Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 26 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGƯỜI VIỆT TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNGBIẾN ĐỔI VĂN HOÁ LÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY</b>
<b> Họ và tên: Trịnh Yến ViMã sinh viên: 2052020046 Lớp: XDĐ K40</b>
<i><b><small>Hà Nội, 2022</small></b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>ĐẶC ĐIỂM LÀNG NGƯỜI VIỆT TRUYỀN THỐNG VÀ NHỮNGBIẾN ĐỔI VĂN HOÁ LÀNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY</b>
<b> Họ và tên: Trịnh Yến ViMã sinh viên: 2052020046 Lớp: XDĐ K40</b>
<i><b><small>Hà Nội, 2022</small></b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>MỤC LỤC</b>
<b>PHẦN 1: MỞ ĐẦU……….……….4</b>
<small>1.</small> <b>Tính cấp thiết của đề tài……….………..4</b>
<small>2.</small> <b>Mục đích nghiên cứu……….4</b>
<small>3.</small> <b>Nhiệm vụ nghiên cứu………4</b>
<small>4.</small> <b>Phương pháp nghiên cứu……….4</b>
<b>PHẦN 2: NỘI DUNG………..5</b>
<b>1. Đặc điểm làng người Việt truyền thống………..5</b>
<b>2. Những biến đổi trong văn hoá làng Việt hiện nay……….7</b>
<b>3. Những hạn chế của làng người Việt………..……14</b>
<b>4. Những giải pháp phát triển làng người Việt……….…15</b>
<b>PHẦN 3: KẾT LUẬN………...16</b>
<b>Tài liệu tham khảo……….25</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>PHẦN 1: MỞ ĐẦU</b>
<b>1. Tính cấp thiết của đề tài:</b>
<b> Kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá làng xã truyền thống đang trở thành</b>
vấn đề quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, các nhà nghiên cứu và quản lý văn hố; giữ gìn và phát huy thế nào, ra sao để kế thừa được những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá làng xã ,vùng đồng bằng và ven biển. Văn hoá làng là một thành tố quan trọng của nền văn hoá dân tộc; là nền tảng cơ sở để xây dựng nông thôn phát triển bền vững.
<b>2. Mục đích nghiên cứu:</b>
<b> Hệ thống lại các thành quả của điều tra xã hội học, của các cơng trình </b>
nghiên cứu khoa học trước đây, xây dựng lại thành một chỉnh thể về bản sắc văn hoá dân tộc của làng xã để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, tìm hiểu. Trên cơ sở đó, đề ra được những giải pháp giữ gìn, phát huy có hiệu quả, có chất lượng việc xây dựng làng văn hố hiện nay, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc theo tinh thần nghị quyết Trung ương V( khoá VIII) của Đảng.
<b>3. Nhiệm vụ nghiên cứu:</b>
Từ thực tiễn chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm, nghiên cứu cơ sở lý luận về làng , văn hoá làng và những đặc điểm Văn hoá làng để tìm ra những giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy được những bản sắc Văn hố làng tốt đẹp.
<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>
+Phương pháp thu thập thông tin: khảo sát, lập bảng hỏi, đọc tài liệu,… +Phương pháp phân tích và tổng hợp.
+Phương pháp lịch sử và phương pháp logic. +Phương pháp xử lý thông tin.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>PHẦN 2: NỘI DUNG</b>
<b>1. Đặc điểm làng người Việt truyền thống:</b>
<b> Làng xã là nơi từ bao đời nay cư dân người Việt cư trú, lao động, sản xuất</b>
và tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tinh thần. Văn hóa làng xã đã đi vào ký ức người Việt với những giá trị vật chất và tinh thần rất gần gũi, thân thương. Sự hình thành làng xã gắn với việc phát triển của sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp lúa nước. Bởi vì khi con người sống du canh du cư thì xóm làng chưa thể ra đời. Xét về phương diện xã hội thì con người chuyển từ quan hệ huyết thống sang quan hệ láng giềng- địa vực, đây chính là nguyên tắc cơ bản hình thành nên làng xã Việt Nam. Vì thế giáo sư Trần Quốc Vượng đã khẳng định: “Trong quá khứ và thậm chí đến gần đây văn minh- văn hiến Việt Nam vẫn thuộc phạm trù văn minh lúa nước, văn hóa Việt Nam là văn hóa xóm làng”.
