Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 49 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Cùng với hoạch định và triển khai thực hiện, thì đánh giá chính sách là một khâu khơng thể thiếu của quy trình chính sách. Vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, mà khâu đánh giá chính sách chưa được thực sự coi trọng trong thực tiễn Việt Nam. Vậy, những giải pháp nào cần triển khai thực hiện để khắc phục khiếm khuyết trên đây trong quy trình chính sách?
<b>Địi hỏi từ thực tiễn về đánh giá chính sách cơng.</b>
Mỗi chính sách vận động theo một quy trình, bao gồm 3 giai đoạn cơ bản: hoạch định chính sách, thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Ở Việt Nam, lâu nay Nhà nước đã chú trọng nhiều đến khâu hoạch định và thực thi chính sách, song việc đánh giá chính sách thì dường như bị bỏ qua hoặc rất ít được quan tâm.
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể chế, nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban hành hàng loạt văn bản pháp luật trong khơng ít trường hợp dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà cuối
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">cùng là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh tế – xã hội theo các chiều khác nhau, khiến cho những hoạt động này khơng đạt được mục tiêu mong muốn.
Nói cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi hành, song việc chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu thì dường như khơng được quan tâm. Đơi khi chính sách được ban hành chẳng những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra những hiệu ứng phụ làm phức tạp thêm vấn đề.
Chẳng hạn, chính sách hạn chế ùn tắc giao thông trong các thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp khác nhau, song thực tế vẫn chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số giải pháp đưa ra, như chặn các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm hiện trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách (thông qua việc soạn thảo và ban hành hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ chức triển khai các chính sách đó trên thực tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân và sức lực của không ít người, song nhiều khi các chính sách này không đem lại lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ ra. Do đó, đã đến lúc cần coi đánh giá chính sách như một khâu khơng thể thiếu trong quy trình chính sách.
Chính vì vậy, em xin chọn đề tài: “Các tiêu chí đánh giá chính sách công, những nguyên nhân và giải pháp để
tăng cường đánh giá chính sách cơng tại Việt Nam và liên hệ thực tiễn”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>I, Đánh giá chính sách cơng.</b>
<b>1, Khái niệm đánh giá chính sách cơng.</b>
Đánh giá chính sách cơng là việc xem xét mức độ đạt được mục tiêu đề ra làm căm cứ cho việc lựa chọn và hồn thiện chính sách cơng. Đánh giá chính sách cơng có nhiệm vụ: Sơ kết, tổng kết việc thực hiện chính sách, đánh giá hiệu lực, hiệu quả của chính sách, rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết. Đánh giá chính sách cơng là trả lời các câu hỏi: Chính sách đó có cần thiết hay khơng? Mục đích của chính sách là gì? Chính sách đã tác động đến đối tượng ra sao? Hiệu quả thế nào? Ai đánh giá tác động, các phản hồi của chính sách là gì? Những tiêu chuẩn để đánh giá chính sách? Chính sách đó có nên duy trì, phát triển hay chấm dứt?
Đánh giá chính sách là việc xem xét, nhận định về giá trị các kết quả thu được khi thực hiện một chính sách cơng. Việc đánh giá chính sách thường thường do các cơ quan chun mơn trong bộ máy chính quyền thực hiện. Những tổ chức hoặc cá nhân có liên quan hoặc quan tâm đến một chính sách nào đó cũng có thể tham gia đánh giá chính sách. Nhưng suy cho cùng, người đánh giá chính sách cơng bằng nhất là nhân dân lao động. Nhân dân sẽ phán xét chính sách bằng những kết quả cụ thể trong đó việc cải thiện điều kiện làm việc và đêm lại cuộc sống ấm no cho họ.
