắc, bởi vì:

- Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta. Những nội dung có tính khoa học và cách mạng về thời đại, về vấn đề dân tộc và quốc tế, về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, về tư tưởng cùng tồn tại hịa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau, về quyền dân tộc tự quyết trong quan hệ quốc tế... trong học thuyết Mác-Lênin luôn được Đảng chú trọng nghiên cứu và vận dụng sáng tạo trong bối cảnh thế giới mới và điều kiện cụ thể của Việt Nam.

- Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống các quan điểm về đường lối chiến lược và sách lược đối với các vấn đề quốc tế và quan hệ quốc tế. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh thể hiện trên các vấn đề lớn, mang tính chiến lược như:

<i>Một là, độc lập dân tộc: Đây vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là phương </i>

châm hành động của ngoại giao Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam phải luôn giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, tự mình quyết định đường lối, chủ trương của mình. Điều đó cũng có nghĩa, chỉ trên tinh thần độc lập dân tộc, Đảng ta mới nắm được tình hình cụ thể, khả năng, lợi ích của đất nước, từ đó mà đề ra chủ trương, chính sách phù hợp để đạt được mục tiêu đã xác định. Vấn đề này càng quan trọng trong bối cảnh thế giới ngày nay, khi lợi ích quốc gia “ dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế.

<i>Hai là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Theo Hồ Chí </i>

Minh, sức mạnh dân tộc bao gồm sức mạnh vật chất (sức mạnh cứng) thể hiện ở sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự... và sức mạnh tinh thần (sức mạnh mềm) như: tính chính nghĩa của những mục tiêu mà dân tộc Việt Nam theo đuổi; truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường chống ngoại xâm; nền văn hóa dân tộc được xây dựng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; vị trí địa-chính trị và địa-kinh tế quan trọng...

Sức mạnh dân tộc là sức mạnh của thế và lực của đất nước sau 35 năm đổi mới; sức mạnh tổng thể của Nhà nước và nhân dân, của kinh tế, quân sự, dân số, lãnh thổ; sức mạnh của các giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa, tinh thần yêu nước, tinh thần lao động cần cù và ý chí vươn lên của con người Việt Nam.

Sức mạnh thời đại thể hiện qua các trào lưu lớn của thời đại như: nội dung chủ yếu của thời đại ngày nay, phong trào độc lập dân tộc, phong trào dân chủ và tiến bộ xã hội, cũng như các xu thế lớn của thế giới như: quyền độc lập cho mọi quốc gia; quyền tự quyết cho mọi dân tộc; xu thế hịa bình cho tồn thế giới và sự hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia, không phân biệt nước lớn hay nhỏ... Sức mạnh thời đại thể hiện qua các “dòng chảy chính” của thế giới hiện nay như: cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ; xu thế tồn cầu hóa và liên kết khu vực; trào lưu tái cấu trúc và đổi mới mơ hình tăng trưởng...

<i>Ba là, ngoại giao tâm cơng: Đó là nền ngoại giao đề cao tính chất chính </i>

nghĩa, đánh vào lịng người bằng chính nghĩa, bằng lẽ phải, đạo lý và nhân tính; là nền ngoại giao mang tính nhân bản sâu sắc, phù hợp với khát vọng hịa bình, tự do, công lý; là nền ngoại giao coi phong trào tiến bộ của nhân dân thế giới là lực lượng của mình, giữ gìn và củng cố sự đồn kết nhất trí giữa các nước xã hội chủ nghĩa...

<i>Bốn là, ngoại giao hòa hiếu với các dân tộc khác: Đó là nền ngoại giao </i>

theo đuổi phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết” và đây cũng thể hiện tính nhân văn của dân tộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Việt Nam. Đó là nền ngoại giao luôn dành mối quan tâm hàng đầu cho nhiệm vụ củng cố quan hệ với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, tập trung nỗ lực thiết lập và củng cố quan hệ với các nước lớn, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với mọi quốc gia khác trên thế giới.

<i>Năm là, ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến ”: Đó là nền ngoại giao kiên trì trong nguyên tắc nhưng linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo trong sách lược. </i>

Đối với Hồ Chí Minh, vấn đề có tính bất biến là nguyên tắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Song để đạt được mục tiêu đó, phương thức thực hiện phải thiên biến vạn hóa, khi cương khi nhu, khi tiến khi lui tùy theo từng vấn đề, thời điểm và bối cảnh cụ thể.

