MỤC LỤC
A.LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 2
B. PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................................ 3
I.Tư duy kinh tế trước đổi mới(1975- 1986) ................................................................ 3
1.Thời kỳ 1976-1982 ................................................................................................... 3
2.Thời kỳ 1982-1986 .................................................................................................... 4
II.Tư duy kinh tế sau đổi mới(1987 đến nay) ............................................................... 5
C.KẾT LUẬN...................................................................................................................14
Tài liệu tham khảo..…………………………………………………………………….15
A.LỜI MỞ ĐẦU
1
Như chúng ta đã biết, chặng đường đổi mới cũng không phải là và không thể là
một lộ trình đã được tính trước tất cả, đồng thuận tất cả. Đó là sự chung đúc những trăn
trở, những ý tưởng, những sáng kiến của rất nhiều bộ óc, nhiều cơ sở, nhiều địa phương.
Đó cũng là một quá trình vừa đi vừa tìm đường, vừa đi vừa điều chỉnh, đấu tranh với cái
cũ, đấu tranh với chính mình, thuyết phục nhau, chờ đợi nhau, rồi từng bước đi tới đồng
thuận. Trên lộ trình đó, có những bộ óc bứt phá, vươn lên trước và lần lượt cuốn hút cả
tập thể tiến lên. Có cả những sức ỳ, những nghi kỵ, những cản trở do chưa kịp nhận thức
ra cái mới. Có những bộ óc đã từng trì trệ, bỗng bừng tỉnh, vượt lên, tỏa sáng. Có những
trường hợp sau khi vượt trội, tỏa sáng lại ngưng trệ, lu mờ, bị đà tiến chung vượt qua. Lại
có không ít bộ óc rất cấp tiến về mặt này, nhưng lại chưa chuyển biến kịp về mặt kia.
Nhưng tổng hợp lực của sự vận động là tiến tới, tiến tới trong sự đồng thuận ngày càng
cao...
Nói lên được tất cả những bước quanh co, khúc khuỷu và gian nan đó chỉ càng làm
rạng rỡ thêm ý nghĩa và giá trị lớn lao của sự nghiệp đổi mới.
Theo dõi về kinh tế VN sau 1975, có thể thấy những bước chuyển biến và thăng
trầm đáng kinh ngạc. Sau khi tìm hiểu kỹ các tài liệu tôi thấy rằng ở đây tư duy kinh tế đã
quyết định chính sách kinh tế.Mà chính sách kinh tế thì ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
kinh tế của VN. Rất nhiều thăng trầm của VN là lệ thuộc vào tư duy kinh tế.
Trước thực tế đó, với vốn kiến thức đã học cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của
cô giáo Đỗ Thị Yến em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Quá trình đổi mới tư duy kinh tế ở
Việt Nam giai đoạn 1975 đến nay” làm bài tiểu luận của mình.
Kết cấu bài tiểu luận ngoài lời nói đầu và kết luận thì phần nội dung gồm:
I.Tư duy kinh tế trước đổi mới(1975- 1986).
II.Tư duy kinh tế sau đổi mới(1987 đến nay).
B. PHẦN NỘI DUNG
2
I.Tư duy kinh tế trước đổi mới(1975- 1986)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt, với việc đế quốc
Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc. Những vấn đề kinh tế tạm lùi xuống hàng thứ yếu,
để rồi lại nổi lên hàng đầu khi chiến tranh kết thúc. Chiến tranh kết thúc(1975) cũng có
nghĩa là kinh tế miền Nam mất hẳn nguồn viện trợ Mỹ và chiến phí của Mỹ, mỗi năm
chừng 2 tỷ đô la. Còn kinh tế miền Bắc thì cũng không còn viện trợ của Trung Quốc vào
khoảng 400 triệu đô la mỗi năm. Một nền kinh tế kiệt quệ về nhiên liệu và nguyên liệu,
lại mất hẳn động lực phát triển do những biện pháp quản lý và cải tạo xã hội chủ nghĩa
được áp dụng vội vã. Trong bối cảnh ấy thì chính sách kinh tế nào có khả năng gỡ bí?
1.Thời kỳ 1976-1982
Năm 1976, Việt Nam thống nhất đổi tên thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, năm 1980 ra Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam
được quyết định tại Đại hội Đại biểu toàn quốc năm 1976. Đường lối kinh tế chủ đạo của
Việt Nam từ thời kỳ này là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ làm chủ
tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động (gồm công nhân, nông dân tập thể, trí
thức xã hội chủ nghĩa và lao động khác), xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá
bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
Để thực hiện điều này, Việt Nam đã xây dựng một hệ thống kinh tế trong đó:
• Công nghiệp nặng được ưu tiên phát triển,
• Các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được cải tạo, kinh tế quốc
doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên, nông dân
ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ được khuyến khích tham gia sản xuất tập thể,
• Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất.
• Hội nhập kinh tế thông qua triển khai các hiệp định hợp tác với các nước xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ Kinh tế từ năm 1978.