Khi chính sách đã được triển khai và thu được những kết quả ban đầu, là thời điểm cho phép tiến hành đánh giá tác động của chính sách ( tác động về chính trị, kinh tế, tài chính, xã hội (vùng, miền, lãnh thổ), mơi trường...). Là cơng cụ quản lý có liên quan mất thiết đến sự vận động có định hướng của cả hệ thống,
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">tác động của chính sách cơng có những đặc trương là tính cộng đồng và tính mục tiêu. Một điểm cần lưu ý là: Khi đánh giá nếu chúng ta phát hiện kết quả của chính sách chưa đạt thì chưa nên vội đưa ra kết luận, mà cần xem xét quá trình triển khai chính sách có sai sót gì khơng. Như vậy, trước khi đánh giá quyết định chính sách phải đánh gia việc triển khai. Chỉ trong trường hợp phát hiện rằng việc triển khai tiến hành tốt mà kết quả chưa đạt yêu cầu, lúc ấy phải xem xét lại quyết định chính sách và xác định những gì phải thay đổi so với quyết định ban đầu. Trong trường hợp đánh giá các tác động có kết luận cho rằng những mong muốn thay đổi đã được thực hiện, các nhà hoăchj định chính sách cần phải thận trọng với những thay đổi mới. Mọi chính sách được thơng qua đều có thể thay đổi, nhưng những sáng kiến đã được thực hiện thì khơng cần thiết thay đổi hay điều chỉnh quá nhiều.
Tiêu chuẩn để đánh giá tác động của chính sách cũng chính là các tiêu chuẩn để phân tích chính sách trong giai đoạn soạn thảo. Sự khác biệt chỉ ở chỗ: Những tiêu chuẩn này được áp dụng trong giai đoạn đầu để đánh giá tình phù hợp của chính sách vừa ban hành, cịn trong giai đoạn sau, chúng được sử dụng để đánh giá những tác động cụ thể của chính sách. Những tiểu chuẩn chủ yếu đánh giá chính sách là: (1) Kết quả đạt được có đúng mong muốn hay khơng? (2) tài chính có đáp ứng cho việc thực hiện chính sách hay khơng? (3) Chính sách có khả thi khơng?
<b>2, Các tiêu chí đánh giá chính sánh cơng.</b>
Tiêu chí là thước đo, chuẩn mực đặt ra trong từng điều kiện và hồn cảnh cụ thể, làm cơng cụ để phân tích, đánh giá lựa chọn các phương án và giải pháp chính sách. Đánh giá chính sách là việc xem xét, nhận định về giá trị kết quả của thực hiện
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">chính sách. Vì vậy, phải dựa vào thước đo nhất định hay cịn gọi là những tiêu chí đánh giá chính sách gồm những tiêu chí xã hội và tiêu chí chính trị. Trong hai mặt đó, khó có thể khẳng định được tiêu chí nào tốt hơn và trội hơn bởi vì một chính sách có thể có lợi về mặt chính trị, nhưng hiểu quả xã hội có thể khơng cao và ngược lại. Xác định các tiêu chí đánh giá chính sách là cơng việc khó khăn và thường xuyên gây nhiều tranh cãi, bởi vì cùng một kết quả thực hiện có thể nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau. Song nhìn chung, tiêu chí đánh giá chính sách phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Tính khoa học: Tiêu chuẩn đánh giá chính sách phản ánh một cách chân thực và khoa học quy luật khách quan của sự vật, vừa phải phù hợp với tính tổng thể, vừa phải đáp ứng tính đặc thù của hệ thống. Các tiêu chuẩn đánh giá cũng phải được quy phạm hóa.
- Tính khách quan: Đối với những tiêu chuẩn có thể định lượng được thì cần định lượng. Đối với những tiêu chuẩn có thể khơng thể lược hóa thì nên cơng khai để cơng chúng đánh giá.
- Tính so sánh: Để so sánh, đánh giá các kết quả của một chính sách hoặc giữa các chính sách với nhau, cần phải có thước đo chung. Vì vậy, tiêu chuẩn đánh giá phải là những chuẩn mực chung.
- Tính phương phướng: Tiêu chuẩn đánh giá phải thể hiện phương hướng cải cách và phát triển của xã hội. Vì vậy, những tiêu chí và chỉ tiêu cụ thể phải được đặt trong sự so sánh với các tiêu chí, chỉ tiêu quốc tế.
- Tính chuẩn xác: Tiêu chuẩn đánh giá phải phù hợp với thực tế, không được cao quá, cũng không được quá thấp. Phải kết hợp
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">chặt chẽ giữa tính nguyên tắc và tính linh hoạt, giữa các chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính.