<i>Sáu là, ngoại giao nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước: Đó là </i>

nền ngoại giao phải biết nắm vững thời cơ, chủ động tạo lập thời cơ, đồng thời chủ động tấn công giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.

<b>1.2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc </b>

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ cha ông chúng ta đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm đối ngoại quý báu mà Đảng ta cần quán triệt và vận dụng nó trong điều kiện mới. Một trong những nét nổi bật hàng đầu trong truyền thống ngoại giao của dân tộc là truyền thống ngoại giao hòa bình, hữu nghị. Đây là sự thể hiện tư tưởng đối ngoại nhân văn, hòa hiếu bắt nguồn từ chiều sâu bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, đây cũng cịn được quy định bởi vai trị, vị trí địa-chiến lược, địa-chính trị quan trọng của nước ta ở khu vực. Trong quá trình xây dựng và phát triển, mặc dù thường phải đối mặt với các thế lực xâm lược nước ngoài lớn mạnh gấp bội, song dân tộc ta trong đối ngoại, một mặt thể hiện rõ tinh thần quật khởi, không chịu khuất phục, mặt khác luôn chủ động, khôn khéo, sáng tạo, linh hoạt và mềm dẻo, biết cách vượt qua những thử thách hiểm nghèo để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Truyền thống ngoại giao của dân tộc Việt Nam có thể khái quát ở những vấn đề sau: (1) giữ vững nguyên tắc độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia; (2) ngoại giao vì hịa bình, hịa hiếu, hữu nghị, khoan dung; (3) ngoại

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

giao rộng mở, biết tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại để phát triển; (4) ngoại

<i><b>giao với tinh thần chủ động, khôn khéo, sáng tạo, linh hoạt... </b></i>

<b>1.3. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong nước </b>

Bước vào thời kỳ đổi mới, đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử thách to lớn: khủng hoảng kinh tế - xã hội. Nền kinh tể nhiều năm tăng trưởng âm và siêu lạm phát, khiến cho đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Trên lĩnh vực đối ngoại, nước ta bị bao vây, cấm vận về kinh tế, bị cơ lập về chính trị. Đây là thời kỳ khó khăn nhất của nước ta sau ngày thống nhất đất nước. Trong bối cảnh đó, Đại hội VI của Đảng thơng qua đường lối đổi mới tồn diện, trong đó xác định rõ: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Với chủ trương đó, Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ

<i>có tính cấp bách trước mắt là giải phóng sức sản xuất, tập trung phát triển kinh tế </i>

- xã hội để nhanh chóng thốt ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá thế bị bao vây, cấm vận, cô lập và mở rộng quan hệ đối ngoại.

<i>Những Đại hội sau đó xác định nhiệm vụ cơ bản, lâu dài là đưa Việt </i>

Nam thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đẩy mạnh cơng nghiệp

<i>hóa, hiện đại hóa, phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước </i>

<i>phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời “kiên quyết, kiên trì </i>

đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”.

Là một bộ phận hợp thành đường lối chung của Đảng Cộng sản Việt Nam, đường lối đối ngoại của Đảng phải góp phần tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước vượt qua những khó khăn thách thức đang đặt ra nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng được hoạch định nhằm tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp một cách có hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

<b>1.4. Tình hình thế giới và khu vực </b>

Tình hình thế giới và khu vực từ sau Chiến tranh lạnh đến nay nổi lên một số đặc điểm và xu thế vận động chủ yếu tác động đến việc hoạch định đường lối đối ngoại của Việt Nam, cụ thể như sau:

<i>Thứ nhất, cục diện chính trị - an ninh thế giới có nhiều chuyển biến lớn, </i>

trong đó nổi bật là sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng giữa các nước lớn.

Cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Liên Xô tan rã, ưật tự thế giới hai cực chấm dứt đã làm đảo lộn các quan hệ liên minh kinh tế, chính trị, quân sự được thiết lập trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Tương quan lực lượng thế giới cũng có sự thay đổi nghiêng hẳn về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn thời đại giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục tồn tại, song khơng cịn là nhân tố duy nhất chi phối quan hệ quốc tế cũng như việc tập hợp lực lượng giữa các nước trên thế giới.

Trong thời kỳ quá độ hình thành trật tự thế giới mới, tất cả các nước trên thế giới tuy ở các mức độ khác nhau đều đứng trước những thách thức mới như: xung đột khu vực, mâu thuẫn quốc gia, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; hố ngăn cách giàu - nghèo Bắc - Nam; sự bất bình đẳng trong quan hệ giữa các nước; nhu cầu phát triển kinh tế và ổn định chính trị ở mỗi nước; hoạt động ngày càng tăng của chủ nghĩa khủng bố, sự tăng lên của những vấn đề mang tính tồn cầu...

