Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

triết học mác lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuấ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.42 MB, 17 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><small>1.3. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất...4</small></i>

<i><small>1.4. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất...5</small></i>

<i><small>1.5. Ý nghĩa trong đời sống xã hội...7</small></i>

<small>Chương 2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sảnxuất vào tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta...7</small>

<i><small>2.1. Tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta...7</small></i>

<i><small>2.2. Vận dụng trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay...10</small></i>

<i><small>2.3. Các việc làm của bản thân để chủ động trong việc làm phù hợp với thực tiễn của thời đại kinh tế thị trường ngàynay...12</small></i>

<small>KẾT LUẬN...15</small>

<small>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Triết học Mác - Lênin là sự chọn lọc và kết tinh những thành tựu của nhân loại trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học về con người, về tư duy... Việc tìm hiểu sâu sắc Triết học Mác - Lênin có ý nghĩa rất lớn đối việc hình thành thế giới quan của mỗi cá nhân cũng như với nhiệm vụ xây dựng ý thức xã hội mới, từ đó góp phần vào thành cơng của q trình xây dựng đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đặc biệt là mối. Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã giành được những thắng lợi, những thành tựu của cách mạng ln gắn liền với q trình vận dụng sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể của thời đại, trên cơ sở thực tiễn Việt Nam. Ở nước ta, trước thời kỳ Đổi mới, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã không được nhận thức một cách đầy đủ,cơ chế quan liêu,bao cấp kéo dài khiến nền kinh tế trở nên trì trệ. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đưa nước ta chính thức bước vào thời kỳ Đổi mới. Từ đây, Đảng đã không ngừng nâng cao về nhận thức và lý luận, áp dụng linh hoạt vào việc Đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật phát triển, được ứng dụng rộng rãi trong xã hội, năng suất lao động không ngừng tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện.

<b>NỘI DUNG</b>

<b>Chương 1. Triết học Mác – Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượngsản xuất và quan hệ sản xuất</b>

<i><b>1.1. Lực lượng sản xuất </b></i>

Lực lượng sản xuất được hiểu là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được hình thành trong quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động vào tự nhiện để tạo ra của casit vật chất nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của con người.

Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động. Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất théo quen lao động, biết sử

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Theo đó, tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động, tư liệu lao động (công cụ lao động) và những tư liệu lao động khác.Trong đó, đối tượng lao động khơng phải là tồn bộ giới tự nhiên, mà chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản xuất, con người không chủ chỉ trong giới tự nhiên những đối tượng lao động có sẵn, mà cịn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động.

Mối quan hệ giữa tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối tượng lao động, chúng dẫn chuyển sự tác động của con người vào đối tượng lao động. Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất. Đối với mỗi thế hệ mới tư liệu lao động do thế hệ trước để lại và trở thành điểm xuất phát cho thế hệ tương lai. Vì vậy, những tư liệu lao động đó là cơ sở sự kế tục của lịch sử, Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biên đối tượng lao động khi chúng kết hợp với đời sống.

Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong giai đoạn lịch sử nhất định. Chính vì cậy, trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C. Mác khẳng định : “Lịch sử chẳng qua chẳng qua là sự tiếp nối của những thể hệ riêng lẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liêu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những hế hệ trước để lại. Do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi”.

Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường xuyên có quan hệ chặt chẽ với nhua, Trong sự phát triển của hệ thống công cụ lao động và trình độ khoa học - kỹ thuật, kỹ năng lao đọng của con người đóng vai trị quyết định. Con người là nhân tố trung tâm, và là mục đích của nền sản xuất xã hội. Lênin viết “Lực lượng sản xuất hàng đầu là tồn thể nhân loại cơng nhân, là người lao động”.

Người lao động với tư cách là một bộ phận lực lượng sản cuất xã hội phải là người có thể lực, có tri thức văn hóa, có trình độ chun mơn nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành mạnh, lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

công việc. Trước đây do chưa chú trọng đúng mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát huy mọi sức mạnh của nhân tố con người. Mặc dù năng lực sản xuất và kinh nghiệm sản xuất của con người còn phụ thuộc vào những tư liệu sản xuất đang có mà họ đang sử dụng. Nhưng sự tích cực sáng tọa của người lao động đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế;

Trong bất cứ một xã hội nào để có thể tạo ra của cải, vật chất khơng chỉ có các yếu tố về người lao động mà còn phải kết hợp thêm cả tư liệu sản xuất nữa. Bở lẽ nếu khơng có cơng cụ lao động phục vụ cho quá trình lao động thì con người sẽ không thể tác động được lên đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất.

<i><b>1.2. Quan hệ sản xuất </b></i>

Quan hệ sản xuất xã hội được hiểu là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng. Theo đó, Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức. Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sơng vật chất xã hội, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế - xã hội. Đây là một kiểu quan hệ tiêu biểu cho bản chất kinh tế - xã hội nhất định.

Nội dung cơ bản của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm những nội dung cơ bản dưới đây:

- Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệu sản xuất; - Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý;

- Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phố sản phẩm lao động.

Có thể nói ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những mối quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.