Hai đặc trưng cơ bản bao trùm xuyên suốt của văn hóa làng xã truyền thống Việt Nam chính là: tính cộng đồng và tính tự trị. Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa. Bất cứ làng nào cũng có một ngơi đình bởi đó là trung tâm hành chính, nơi diễn ra mọi công việc quan trọng như hội họp, bàn việc làng, việc nước, thu sưu thuế. Sau đó, đình làng là một trung tâm văn hóa, nơi tổ chức các cuộc hội hè, biểu diễn chèo, tuồng hay ăn uống… Nhưng quan trọng nhất đình làng chính là trung tâm về tơn giáo, tâm linh. Thế đình, hướng đình được xem là yếu tố quyết định đến vận mệnh của cả làng. Và cuối cùng đình làng là trung tâm tình cảm, nói đến làng người ta nghĩ ngay đến ngơi đình với nhiều tình cảm gắn bó thân thương nhất:
“Qua đình ngả nón trơng đình Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”.
Tuy nhiên do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa (tư tưởng Nho gia), đình làng từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi người dần chỉ là nơi lui tới của
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">cánh đàn ông. Khi bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ thường quần tụ nơi bến nước (những làng khơng có sơng thì giếng nước), nơi hằng ngày chị em thường gặp nhau chuyện trị, giặt giũ. Ngồi ra cịn có cây đa cổ thụ nằm ở đầu làng, dưới gốc đa có một miếu thờ, đó là nơi hội tụ của thần thánh, “sợ thần sợ cả cây đa”. Cây đa gắn liền với quán nước, là nơi nghỉ chân, gặp gỡ những người làm đồng, khách qua đường. Do vậy gốc đa trở thành cánh cửa liên kết làng với thế giới bên ngoài.
Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao bọc quanh làng trở thành một thứ thành lũy kiên cố, bất khả xâm phạm. Lũy tre là một đặc điểm quan trọng làm cho xóm làng khác biệt hẳn ấp lý Trung Hoa, có thành quất bằng đất bao bọc.
Chính văn hóa làng xã đã tạo nên những đặc trưng văn hóa, những đức tính tốt đẹp của người Việt Nam. Từ quan hệ láng giềng “bán bà con xa, mua láng giềng gần” nên người Việt có truyền thống đồn kết, gắn bó u thương xóm làng. Tình u xóm làng, q hương được đẩy lên cao là tình u quốc gia, đất nước. Cặp đơi làng- nước là cặp khái niệm thường trực trong tư duy và đời sống của người Việt. Công cuộc chống giặc ngoại xâm địi hỏi phải có tinh thần đồn kết tồn dân và lịng u nước. Hai điều kiện này là sản phẩm sẵn có của tính cộng đồng và tính tự trị làng xã. Khởi nguồn từ cuộc sống nơng nghiệp, tính cộng đồng của mọi người trong làng đã chuyển thành ý thức cộng đồng trong phạm vi quốc gia “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
Tính cộng đồng trong phạm vi làng xã là cơ sở tạo nên tính đồng nhất trong hàng loạt lĩnh vực như đồng tộc, đồng niên, đồng hương, đồng nghiệp và tất yếu dẫn đến sự đồng nhất trong phạm vi quốc gia: Đồng bào (sinh ra từ một bọc trứng). Tính đồng nhất (cùng hội, cùng cảnh ngộ) đã giúp cho người Việt có tính đồn kết, gắn bó rất cao, ln u thương, giúp đỡ nhau, coi người trong cộng đồng như anh em trong nhà.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Truyền thống văn hóa nơng nghiệp là trọng tình, trọng văn, trọng đức nên trong xã hội kẻ sĩ (văn sĩ) được coi trọng, đứng đầu danh mục các nghề trong xã hội: sĩ, nông, công, thương. Nông dân tuy đứng hàng thứ hai nhưng suy cho cùng nó vẫn là nghề cơ bản ni sống trí thức, ni sống cả cộng đồng và kiến tạo nên truyền thống văn hóa nơng nghiệp.
Văn hóa làng xã lấy hương ước, dư luận xã hội điều chỉnh hành vi đạo đức con người. Do đó, nạn bạo hành, bạo lực trong gia đình, dịng họ, làng xã rất hiếm xảy ra.
