Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Luận văn: "Chính sách tiền tệ và tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến 2000" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.93 KB, 46 trang )


0













Luận văn: "Chính sách tiền tệ và tình
hình thực hiện chính sách tiền tệ ở
Việt Nam trong giai đoạn từ 1986 đến
2000"


1

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 0
PHẦN I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 5
I. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 5
I.1. Khái niệm và vai trò của chính sách tiền tệ 5
I.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 6
I.3. Nội dung của chính sách tiền tệ 10


II. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 12
II.1. Các công cụ trực tiếp 12
II.2. Các công cụ gián tiếp 15
II.3. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới 20
PHẦN II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM TỪ
1986-2000. 22
I. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM( TỪ 1986 – 2000) 22
II. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 23
II.1. Giai đoạn 1986 - 1988 23
II.2. Giai đoạn 1989 - 1991 23
II.3. Giai đoạn 1992 - 1995 24
II.4. Giai đọan 1996 - 2000 25
III. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC DO VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC THI
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ ĐÚNG HƯỚNG PHÙ HỢP VỚI DIỄN BIẾN CỦA NỀN
KINH TẾ 27
III.1. Về chính sách lãi suất 28
III.2. Về chính sách tỷ giá 28
III.3. Về thị trường tín dụng. 29
III.4. Về thị trường tài chính thứ cấp. 29
III.5. Vềviệc kiềm chế lạm phát và ổn định sức mua đồng VNĐ. 30
IV. NHỮNG TỒN TẠI TRONG SỬ DỤNG CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở
VIỆT NAM VÀ NGUYÊN NHÂN 31
IV.1. Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành 32
IV.2. Những tồn tại trong tái cấp vốn và kiểm soát lượng tiền cung ứng 33
IV.3. Những tồn tại trong quy chế dự trữ bắt buộc 33
PHẦN III: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. 35
I. CẢI CÁCH QUY CHẾ DỰ TRỮ BẮT BUỘC SAO CHO PHÙ HỢP VỚI MÔI
TRƯỜNG VÀ MỤC ĐÍCH KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG

MẠI. 36
II. PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞPHÙ HỢP VỚI QUY MÔ NỀN
KINH TẾ: 37
III. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VÀ ĐIỀU HÀNH CUNG ỨNG TIỀN TỆ
MỘT CÁCH HỢP LÝ: 38
III.1. Cải cách đối với ngân hàng trung ương: 39
III.2. Cải cách đối với NHTM 40


2

IV. PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ GIỮA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VỚI CÁC CHÍNH
SÁCH VĨ MÔ KHÁC: 42
IV.1. Ngân sách nhà nước: 42
IV.2. Hoàn thiện quy chế pháp lý: 42
IV.3. Phối hợp đồng bộ CSTT với chính sách kinh tế vĩ mô khác: 43
KẾT LUẬN 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 45

























3



LỜI NÓI ĐẦU
Đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, phát triển
và tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu quốc gia. Trong khi nền kinh tế phát
triển thấp, tích luỹ từ nội bộ không nhiều, các nguồn lực của nền kinh tế chưa có
điều kiện khai thác thì việc hỗ trợ của dòng vốn từ bên ngoài là rất cần thiết và
đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, để có thể thu hút
dòng vốn từ bên ngoài đòi hỏi chúng ta phải thực thi hàng loạt chính sách kinh
tế có liên quan, nhằm tạo môi trường cho dòng vốn được lưu chuyển dưới tác
động của cung cầu tiền tệ trên thị trường.
Bởi vì tiền tệ là vấn đề rất nhạy cảm, việc thực thi chính sách tiền tệ không
những tác động đến tình trạng của nền kinh tế quốc gia mà còn ảnh hưởng đến
các nước khác do xu thế toàn cầu hoá, khu vực hóa nền kinh tế thế giới. Mặt
khác, việc thực thi chính sách tiền tệ rất đa dạng, phần lớn tuỳ vào quan điểm
của các nhà lãnh đạo, tuy nhiên, cho dù thế nào đi nữa thì những gì đúc kết từ

thực tiễn điều hành chính sách vẫn là cơ sở quan trọng cho việc định hướng,
hoàn thiện về sau. Trên tinh thần đó, việc nghiên cứu, tổng kết việc thực thi
chính sách tiền tệ trong thời gian qua là điều đáng quan tâm.
Bước vào thế kỉ 21, Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng KT &công
bằng XH, vì vậy việc lựa chọn giaỉ pháp nào để xây dựng &điêù hành chính
sách tiền tệ quốc gia có hiệu quả nhất vẫn là 1 vấn đề khó khăn,phức tạp.
Qua quá trình học tập &rèn luyện môn Lý thuyết tài chính tiền tệ, được sự
hướng dẫn của các thầy cô giáo khoa Ngân hàng tài chính, em xin mạnh dạn
trình bày Đề án môn học lý thuyết tài chính tiền tệ với đề tài “Chính sách tiền tệ
và tình hình thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1986
đến 2000”.
Đề án này bao gồm các phần:
Phần I :Chính sách tiền tệ
Phần II : Thực trạng chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ 1986-2000.