2.1 Tính hiệu lực của chính sách cơng.
Là tiêu chí phản ánh mức độ tác động, làm biến đổi hoặc duy trì tồn tại xã hội của chính sách đó trên thực tế theo mong muốn của Chính phủ. Hiểu theo nghĩa thơng thường thì hiệu quả của chính sách là những tác động hiện hữu của chính sách gây ra. Tính hiện hữu là thuộc tính tồn tại của chính sách, phản ánh sự tác động của chính sách lên các đối tượng của nó. Được xác định bằng bằng mốc thời gian bắt đầu phát sinh tác dụng (kể cả tác hại) của chính sách. Đánh giá hiệu lực của chính sách là trả lời cho câu hỏi: Chính sách có đạt được các kết quả có giá trị hay khơng?
Hiệu lực của một chính sách gồm hiệu lực lý thuyết và hiệu lực thực tế. Hiệu lực lý thuyết là hiệu lực được nhà nước công nhận để đưa chính sách vào vận hành trong cuộc sống. Hiệu lực thực tế là hiệu lực có được khi chính sách tác động đến thực tế, làm biến đổi thực tế theo mong muốn của Chính phủ. Chính sách chỉ đạt được hiệu lực thực tế khi nó được áp dụng và đem lại những kết quả nhất định. Như vậy, hiệu lực lý thuyết của một chính sách khơng trùng khớp với hiệu lực thực tế của nó. Hiệu lực của một chính sách cao hay thấp chủ yếu lệ thuộc vào hiệu lực thực tế của chính sách là tốt hay xấu, bởi vì đối với nhân dân, kết quả thực thế của chính sách quan trọng hơn ý định ban đầu của chính sách đó. Song, một chính sách chỉ đạt được hiệu lực thực tế tốt đẹp nếu nó được ban hành đúng đắn về lý thuyết. Trên thực tế, cũng có trường hợp một chính sách có hiệu lực lý thuyết nhưng khơng đạt được hiệu lực thực tế (do những thiếu sót, khó khăn gặp phải trong quá trình thực hiện). Song, cũng khó có thể
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">khẳng định một chính sách thất bại trên thực tế lại hoàn toàn đúng đắn về lý thuyết. Chính sách chỉ có thể được coi là đúng đắn về lý thuyết khi nó được hoạch định sát hợp với thực tiễn. Như vậy, hiệu lực của một chính sách phản ánh tính đúng đắn cả về lý thuyết cũng như hoạt động thực thế và là kết quả tác động tổng hợp của cả hiệu lực lý thuyết cũng như hiệu lực thực tế.
Trên thực tế, hiện tượng kém hiệu lực hay không hiệu lực của một chính sách thường bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:
- Một là, những nguyên nhân khách quan: Các chính sách ra đời, phát huy tác dụng và suy giảm hiệu lực theo quy luật vịng đời của chính sách. Thơng thường, các chính sách đều phải trải qua 4 giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu (đưa chính sách vài thực hiện): Do mới ra đời, chính sách ít được xã hội hưởng ứng và gặp nhiều trở ngại do nhiều nguyên nhân (do mới la, do quan hệ lợi ích thay đổi, những người thực thi chính sách chưa đủ hiểu biết và kinh nghiệm hay chính sách có thể thiếu sót) nên trong giai đoạn này, nên trong giai đoạn này chính sách có thể chua có hiệu lực rõ ràng ( vô hiệu trong gia đoạn đầu).
+ Giai đoạn 2 (giai đoạn hiệu quả và hiệu lực): Sau một thời gian nhất định, mọi người dần hiểu và đồng tình với chính sách. Mặc khác, bản thân chính sách cũng từng bước được hoàn thiện, nên trong giai đoạn này chính sách phát huy được hiệu quae theo mong muốn của các nhà hoạch định chính sách.
+ Giai đoạn 3 (giai đoạn hiệu lực giảm): Do chính sách trở nên quen thuộc với những người thực thi và do những thay đổi của xã hội nên tác động của chính sách suy giảm. Vì vậy, trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">giai đoạn này thực thi chính sách phải có những hình thức mới thích hợp, nếu khơng sẽ trở nên lỗi thời (vô hiệu ngẫu nhiên).
+ Giai đoạn 4 (giai đoạn lạc hậu): Do điều kiện khách quan, chính sách trở nên lõa hóa, gần như mất hết hiệu lực, nó đã làm xong nhiệm vụ của mình và địi hỏi phải được điều chỉnh hoặc xây dựng chính sách mới thích hợp với điều kiện mới (vơ hiệu trong giai đoạn cuối).