Hương ước là biểu hiện cụ thể của văn hóa làng xã nhằm góp phần quan trọng vào việc củng cố tính cộng đồng làng xã và các thành viên trong làng với nhiều đức tính và truyền thống quý báu. Hương ước của làng thường nêu ra các mục tiêu chế định rõ ràng như: mọi người phải ăn ở hịa thuận, giữ đúng đạo hiếu, gìn giữ tình làng nghĩa xóm…; quy định các biện pháp cứu trợ, tương trợ, xây dựng quỹ xã hương. Từ ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng làm cho người nông dân có ý thức dân chủ làng xã. Mọi thành viên trong làng đều có quyền lợi (vật chất, đất cơng, tinh thần) giống nhau nên phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với xóm làng. Khi vi phạm điều cấm, đất công đều bị lên án và phải bồi thường thiệt hại. Nếu là chức sắc vi phạm nặng thì bị cách chức. Điều này giúp ngăn chặn bớt sự lũng đoạn, sách nhiễu của các chức sắc trong làng, giữ sự ổn định một cách tương đối. Hương ước chú trọng đến công tác sản xuất nông nghiệp, việc bảo vệ, xây dựng các cơng trình cơng cộng; quy định về trật tự làng xóm, quy định khuyến khích tinh thần hiếu học (chế độ học điền); ruộng đất giành cho học trò nghèo học giỏi.
<b>2. Những biến đổi trong văn hoá làng Việt hiện nay:</b>
Văn hóa làng là hình thái văn hóa đặc biệt, gắn liền với các làng tụ cư cổ truyền ở nông thôn của người Việt, bao gồm tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần (phong tục, tập quán, lối sống, các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo...) do cộng đồng dân cư ở các làng quê sáng tạo ra, được biểu hiện trong xóm
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">làng hay được đặc trưng bằng kết cấu xóm làng (1). Theo học giả Trần Quốc Vượng: “Văn hóa Việt Nam cổ truyền về bản chất là một nền văn hóa xóm làng” (2). Cịn nhà nghiên cứu Phan Đại Dỗn nhấn mạnh: “Văn hóa làng có nội dung cực kỳ phong phú. Nhiều khi làng đã giải thể nhưng văn hóa làng thì vẫn tiếp tục tồn tại lâu dài” (3). Thực tế, các yếu tố, bộ phận trong văn hóa làng khơng tồn tại riêng biệt mà hòa quyện vào nhau tạo nên bản sắc, đặc trưng của cộng đồng làng; đồng thời văn hóa làng ln vận động và phát triển, các thế hệ kế tiếp ln có ý thức sáng tạo, phát huy vốn văn hóa cổ truyền để phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Biến đổi văn hóa làng có thể được hiểu là những sự vận động, thay đổi của bức tranh văn hóa làng nói chung cũng như sự biến đổi của các thành tố, phương diện trong chỉnh thể đời sống văn hóa của cộng đồng dân làng. Q trình này diễn ra có thể do những tác động của các nhân tố như kinh tế, chính trị, xã hội… hoặc là kết quả của vận động tự thân của văn hóa. Trong bối cảnh cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa ngày càng sâu rộng, nhanh chóng như hiện nay, khi một phần đáng kể diện tích đất canh tác nông nghiệp ở nhiều vùng nông thôn chuyển sang phục vụ cho việc xây dựng các nhà máy, xí nghiệp, khu đô thị, khu dân cư mới… những biến đổi trong bức tranh văn hóa của cộng đồng làng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Đó là sự thay đổi từ lối sống, cách sinh hoạt, sáng tạo văn hóa, đến cách tư duy, nếp nghĩ, hệ giá trị, các phong tục tập quán… Một quá trình chuyển đổi cơ cấu văn hóa tinh thần đang diễn ra do những biến đổi sâu sắc của đời sống kinh tế, xã hội, với xu hướng tiếp biến, đan xen giữa các yếu tố cũ và mới, nông nghiệp và công nghiệp, truyền thống và hiện đại…
Biến đổi văn hóa làng do tác động và ảnh hưởng của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xu hướng mang tính quy luật trong sự vận động, phát triển của văn hóa. Q trình này diễn ra khi có sự tác động của mơi trường sống thay đổi, dẫn đến ý thức văn hóa tộc người cũng dần biến đổi cho phù hợp với cuộc sống hiện hữu. Đó là kết quả của sự tiếp biến văn hóa một
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">cách tự nguyện, tự giác do vai trị tự điều chỉnh văn hóa của mỗi cá nhân, mỗi nhóm người trong cuộc sống cộng cư của họ để cùng thích ứng với xã hội hiện hữu.