4

PhầnIII:Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.


5


PHẦN I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
I. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
I.1. Khái niệm và vai trò của chính sách tiền tệ.
Cũng như chính sách tài chính, chính sách tiền tệ là một trong hai công cụ
quan trọng chủ yếu trong hệ thống các công cụ chính sách kinh tế của nhà nước
để điều hành vĩ mô đối với nền kinh tế.

Theo điều 2 của luật Ngân hàng nhà nước Việt nam (10-1997) thì: “ Chính
sách tiền tệ là một bộ phận của chính sách kinh tế – tài chính của nhà nước nhằm
ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân”. Với
chính sách này, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động của Ngân hàng,
động viên các nguồn lực trong nước, đồng thời tranh thủ các nguồn lực từ bên
ngoài, tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, giữ vững chủ quyền
quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế-xã hội.
Tại mỗi một quốc gia, với tư cách là thiết chế đầu não của toàn bộ hệ thống
tài chính& ngân hàng, NHTW là cơ quan chủ chốt, thiết kế và quyết định chính
sách tiền tệ. Dù với tên gọi khác nhau (NHTW, NHNN, Hệ thống dự trữ lên
bang ), nhưng tất cả chúng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy
quản lý Nhà nước, độc quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn
định giá trị tiền tệ, thiết lập trật tự, bảo dảm sự hoạt động an toàn và ổn định và
hiệu quả của toàn bộ hệ thống ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ
mô của mỗi đất nước.
Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm, của
NHNW trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTW trong
nền kinh tế thị trường mang tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức tín dụng
vào thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời vẫn đảm bảo tính tự


6

chủ trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTW thường không
can thiệp và không ra lệnh trực tiếp vào các quyết địng tác nghiệp của các tổ
chức tín dụng mà chủ yếu sử dụng các biện pháp tác động gián tiếp để điều
chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh của các tổ chức tín dụng như: khả
năng thanh toán, lãi suất chiết khấu, dự trữ, khối lượng tiền cung ứng, tỷ giá để

thông qua đó đạt tối mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Để điều hành chính sách tiền tệ, NHTW phải hình thành và sử dụng hệ
thống công cụ của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho
NHTW khả năng tác động có hiệu lực đến các yếu tố tiền đề buộc các tổ chức
tín dụng phải tự điều chỉnh hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTW
nhưng vẫn phải đảm bảo quyền tự chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng
trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng.
I.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Bất kỳ một chính sách kinh tế- xã hội nào cũng có những mục tiêu của nó,
chính sách tiền tệ không nằm ngoài quy luật đó. Đối với chính sách tiền tệ có 6
mục tiêu cơ bản thường xuyên được nhắc đến, đó là:
- Giải quyết việc làm
- Tăng trưởng kinh tế
- ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát.
- ổn định lãi suất.
- ổn định thị trường tài chính
- ổn định thị trường ngoại hối
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, đồi với từng quốc gia thì việc đề ra chính
sách tiền tệ cũng có những điểm khác biệt.
I.2.1. Công ăn việc làm cao.
Việc làm cao là một mục tiêu có giá trị bởi 2 lý do chính:


7

-Trường hợp ngược lại, thất nghiệp cao gây ra gánh nặng tài chính cho gia
đình và toàn thể XH.
-Khi thất nghiệp cao, nền KT không những có nhiều lao động ngồi không
mà còn có những nguồn tài nguyên để không,gây lãng phí& không làm tăng
được sản lượng tiềm năng của quốc gia.