Đối với quan hệ sản xuất, có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất, đó là: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. Những hình thức sở hữu này là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội. Đương nhiên để cho tư liệu sản xuất không trở

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

thành “vơ chủ” phải có chính sách và cơ chế rõ ràng để xác ddingj chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định.

Trong quá trình tổ chức sản xuất xuât hiện các quan hệ kinh tế, Nó vừa biểu hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kỹ thuật của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế tổ chức phản ánh trình độ phân cơng lao động xã hội, chun mơn hóa và hợp tác hóa sản xuất. Nó do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định;

Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trị quan trọng. Những quan hệ này có thể góp phần củng cố quan hệ sở hữu và cũng có thể làm biến dạng qun hệ sở hữu. các hệ thống quan hệ sản xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phương thức sản xuất nhất định. Hệ thống quan hệ sản xuất thống trị mõi hình thái kinh tế - xã hội ấy, Vì vậy, khi nghiên cứu, xem xét tính chất của một hình thái xã hội thì khơng thể nhìn ở trình độ của lực lượng sản xuất mà cịn phải xem xét đến tính chất của quan hệ sản xuất.

<i><b>1.3. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất</b></i>

Sự vận động và phát triển của phương thức sản xuất bắt đầu từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của q trình sản xuất có tính năng động, cách mạng, thường xuyên vận động và phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính ổn định tương đối. Trong sự vận động của mâu thuẫn biện chứng đó, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Cơ sở khách quan quy định sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là do biện chứng giữa sản xuất và nhu cầu con người; do tính năng động và cách mạng của sự phát triển công cụ lao động; do vai trò của người lao động là chủ thể sáng tạo, là lực lượng sản xuất hàng đầu; do tính kế thừa khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất trong tiến trình lịch sử.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Lực lượng sản xuất vận động, phát triển không ngừng sẽ mâu thuẫn với tính “đứng im” tương đối của quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất từ chỗ là “hình thức phù hợp”, “tạo địa bàn” phát triển của lực lượng sản xuất trờ thành “xiềng xích” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đòi hỏi tất yếu của nền sản xuất xã hội là

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã phát triển. C.Mác đã nêu tư tưởng về vai trò của sự phát triển lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã hội: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, lồi người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay băng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, các cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”.

Lực lượng sản xuất quyết định sự ra đời của một kiểu quan hệ sản xuất mới trong lịch sử, quyết định đến nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn.

<i><b>1.4. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất</b></i>

Do quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất có tính độc lập tương đối nên tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất. Vai trò của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua sự phù hợp biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất và “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Sự phù hợp bao gồm sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tổ cấu thành lực lượng sản xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa các yếu tố

cấu thành quan hệ sản xuất; sự kết hợp đúng đắn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Sự phù hợp bao gồm cả việc tạo điều kiện tối ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất; tạo điều kiện hợp lý cho người lao động sáng tạo trong sản xuất và hưởng thụ thành quả vật chất, tinh thần của lao động.

Nếu quan hệ sản xuất “đi sau” hay “vượt trước” trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đều là không phù hợp. Sự phù hợp khơng có nghĩa là đồng nhất tuyệt đối mà chỉ là

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

tương đối, trong đó chứa đựng cả sự khác biệt. Sự phù hợp diễn ra trong sự vận động phát triển, là một quá trình thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn.

Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quy định mục đích, xu hướng phát triển của nền sản xuất xã hội; hình thành hệ thống động lực thúc đẩy sản xuất phát triển; đem lại năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền sản xuất.

Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai chiều hướng, đó là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy mô sản xuất được mở rộng; những thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng nhanh chóng; người lao động nhiệt tình hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động được đảm bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất khơng phù hợp thì sẽ kìm hãm, thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ diễn ra trong những giới hạn, với những điều kiện nhất định.

Trạng thái vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất diễn ra là từ phù hợp đến không phù hợp, rồi đến sự phù hợp mới ở trình độ cao hơn. Con người bằng năng lực nhận thức và thực tiễn, phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thiết lập sự phù hợp mới làm cho quá trình sản xuất phát triển đạt tới một nấc thang cao hơn. C.Mác khẳng định; “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có… trong đó từ trước tới nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là các hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất làm cho lịch sử xã hội loài người là lịch sử kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thủy qua phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, phương thức sản xuất phong kiến, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và đang phát triển đến phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, do những điều kiện khách quan và chủ quan quy định, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có những đặc điểm tác động riêng, Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất địi hỏi tất yếu thiết lập chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa dần dần loại trừ đối kháng xã hội. Sự phù hợp không diễn ra “tự động”, địi hỏi trình độ tự giác cao trong nhận thức và vận dụng quy luật. Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội xã hội chủ nghĩa có thể bị “biến dạng” do nhận thức và vận dụng không đúng quy luật.