Quá trình biến đổi văn hóa ở các làng q là sản phẩm tất yếu của tiến trình hiện đại hóa nên nhìn chung nó có tác động tích cực, đem lại sự tiến bộ trong đời sống xã hội nói chung cũng như với phát triển văn hóa ở khu vực nơng thơn nói riêng. Tuy nhiên, q trình này cho thấy nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội và văn hóa của cộng đồng làng: lối sống thực dụng, đơi khi đề cao thái quá các giá trị vật chất, nguy cơ mai một những giá trị truyền thống tốt đẹp, nạn ô nhiễm môi trường, an ninh trật tự… cần được quan tâm.
<b> Những biến đổi cơ bản của văn hóa làng trong q trình cơng nghiệphóa, hiện đại hóa. Q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước</b>
ta trong đó có việc chuyển một phần đáng kể diện tích đất canh tác sang phục vụ các mục tiêu phi nông nghiệp đã đưa tới những biến đổi mạnh mẽ trong cơ cấu nghề nghiệp ở nhiều vùng nông thôn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính trong giai đoạn 2009-2019, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội ở nước ta giảm từ 53,9% xuống cịn 35,3% (4). Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng đưa đến những biến đổi căn bản trong đời sống xã hội nhiều làng quê khi một bộ phận người dân khơng cịn đủ đất canh tác, phải tìm đến các khu cơng nghiệp, khu đơ thị để kiếm việc làm; ngược lại, ở những nơi có khu công nghiệp hay cận khu công nghiệp… do nhu cầu lao động nên ngoài dân gốc của làng đã xuất hiện thêm nhiều thành phần dân cư khác khiến cho cơ cấu dân cư của làng biến đổi theo hướng linh hoạt, mở hơn chứ khơng mang tính cố định, đóng kín như trước kia (5).
Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội của người dân ở các làng quê là tiền đề đưa tới những thay đổi trong đời sống văn hóa của cộng đồng làng. Điều này thể hiện ở thu nhập và mức sống của người nông dân được nâng lên, đi cùng với điều kiện hạ tầng ngày càng được cải thiện đã
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">phá vỡ tính khép kín của các làng, đồng thời thúc đẩy sự giao lưu, tiếp biến về văn hóa. Mặt khác, thể hiện ở xu hướng đa dạng hóa các thành phần, tầng lớp dân cư tạo thành chất xúc tác giúp mở rộng, nâng cao trình độ dân trí, cơ hội giáo dục và tiếp cận thông tin… cho người dân ở vùng nông thôn. Tuy nhiên, bên cạnh tác động và ảnh hưởng tích cực, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng cho thấy những hiệu ứng không mong muốn đối với đời sống xã hội và văn hóa của cộng đồng dân cư ở các làng quê hiện nay: việc sử dụng đất nơng nghiệp tùy tiện, lãng phí ở nhiều nơi dẫn tới tình trạng dư thừa lao động, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống của một bộ phận người dân; tình trạng san lấp, lấn chiếm các ao, hồ, mương máng cùng sự yếu kém trong xử lý nước thải, rác thải... đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến cảnh quan nông thôn và đời sống, sức khỏe của nơng dân (6). Ngồi ra, có thể thấy, ở nhiều làng quê, mặc dù bắt nhịp được với quá trình chuyển đổi, nhưng với sự xuất hiện của nhiều thành phần, tầng lớp dân cư trong làng đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã hội...