Mục tiêu của việc làm cao do đó không phai là một con số không thất
nghiệp mà là một mức trên số không phù hợp với việc làm đầyđủ mà tại đó cầu
lao động bằng với cung lao động.Người ta gọi đó là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm phụ thuộc chủ yếu vào tình hình tăng
trưởng KT.Tuỳ theo tình hình đó mà NHTW phảivận dụng các công cụ của
mình góp phần tăng cường mở rộng đằu tư sản xuất kinh doanh,đồng thời tham
gia tích cực vào sự tăng trưởng liên tục và ổn định,khống chế tỷ lệ thất nghiệp
không tăng quá mức tự nhiên.
I.2.2. Tăng trưởng KT.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm
cao.Các chính sách có thể tập trung vào kích thích đầu tư vào sx kinh doanh.
Tăng trưởng KT là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của chính sách
tiền tệ. Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng& thanh toán trong nền kinh tế
quốc dân, NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này.
NHNN Việt Nam cần bằng mọi phương thức để có thể huy dộng được hầu hết
các nguồn vốn nhàn rỗi trong và ngoài nước để phục vụ cho mục tiêu này.Mục
tiêu từ năm 2000 trở đi tốc độ tăng trưởng hàng năm phải đạt từ 9-!0%. Đó là
mức tăng trưởng cao đòi hỏi sự gia tăng đầu tư hàng năm hàng chục tỷ USD.
I.2.3. Về ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát.
Khi giá cả ổn định, lạm phát ở mức thấp thu nhập thực tế của người dân
được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện, đầu tư cho nền KT cũng được
đảm bảo, tăng trưởng KT thực dương.
Ngược lại, khi lạm phát ở mức cao,thu nhập của người dân bấp bênh, nguy
cơ khủng hoảng KT cao.


8

Chính vì vậy mà mục tiêu này được xem là một trong những mục tiêu quan
trọng nhất trong CSTT. Mục tiêu tăng trưởng KT luôn luôn gắn liền với mục

tiêu ổn định giá cả kiềm chế lạm phát.
I.2.4. Mục tiêu ổn định lãi suất:
Tất cả các quốc gia đều mong muốn một sự ổ định về lãi suất.Vì lãi suất có
ảnh hưởng lớn đến đầu tư và tăng trưởng,ảnh hưởng đến các luồng vốn,ngoại
tệ Chính vì thế, ổn định lãi suất tạo ra thế ổn định cho các lĩnh vực như tín
dụng, đầu tư, sự di chuyển vốn dẫn đến ổn định chung cho nền KT.
Lãi suất chính là một trong những công cụ quan trọng nhất của CSTT. Để
cho nền KT được ổn định đòi hỏi CSTT phải đưa ra một hệ thống lãi suất mềm
dẻo đúng đắn,phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.
I.2.5.Về ổn định thị trường tài chính:
Việc tạo ra một nền tảng tài chính ổn định để hệ thống NH& các tổ chức tín
dụng có thể hoạt động một cách có hiệu quả và hỗ trợ một cách tốt nhất cho tăng
trưởng KT cao,lạm phát thấp, cũng như hạn chế những khuyết tật của hệ thống
tài chính là mục tiêu chủ đạo của chính sách tiền tệ. NHTW phải điều hoà hoạt
động của hệ thống TC trong nước một cách gián tiếp,tăng cường hiệu quả cho
nó.
Bản thân hệ thống TC cũng có những mục tiêu riêng của nó và nhiều khi
những mục tiêu này lại đối chọi với các mục tiêu chung của nền KT. Do đó vai
trò của CSTT là làm hài hoà một cách tối ưu giữa các mục tiêu trên,để phục vụ
tốt nhất cho lợi ích chung của nền KT mà không làm tổn hại hay hạn chế sự phát
triển của hệ thống TC.
I.2.6. Mục tiêu ổn định thị trường ngoại hối:
Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia,NHTW thực hiện cấ
nhiệm vụ giao dịch về TC và Tiền tệ đối ngoại bằng các phương diện: quản lý
ngoại hối,lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các
nghiệp vụ hối đoái. Tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước, xây
dựng và thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối của đất nước,tiến hành kinh doanh