<i><b>1.5. Ý nghĩa trong đời sống xã hội</b></i>

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Trong thực tiễn, muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là phát triển lực lượng lao động và cơng cụ lao động. Muốn xóa bỏ một quan hệ sản xuất cũ, thiết lập một quan hệ sản xuất mới phải căn cứ từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không phải là két quả của mệnh lệnh hành chính, của mọi sắc lệnh từ trên ban xuống, mà từ tính tất yếu kinh tế, yêu cầu khách quan của quy luật kinh tế, chống tuỳ tiện, chủ quan, duy tâm, duy ý chí.

Nhận thức đúng đắn quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong quán triệt, vận dụng quan điểm, đường lối, chính sách, là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong quá trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm hàng đầu đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn sáng tạo quy luật này, đã đem lại hiệu quả to lớn trong thực tiễn. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng quát, là sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>Chương 2. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ biện chứnggiữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào tính tất yếu của nền kinh tế nhiềuthành phần ở nước ta.</b>

<i><b>2.1.Tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta</b></i>

Khoa học công nghệ phát triển vượt bậc đã giúp con người phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của tài nguyên thiên nhiên, nhiều vật liệu trước kia tưởng chừng khơng có ích lại trở thành những vật có ích lớn và nhiều vật tính có ích lại được nhân lên gấp bội với sự xuất hiện của nhiều ngành sản xuất mới, giúp tạo ra đối tượng lao động mới, phong phú và giàu có hơn.

Trong thời kỳ q độ, do trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, nên còn nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Vì vậy cịn nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Việc phân định các thành phần kinh tế mới hiểu được các đặc trưng cơ bản và xu hướng vận động của chúng để có chính sách phù hợp nhằm phát huy được tiềm lực của chúng vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Tiêu thức chủ yếu làm cơ sở cho việc phân định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là:

- Quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu phải phù hợp, gắn với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thức sở hữu, mỗi thành phần kinh tế phản ánh một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.

- Cơ cấu các thành phần kinh tế phải phản ánh đúng tình hình thực tế của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử - cụ thể.

- Sự phát triển của các thành phần kinh tế có mối liên hệ tất yếu khách quan theo một quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển lực lượng sản xuất từ thấp lên cao và theo định hướng XHCN.

Ở Việt Nam, từ cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam ngày càng bộc lộ nhiều khó khăn, yếu kém và lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nguyên nhân của tình trạng đó là do những sai lầm, hạn chế trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, do đường lối, chính sách xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ sau năm 1954 ở miền Bắc và từ sau năm 1975

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

trên phạm vi cả nước. Mơ hình kinh tế quan liêu bao cấp đã được duy trì hàng chục năm ở miền Bắc như chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (nhất là đất đai), về lao động tập thể, độc quyền của nhà nước về thương nghiệp và giá cả; về kế hoạch hóa tập trung; về quan niệm rằng tư bản là bóc lột, là đối lập với chủ nghiã xã hội - mà kinh tế thị trường thì sản sinh ra chủ nghĩa tư bản v.v cùng với thói quen bao cấp đã hình thành lâu năm càng làm trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng. Bộ máy quản lý qua nhiều cấp từ trung ương tới địa phương. Do có nhiều cấp trung gian nên hoạt động khơng năng động, kịp thời, thậm chí dẫn tới nhiều tiêu cực ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động, người dân.

Nền kinh tế nhiều thành phần khơng được thừa nhận mà chỉ có kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ đạo, để tiến hành xóa bỏ kinh tế tư nhân, cá thể và sở hữu tư nhân khỏi xã hội. Do đó, kinh tế Việt Nam thời kì này lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì trệ với nhiều tiêu cực.

Với nền kinh tế kế hoạch, ngành kinh tế thương nghiệp tư nhận bị loại bỏ hồn tồn, được coi là khơng hợp pháp trong nền kinh tế chính thống. Theo đó, hàng hóa sẽ phân phối tới người dân theo chế độ tem phiếu do nhà nước điều hành, nắm toàn quyền. Thời kì này, việc vận chuyển hàng hóa tự do giữa các địa phương, mua bán trên thị trường bị xóa bỏ hồn tồn. Hàng hóa do nhà nước phân phối độc quyền và hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Việc phân phối lương thực, thực phẩm sẽ dựa theo đầu người, xét theo hộ khẩu.

Do đó, chế độ hộ khẩu được hình thành. Nổi bật nhất là sổ gạo, trong đó có ấn định số lượng và các mặt hàng được phép mua dựa trên số khẩu trong một gia đình. Khi cả nước thốt khỏi chiến tranh, tồn dân bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước theo mơ hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xơ. Và thời kỳ bao cấp được ra đời không lâu sau đó. Vào thời kỳ này, trong xã hội, hàng hóa khan hiếm, khơng đủ phục vụ đầy đủ nhu cầu của mọi người dân.

Do đó, nhà nước phân phối hàng hóa dựa vào hệ thống tem phiếu. Lương đi làm của người lao động cũng được quy ra lương thực. Tuy nhiên, chợ đen vẫn hoạt động nhỏ lẻ, bị xem là bất hợp pháp nên hàng hóa ở chợ khơng nhiều và có giá rất cao. Nhiều người lĩnh hàng tem phiếu nhưng không dùng tới thường đem bán ở chợ đen. Nói chung, đồng tiền

</div>

×