Thực tiễn cho thấy, quá trình biến đổi văn hóa làng diễn ra tập trung ở một số phương diện cơ bản sau:
Biến đổi không gian làng: Làng quê xưa, nhất là các làng ở vùng châu thổ Bắc Bộ, với đặc trưng khơng gian tương đối khép kín, lũy tre làng bao quanh được xem như ranh giới giữa không gian cư trú và không gian sản xuất của làng. Hiện nay, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với sự thu hẹp đáng kể của diện tích đất nông nghiệp đã làm không gian cảnh quan ở các làng quê biến đổi rõ rệt. Bên cạnh không gian cư trú truyền thống được định vị theo các xóm, ngõ là những những hình thức tập trung dân cư mới theo nghề nghiệp: những xóm mới, phố - làng mới… khiến cho không gian cư trú và không gian sản xuất ở các làng hiện nay gắn bó chặt chẽ với nhau, không phân biệt rõ ràng như trước kia. Những ao, hồ, mương máng có vai trị quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người nông dân xưa hiện
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">cũng bị san lấp, thu hẹp đáng kể do sức ép của sự gia tăng dân số cũng như nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Các cơng trình như trường học, nhà văn hóa, sân chơi, thư viện, chợ… được xây dựng, mở mang cùng hệ thống đường giao thông quy hoạch rộng rãi khiến cho làng quê mang dáng dấp của các đơ thị. Nhìn chung, khơng gian cảnh quan ở các làng q hiện đại đã khơng cịn khép kín mà ngày càng trở nên mở, linh hoạt hơn…
Biến đổi quan hệ gia đình, họ hàng, làng xã: Gia đình, họ hàng, làng xã là những thiết chế xã hội - văn hóa đặc trưng ở các làng quê, thể hiện tập trung và tiêu biểu những đặc tính trong đời sống xã hội của cộng đồng làng. Cùng với những tác động và ảnh hưởng của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, thiết chế gia đình, họ hàng, làng xã và những mối quan hệ xã hội liên quan ở các làng quê hiện nay cũng đang chứng kiến những đổi thay rõ nét. Nhiều kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, sợi dây gắn kết giữa các thế hệ, thành viên trong gia đình nơng thơn hiện nay đang có chiều hướng suy giảm. Sự đa dạng hóa và khác biệt về lao động, việc làm cùng những mối quan tâm, ưu tiên riêng của các thành viên khiến cho những hoạt động chung của các thành viên trong gia đình ngày càng ít đi (7). Bên cạnh sự gắn kết gia đình, mối quan hệ họ hàng, làng xã - mạng lưới liên kết đặc trưng cho lối sống cộng đồng, cũng đang chứng kiến sự suy giảm đáng kể do tác động và ảnh hưởng của những biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội. Sự gắn bó, tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên, gia đình trong họ tộc, hàng xóm láng giềng, nhất là mỗi khi có cơng việc quan trọng như tang ma, cưới xin… tuy vẫn được coi trọng, duy trì nhưng khơng cịn đóng vai trị là nhân tố thiết yếu như trước đây.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội chuyển đổi, sự đa dạng của các hoạt động nghề nghiệp, việc làm khiến cho nhiều người trở nên bận rộn với công việc riêng, ít thời gian rảnh rỗi để qua lại, thăm hỏi nhau như trước kia… Bên cạnh đó, khi đời sống vật chất không ngừng được nâng lên, sự xuất hiện của những ngơi nhà kiên cố, “kín cổng cao tường” ngày càng phổ biến, khiến cho hoạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">động gặp gỡ, trò chuyện giữa những người hàng xóm láng giềng bị hạn chế. Điều đó góp phần làm cho nhiều người dân, hộ gia đình vốn gần gũi, thân tình trước kia, nay dần trở nên xa cách hơn. Ngồi ra, lối sống và thói quen tiêu dùng đô thị với mạng lưới dịch vụ ngày càng được mở rộng, phát triển ở các làng quê hiện nay khiến cho nhiều người có thói quen sử dụng các dịch vụ, tiện ích có sẵn mỗi khi có cơng việc thay vì tìm kiếm sự giúp đỡ và hỗ trợ từ họ hàng, láng giềng như trước kia. Điều đó khiến cho mức độ phụ thuộc, ràng buộc của các thành viên, gia đình trong họ tộc cũng như giữa những người hàng xóm láng giềng có xu hướng suy giảm.