Như vậy , hiện tượng vô hiệu trong quá trình thực hiện chính sách có tính quy luật và tính chu kỳ nhất định . Do đó , nếu trong giai đoạn đầu nếu chính sách tỏ ra kém hiệu quả thì chúng ta cũng khơng nên hoang mang mà cần phân tích ngun nhân để tìm cách giải quyết thích hợp .
- Hai là , những nguyên nhân chủ quan:
Ngoài những nguyên nhân khách quan, hiện tượng vơ hiệu của các chính sách cịn có thể do các nguyên nhân chủ quan sau :
+ Các chính sách khơng đem lại lợi ích thiết thực cho xã hội. Do ý thức chủ quan của một số nhà lãnh đạo hoặc tư vấn tối của đội ngũ viên chức giúp việc cho các nhà lãnh đạo khi đề ra chính sách. Chính sách được đề ra không đủ các điều kiện thực thi (kinh phí , nhân sự , tổ chức và kinh nghiệm cần thiết) hoặc nó được đưa ra tùy tiện cùng một lúc hàng loạt chính sách .
+ “Độ nhờn chính sách”: là ấn tượng xấu của nhân dân trong việc thực hiện các chính sách trong quá khứ. Do trước đó, nhiều chính sách được ban hành thường bị “chìm vào bóng tối”, khơng có sự đánh giá, phán xét nghiệm minh hoặc không được
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">thực hiện đến nơi đến chốn, hiệu quả xấu là tạo ra một sự “khinh nhờn” của nhân dân trước các chính sách của nhà nước. Người ta khơng tin vào các chính sách mới ban hành và cho rằng nó sẽ giống mọi chính sách trước đó. Vì thế, các chính sách vừa ra đời đã bị mất hiệu lực một cách “vơ hình”.
+ Các lực lượng chống đối chính sách quá mạnh mà nhà nước lại khơng đủ năng lực để đối phó, xử lý .
+ Kỷ cương, pháp luật khơng nghiêm: chính sách đưa mà đối tượng thực hiện lại chống đối hoặc không thực hiện nhưng không bị xử lý nghiêm minh (khơng bị trừng phạt, hoặc trừng phạt chỉ mang tính hình thức).
Điều đó cho thấy, khả năng thành cơng hay thất bại của một chính sách phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, địi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải biết phân tích, lựa chọn phương án tối ưu để thực hiện chính sách đó. Để đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu đã định, cần nghiên cứu, tìm biện pháp khống chế mức độ vơ hiệu của chính sách .
Đánh giá tính hiệu lực của chính sách địi hỏi nhiều thơng tin và phương pháp tiến hành phức tạp, song nó rất có ích đối với các nhà hoạch định chính sách để cân nhắc việc duy trì hoặc thay đổi một chính sách hiện hành.
2.2 Tính hiệu quả của chính sách cơng.
Hiệu quả của chính sách được xem xét ở mức độ đạt tới mục tiêu và thành cơng của một chính sách. Đánh giá hiệu quả chính sách là sự trả lời cho câu hỏi: Cần bao nhiêu nỗ lực để đạt được các kết quả có giá trị?
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Tính hiệu quả của một chính sách phản ánh tương quan so sánh các kết quả đạt được của chính sách so với những chi phí và cơng sức đã bỏ ra để đạt kết quả đó. Đánh giá hiệu quả chính sách là sự phối hợp các phân tích riêng lẻ các yếu tố chi phí và lợi ích trong suốt vòng đời chính sách để xác định kết quả tổng hợp. Vì vậy, để đánh giá xác thực về hiệu quả của chính sách, yêu cầu trước hết là phải cụ thể và chi tiết hoá được các yếu tố liên quan đến chi phí và lợi ích của chính sách đó.
Cần lưu ý rằng, hiểu quả của chính sách khơng phải chỉ tính một lần, mà nó cịn được tính trong suốt qng thời gian chính sách phát huy hiệu lực (lợi ích,tác hại) theo quy luật vịng đời của chính sách, do đó nó phải được tính thơng qua một tổng kết quả chung.
Về nguyên tắc, khi đánh giá hiệu quả của một chính sách người ta phải xác định hiệu quả tổng hợp của chính sách. Đó là
</div>