Đặc biệt, trong quá trình hình thành trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh, tương quan lực lượng của thế giới có sự thay đổi lớn, bản đồ quyền lực có sự chuyển dịch. Trung Quốc đang trỗi dậy mạnh mẽ, trong khi Mỹ tiếp tục suy yếu tương đối. Bên cạnh đó, sự trỗi dậy của một số cường quốc trong nhóm BRICS đang gây sức ép phải xây dựng luật chơi mới trong quan hệ quốc tế ngày càng tăng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Đứng trước những vấn đề nêu trên, các nước trên thế giới thời kỳ sau Chiến tranh lạnh đều tập trung ưu tiên nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội ở trong nước, đồng thời đấu tranh để tạo lập môi trường quốc tế và khu vực hịa bình, ổn định, giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của đất nước mình. Do đó, hịa bình, ổn định, hợp tác để phát triển trở thành xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia trên thế giới trong giai đoạn hiện nay của thời đại.

<i>Thứ hai, sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng </i>

công nghiệp 4.0 đang tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống xã hội.

Sự phát triển khoa học - công nghệ đã và đang tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và quan hệ quốc tế. Ngày nay, khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất nòng cốt và trực tiếp của xã hội; trí tuệ và kỹ năng có vai trị mấu chốt trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển khoa học - công nghệ góp phần làm thay đổi vị thế của mỗi một quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nước nào chiếm lĩnh khoa học - công nghệ sẽ tiếp tục phát triển nhanh chóng và ngược lại. Trong quan hệ giữa các nước lớn, nước nào giành và giữ ưu thế về cơng nghệ cao thì nước đó có ưu thể trong việc giành ngơi vị siêu cường số 1 thế giới.

Tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 càng làm cho sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong nền sản xuất được quốc tế hóa, khiến cho xu hướng đa dạng hóa quan hệ đối ngoại của các nước trở thành đòi hỏi khách quan. Các nước ra sức mở rộng quan hệ quốc tế, khơng phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, với tất cả những ai có khả năng hợp tác hiệu quả; việc xác định bạn - thù, hình thức và mức độ quan hệ cũng trở nên rất linh hoạt. Phương thức tập hợp lực lượng theo kiểu truyền thống đã được thay bằng sự tập hợp lực lượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc.

Một đặc điểm khác của thế giới trong kỷ nguyên Cách mạng cơng nghiệp 4.0 là tồn cầu hóa với nền kinh tế số. Tồn cầu hóa là một q trình khách quan,

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Là quá trình khách quan, là nấc thang phát triển của nhân loại, toàn cầu hóa đem lại cơ hội cho mọi quốc gia - dân tộc cùng phát triển. Tuy nhiên, quá trình tồn cầu hóa được thực hiện bởi các nhân tố chủ quan, mà lợi thế thuộc về các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với sức mạnh kinh tế, khoa học - công nghệ, thị trường vốn, lao động và hàng hóa... các nước phát triển thơng qua các cơng cụ của mình là các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia đang lợi dụng lợi thế này để phục vụ lợi ích riêng của mình, gây bất lợi cho các nước nghèo, các nước đang phát triển. Chính vì vậy, đối với đại bộ phận các nước trên thế giới, toàn cầu hóa là q trình ln chứa đựng tính hai mặt: thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức, tích cực và tiêu cực, hợp tác và đấu tranh. Sự kiện Brexit, các cuộc biểu tình phản đối mặt trái của tồn cầu hóa cho thấy, đằng sau q trình tồn cầu hóa đã nổi lên các vấn đề kinh tế, chính tri.