Do sản xuất kém phát triển, hàng hóa không đủ,
nên việc phân phối bị kiểm soát bằng chế độ tem
phiếu.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong đó có
cả “do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ
sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội” dẫn tới "chủ quan, nóng vội, đề ra
những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá cao so với khả năng, những chủ
3
trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ xác đáng, dẫn đến lãng phí
lớn về sức người, sức của; ... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp hành đường lối của Đảng
và nhiều nghị quyết của Trung ương, trong việc đánh giá và vận dụng những khả năng về
nhiều mặt của đất nước.... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với cách kế hoạch
hóa gò bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ động cho cơ sở,
địa phương và ngành, và cũng không tập trung thích đáng những vấn đề mà Trung ương
cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế không còn thích hợp, cản
trở sản xuất và không phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của những
người lao động ... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những
biện pháp có hiệu quả," Hậu quả nghiêm trọng phải kể hai cuộc đổi tiền năm 1975 (do
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thực hiện) và đổi tiền năm 1978 trên toàn quốc để thực
thi "đánh tư sản mại bản", tiêu diệt tiết kiệm vốn liếng của người dân và làm xáo trộn
kinh tế trầm trọng.
Nhận định tổng quát về thực trạng kinh tế nước ta, trong những năm cuối thập kỷ
70, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) tháng 8/1979 đã chỉ ra: Việt Nam đang đứng
trước nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống; sản xuất phát triển chậm (tốc độ tăng tổng
sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới 1%/năm); năng suất lao động quá thấp; đời
sống nhân dân thiếu thốn, nhiều hiện tượng trong xã hội có tính tiêu cực nghiêm trọng.
2.Thời kỳ 1982-1986
Năm 1982, Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận kinh tế Việt Nam
trong thời kỳ 1976-1980 là: "kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn
đầu tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân
chưa bảo đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường, vật giá,
tài chính, tiền tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động còn nhiều khó khăn". Vì
thế, từ năm 1982, Đảng này quyết định Việt Nam sẽ tập trung sức phát triển mạnh nông
nghiệp và coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, và
kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu
công - nông nghiệp hợp lý, tăng cường phân cấp cho địa phương trong công tác sản xuất
và quản lý sản xuất. Kinh tế quốc doanh vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, kinh tế gia đình
được khuyến khích. Thị trường không có tổ chức bị quản lý chặt chẽ.
Tuy nhiên, thời kỳ 1981-1985 kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu
đã đề ra trong nghị quyết đại hội V là cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời
sống nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá - lương - tiền cuối năm 1985 đã đưa nền
kinh tế đất nước đến những khó khăn mới. Nền kinh tế-xã hội lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Siêu lạm phát xuất hiện và kéo dài.
4
Để vượt qua khó khăn, các địa phương nhất là địa phương ở Nam Bộ đã có những
biện pháp “xé rào” như khoán hộ, khoán sản phẩm, bù giá vào lương, tăng cường quan hệ
ngoại thương với các nước ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Những biện pháp “xé rào” này
đã mang lại những hiệu quả nhất định trong tăng năng suất sản xuất, giải quyết tình trạng
khan hiếm hàng hóa và nợ lương người lao động. Vì thế, chúng đã thu hút được sự chú ý
của các nhà lãnh đạo Đảng và chính phủ. Khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động
(hay Khoán 100 gọi dựa theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung ương Đảng CSVN khóa
IV) và mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các xí nghiệp quốc doanh (nghị
quyết 25/CP của Chính phủ) được Đảng và Chính phủ cho phép thí điểm và dần áp dụng
rộng rãi từ năm 1981. Ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, một số nhà nghiên cứu kinh
tế gồm cả những người được đào tạo thời Việt Nam Cộng hòa đã được lãnh đạo Đảng
triệu tập để nghiên cứu, chuẩn bị cho Đổi Mới.
Những thực tiễn “xé rào” và lý luận mới trên đã giúp Đảng Cộng sản Việt Nam
triển khai chính thức chương trình Đổi mới tư duy quản lý kinh tế mà thể hiện trước hết
là nghị quyết của Đại hội VI tổ chức vào giữa tháng 12 năm 1986.Đề cập tới sự cần thiết
đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải
đi đôi với đổi mới cơ chế quản lí kinh tế. Cơ chế quản lí tập trung quản lí tập trung quan
lieu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực động lực phát triển, làm suy yếu
kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác,
kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối
lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”.Chính vì vậy, việc đổi mới cơ
chế quản lí kinh tế quản lí kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách. Và, giai đoạn
Đổi Mới bắt đầu từ năm 1987.
II.Tư duy kinh tế sau đổi mới(1987 đến nay)
Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta cũng được
đổi mới qua nhiều bước.
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là kinh tế
thị trường. Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ không phải nói về
toàn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong khi phê phán
nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề ra chủ trương đổi mới
quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới toàn diện), Đại hội VI khẳng định:
“thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển
thêm một bước, Đại hội VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh
5
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản,
không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII
(tháng 1/1994) nhận định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phầ đang hình thành. Và cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ
chế vận hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, còn có chế vận hành của nền kinh tế
đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý
luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ
nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân loại”. Theo nhận định này, thị
trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất
khác nhau. Nó có trước chủ nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư
bản. Nếu trước chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha,
còn ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức chi
phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta nghĩa rằng nó
chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị
trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội không, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có
đi đến phủ định kinh tế thị trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất
là kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận động theo các quy luậtd dặc thù của chủ
nghĩa xã hội hay không? Câu trả lời là không. Quan điểm này cũng chính là quan điểm
của Đại hội VIII (1996) khi Đại hội chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của
Nhà nước theo định hướng, xã hội chủ nghĩa”.
Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế
tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ. Đại hội IX của Đảng (2001) ghi rõ: Đảng và
Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
6