Biến đổi di tích, tín ngưỡng, lễ hội và các phong tục tập quán: Đời sống kinh tế ngày càng khởi sắc, người dân ở các làng quê có điều kiện quan tâm hơn đến việc bảo tồn, giữ gìn các di tích cũng như phục dựng các lễ tiết, lễ hội của làng. Các di tích được đầu tư nhiều tiền của, công sức tu bổ, làm mới, được đưa trở lại với ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của cộng đồng. Các sinh hoạt văn hóa truyền thống, nhất là lễ hội cổ truyền được tiếp nối, duy trì, ngày càng trở nên đặc sắc hơn với nguồn kinh phí tổ chức và nhân lực tham gia khơng ngừng được tăng cường, xã hội hóa. Bên cạnh các nghi lễ, trò vui truyền thống, lễ hội làng cũng được bổ sung nhiều hoạt động mới mang hơi thở cuộc sống đương đại, các trò chơi giải trí, hoạt động thể dục thể thao, văn nghệ đặc sắc. Cùng với nỗ lực tiếp nối và bảo lưu giá trị, ý nghĩa của lễ hội làng, người dân ở các làng quê cũng đang ngày càng có xu hướng trở lại với những thực hành tín ngưỡng truyền thống khi điều kiện kinh tế, đời sống vật chất có bước tiến đáng kể so với trước đây (8).
Các phong tục tập quán, lối sống của người dân ở làng quê có sự biến đổi rõ nét khi tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm và cùng với đó là xu hướng đa dạng hóa trong cơ cấu nghề nghiệp, việc làm. Một bộ phận dân cư đã chuyển hẳn sang các hoạt động kinh doanh, buôn bán, làm dịch vụ, làm công nhân trong các khu công nghiệp… khiến cho nhịp sống, lối sống của dân làng cũng trở nên sôi động, khẩn trương hơn; việc tuân thủ giờ
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">giấc được chú trọng với tác phong nhanh nhẹn, năng động. Cùng với sự mở rộng, phát triển của mạng lưới dịch vụ, người dân ở các làng quê ngày càng trở nên quen thuộc với kiểu tư duy cần gì là có thể mua chứ khơng phải chạy sang hàng xóm vay, mượn như trước kia; và đi cùng với đó là lối sống gắn với sự nhanh nhạy và bình đẳng của thị trường. Chính vì lẽ đó, bên cạnh lối sống nghĩa tình vẫn được duy trì, xuất hiện lối ứng xử, lối sống theo kiểu dịch vụ, thị trường, coi trọng sự minh bạch, sịng phẳng. Nhìn chung bức tranh lối sống ở nhiều làng quê hiện nay có sự pha trộn, đan xen giữa nông nghiệp và công nghiệp, truyền thống và hiện đại, nông thôn và đô thị.
Các phong tục tập qn là những yếu tố vốn có tính ổn định, bền vững, tuy nhiên cũng đang có nhiều biến đổi do tác động của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhìn chung các phong tục tập qn truyền thống như ma chay, cưới xin, giỗ chạp… vẫn được coi trọng, tiếp nối truyền thống, nhưng đã có sự cải biến theo hướng hiện đại, giản tiện hơn về thời gian cũng như những nghi lễ phức tạp, rườm rà để phù hợp với nhịp sống, lối sống công nghiệp, đô thị (9). Việc lựa chọn, sử dụng các loại hình dịch vụ thay vì trơng cậy vào sự trợ giúp của họ hàng, xóm giềng của người dân và các hộ gia đình mỗi khi có cơng việc cũng có xu hướng gia tăng. Những sự thay đổi đó dựa trên nền tảng đời sống kinh tế ngày càng sung túc, dồi dào hơn, cũng như sự gần gũi, giao thoa của các làng quê với khu vực đơ thị, làm nên tính chất đan xen văn hóa làng - phố rất đặc trưng ở nhiều làng quê Việt Nam hiện nay. Những biến đổi trong hoạt động tiếp cận thơng tin và giải trí: Đi cùng những đổi thay mạnh mẽ và sâu sắc của đời sống kinh tế - xã hội, nhu cầu và các hoạt động, phương thức trao đổi thơng tin, giải trí của người dân ở làng quê cũng không ngừng được mở rộng, đa dạng hóa. Bên cạnh các hoạt động văn hóa quần chúng, hệ thống đài truyền thanh cũng được phủ sóng đến từng thơn xóm, hệ thống thư viện, phịng đọc đáp ứng nhu cầu thông tin, tri thức đa dạng của người dân, hệ thống tiếp cận thông tin trong các gia đình cũng ngày càng được mở rộng, hiện đại hóa với những phương tiện nghe nhìn hiện đại:
</div>