Hơn nữa, nền kinh tế số là kết quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ dẫn tới sự dịch chuyển quyền lực tồn cầu trên cả phương diện khơng gian địa lý và chủ thể quyền lực. Trong nền kinh tế số, cạnh tranh quốc tế sẽ tập trung trong không gian số, trên lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong thế giới của kinh tế số, hợp tác và hội nhập quốc tế sẽ vừa có động lực mới bởi sự gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa các quốc gia, khu vực qua không gian số và mạng Internet toàn cầu, nhưng cạnh tranh, cọ xát và xung đột lợi ích giữa các quốc gia và trên phạm vi toàn cầu cũng sẽ ngày càng mở rộng và trở nên sâu sắc, khốc liệt hơn. Cuộc cạnh tranh này sẽ có tác động quan trọng tới việc hình thành những hình thức hợp tác, những tuyến lợi ích, những tập hợp lực lượng mới trên thế giới, có ý nghĩa quyết định đối với việc đẩy nhanh quá trình định hình những đường nét cơ bản của trật tự kinh tế khu vực, quốc tế mới, nhất là ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

<i>Thứ ba, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, nhất là </i>

ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Một đặc điểm nổi bật của thế giới trong giai đoạn hiện nay là các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn trở thành nhân tố có vai trị quan trọng đến

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

sự phát triển thế giới. Trong thập niên gần đây, các nước lớn có nhiều điều chỉnh quan trọng theo hướng đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ. Kể từ Đại hội XIX Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2017, Trung Quốc cơ bản đã từ bỏ phương châm “giấu mình chờ thời” sang hướng “chủ động hơn, cứng rắn hơn”, quyết đốn theo đuổi lợi ích cốt lõi, kể cả ở Biển Đông. Nước Mỹ trong nhiệm kỳ của Tổng thống D.Trump thực hiện phương châm “Nước Mỹ trên hết”, theo đó, các chính sách được triển khai theo hướng thực dụng, coi trọng cơ chế hợp tác song phương hơn đa phương. Các nước lớn và trung tâm quyền lực khác như Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, EU cũng có những điều chỉnh theo hướng ngày càng đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc.

Đặc biệt, ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc đã chuyển sang giai đoạn gay gắt hơn, quyết liệt hơn. Nếu như trên bình diện thế giới, cục diện thế giới cơ bản vẫn cục diện “nhất siêu, đa cường” thì ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang định hình ngày càng rõ nét cục diện “lưỡng siêu, đa cường”.

Nhìn chung, thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, cùng với xu thế hịa bình, hợp tác vì phát triển, các nước lớn, một mặt, thường thỏa hiệp với Mỹ để tìm tiếng nói chung nhằm tăng cường hợp tác; mặt khác, lại đấu tranh gay gắt với nhau nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất cho phát triển cũng như khẳng định vị thế của nước mình trong trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình thành, chống tham vọng thiết lập trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng và lợi ích giữa các nước lớn thể hiện trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều khu vực trên thế giới vẫn tiếp tục gay gắt trong mối quan hệ vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa kiềm chế lẫn nhau. Với sức mạnh của mình, quan hệ giữa các nước lớn, dù nồng ấm hay lạnh nhạt, dù hòa dịu hay căng thẳng, đều tác động trực tiếp đến hịa bình, an ninh, phát triển của thế giới.

<i>Thứ tư, nhiều vấn đề mang tính tồn cầu nổi lên, tác động lớn đến đời sống </i>

quan hệ quốc tế.

Nhân loại ngày nay đang đối phó với nhiều vấn đề mang tính tồn cầu cấp

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

bách địi hỏi phải có sự hợp tác đa phương để giải quyết. Đại dịch Covid-19 vừa qua là một ví dụ. Những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhiều năm qua đã đưa lại một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, do tính chất nghiêm trọng và phức tạp của những vấn đề tồn cầu tiếp tục địi hỏi các nước phải tích cực phối hợp, hợp tác một cách hiệu quả, thiết thực cả trong khuôn khổ song phương cũng như đa phương. Đây cũng là nguyên nhân khách quan của xu thế hợp tác trong quan hệ quốc tế giai đoạn hiện nay.

<i>Thứ năm, tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương. </i>

Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển năng động, góp phần vào sự phát triển chung của thế giới. Cùng với vị thế quốc tế ngày càng tăng, châu Á - Thái Bình Dương cũng là nơi diễn ra sự tranh giành ảnh hưởng một cách quyết liệt giữa các nước lớn. Những biến đổi sâu sắc của mơi trường địa-chính trị và địa-kinh tế tại châu Á - Thái Bình Dương kể từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh đã mở ra một không gian phát triển mới cho khu vực và tạo nên vị thế mới của châu Á - Thái Bình Dương trong quan hệ quốc tế. Điều đó được thể hiện qua việc ký Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) vào ngày 15-11-2020 tại Hà Nội. Đây là một FTA bao gồm 10 nước thành viên ASEAN và 5 quốc gia (Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand) mà ASEAN đã ký hiệp định thương mại tự do, hướng tới mục tiêu hình thành Hiệp định Thương mại tự do Đông Á (EAFTA) và khởi đầu cho Đối tác kinh tế tồn diện ở Đơng Á (CEPEA). Có thể nói, vai trị của châu Á - Thái Bình Dương trong quan hệ quốc tế ngày càng quan trọng hơn xét trên cả hai phương diện: chính trị - an ninh và kinh tế.

Tuy nhiên, tình hình an ninh chính trị châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và các thực thể quyền lực khác đã tạo nên cục diện ganh đua quyết liệt, tập hợp lực lượng, hịa hỗn, liên kết đa phương đa diện, cạnh tranh và hợp tác hết sức năng động, tùy thuộc lẫn nhau vơ cùng sâu sắc. Có thể thấy, cấu trúc quyền lực của trật tự châu Á - Thái Bình Dương hiện nay đang được duy trì trong trạng thái “cân bằng thấp” vì châu

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Á - Thái Bình Dương cịn thiếu một cấu trúc nội tại ổn định có vai trị lãnh đạo, chi phối toàn diện cả về kinh tế lẫn chính trị trong khu vực; sự ổn định an ninh khu vực phụ thuộc vào những yếu tố bên ngồi, trong đó đặc biệt phải kể đến vai trò can dự của Mỹ . Ở châu Á - Thái Bình Dương hiện vẫn cịn tồn tại nhiều yếu tố có khả năng gây mất ổn định, địi hỏi phải có sự tham gia mạnh mẽ của các nước liên quan để giải quyết. Đáng chú ý nhất là chương trình hạt nhân của Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, vấn đề eo biển Đài Loan và những mâu thuẫn, xung đột chủ quyền ở Biển Đông và Biển Hoa Đông...

<b>2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI THỜI KỲ ĐỔI MỚI </b>

Đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới được hình thành qua một quá trình, khởi đầu từ Đại hội VI của Đảng và tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện ở các Đại hội Đảng tiếp theo. Có thể chia quá trình này thành ba giai đoạn:

<b>2.1. Giai đoạn từ Đại hội VI của Đảng (1986) đến năm 1995 </b>

Đại hội VI của Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đồng thời cũng mở đầu q trình hình thành chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ hàng đầu là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, Đảng ta, trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đối ngoại thêm bạn, bớt thù; phá thế bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ quốc tế, theo đó phương hướng đối ngoại được xác định là: Phát triển và củng cố quan hệ hợp tác toàn diện với Lào và Campuchia, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền mỗi nước; Đoàn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ là hịn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam; Sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, tiến tới bình thường hóa quan hệ; Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị khóa VI (1988) là bước ngoặt, có tính đột phá về đổi mới tư duy đối ngoại, đánh dấu sự hình thành bước đầu chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa. Với nhận thức mới đúng đắn, tồn diện hơn về vấn đề an ninh, bao gồm cả yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong, Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại chuyển từ chỗ chú trọng nhân tố chính trị - quân sự sang ưu tiên cho nhân tố kinh tế, ưu tiên giữ vững hịa bình, độc lập dân tộc, có cách tiếp cận tồn diện hơn về tình hình thế giới và khu vực. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ này, Đảng ta triển khai chính sách đối ngoại “thêm bạn, bớt thù”, nhấn mạnh chủ trương phát triển quan hệ với tất cả các nước có chế độ chính trị khác nhau trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, khơng can thiệp vào công việc nội bộ của nhau...

Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989) là sự phát triển tiếp theo của đổi mới tư duy đối ngoại. Hội nghị đã nhận thức nhiều vấn đề đối ngoại cần phải giải quyết, trong đó một lần nữa tái khẳng định đối ngoại phải chuyển từ chính trị - an ninh là chủ yếu sang chính trị - kinh tế là chủ yếu; thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc; xác định lộ trình cải thiện quan hệ với các nước ASEAN; xác định lộ trình rút quân khỏi Campuchia; tiếp cận lộ trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ...

Đại hội VII của Đảng (1991) là bước phát triển mới trong việc hình thành chính sách đối ngoại đổi mới. Đại hội xác định nhiệm vụ đối ngoại là giữ vững hịa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên tinh thần đó, Đại hội đề ra chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hịa bình. Cũng tại Đại hội này, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra phương châm chiến lược trong chính sách đối ngoại: “Việt Nam muốn là bạn với các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu hịa bình, độc lập và phát triển”, đồng thời khẳng định chính sách đối ngoại hịa bình, độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Nhà nước Việt Nam.

</div>

×