9


ngoại hối trên thị trường ngoại hối quốc tế.Cần thiết lập mối quan hệ với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm các nguồn vốn có thể huy động
được(viện trợ,vay nợ,vay ưu đãi,thu hút đầu tư,thu hút kiều hối ).
Chính sách tiền tệ góp phần nhiều vào việc thực hiện các mục tiêu trên lại
mâu thuẫn nhau. cụ thể chỉ có thể đạt được một mục tiêu khi chấp nhận sự cắt
giảm nhất định đối với mục tiêu khác. Chẳng hạn muốn kiềm chế lạm phát thì sẽ
phải chấp nhận nạn thất nghiệp tăng lên Vì vậy tuỳ theo việc hướng vào mục
tiêu nào là chính mà người ta có thể coi chính sách tiền tệ là chính sách ổn định
giá cả, chính sách tạo việc làm, chính sách cân bằng cán cân thanh toán hay
chính sách tăng trưởng kinh tế.
Để đạt được những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ NHTW phải
xác định các mục tiêu trung gian. Bởi lẽ NHTW sử dụng các mục tiêu trung gian
để có thể xét đoán nhanh chóng được tình hình hoạt đoọng của mình phục vụ
cho các mục tiêu cuối cùng, hơn là chờ cho đến khi thấy được kết quả cuối cùng
của các mục tiêu đó. Mục tiêu trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi
phối dòng tiền chu chuyển và khối lượng tiền.Tuỳ theo đIều kiện cụ thể của từng
nước mà các khối tiền tệ có thể là M1, M2, M3.
I.1.7. Quan hệ giữa các mục tiêu.
Mặc dù đều là các mục tiêu của các chính sách tiền tệ nhưng không phải
lúc nào các mục tiêu trên cũng nhất trí với nhau, đặc biệt là trong dài hạn.
.
Trước hết, việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt, lãi suất tăng lên làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu và do
đó đến tổng cầu của nền kinh tế. Thất nghiệp vì thế có xu hướng tăng lên. Mặt
khác, việc duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn thường kéo theo chính sách tiền
tệ mở rộng và sự tăng giá.
Thứ hai, mục tiêu công ăn việc làm mâu thuẫn với mục tiêu ổn định giá cả
còn thể hiện thông qua sự phản ứng của Ngân hàng trung ương đối với các cú
shock cung nhăm đảm bảo mức cầu tiền thực tế, kết quả là giá tăng lên.




10

Thứ ba, mâu thuẫn này còn được thể hiện thông qua định hướng điều chỉnh
tỷgiá: bằng việc hạ giá đồng bản tệ các ngành công nghiệp xuất khẩu có khả
năng mở rộng. Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm thấp kèm theo sự tăng lên của mức
giá chung. Như vậy, việc duy trì một mức tỷ giá ổn định và thích hợp sẽ làm
giảm tỷ lệ việc làm, trong khi một mức tỷ giá cao hơn sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ
đó.
I.3. Nội dung của chính sách tiền tệ.
Xét cho cùng NHTW có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với
tình hình thực tiễn của nền kinh tế:
- Chính sách mở rộng tiền tệ: là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế
nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuát tạo công ăn việc làm.
Chính sách này được đưa ra trong trường hợp nền KT trì trệ,tăng trưởng
thấp.Nó tạo ra không khí tiêu dùng mạnh mẽ kích thích đầu tư và tăng trưởng
KT.
- Chính sách thắt chặt tiền tệ: là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế
nhằm khuyến khích đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế và
kiềm chế lạm phát. Chính sách này được đưa ra nhằm ngăn trặn tình trạng phát
triển quá nóng của nền KT. Nó tạo ra sự khan hiếm về tiền, sự đắt đỏ về chi phí,
làm giảm tốc độ tăng trưởng quá nhanh, tạo ra một sự phát triển bền vững.
Trong nền KT thị trường, CSTT bao gồm 3 thành phần cơ bản gắn liền với
3 kênh dẩn nhập tiền vào lưu thông. Đó là:
+Chính sách tín dụng
+Chính sách ngoại hối
+Chính sách đối với ngân sách nhà nước
a. Chính sách tín dụng:

Thực chất CSTD là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc
dân, thông qua các nghiệp vụ ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập


11

từ các nguồn tiền gửi của XH và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp
với sự vận động của cơ chế thị trường.
b. Chính sách ngoại hối:
Nhằm đảm bảo việc sử dụng co hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán
đối ngoạiphục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng KT bền vững và
gia tăng việc làm trong xã hội,đảm bảo chủ quyền tiềntệ của đất nước.
c. Chính sách đối với ngân sách nhà nước:
Nhằm đảm bảo phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hợp
Ngân sách nhà nước bị thiếu hụt. Phương thức tối ưu là NHTW cho ngân sách
nhà nước vay theokỳ hạn nhất định, Dần dần tiến tới loạI bỏ hoàn toàn phát hành
tiền để bù đắp thiếu hụt ngân sách.
Ngân sách nhà nước có thể ở ba trạng thái,đó là thâm hụt ngân sách, cân
bằng ngân sách & thặng dư ngân sách.
- Trong trường hợp NSNN bị thiếu hụt, chênh lệch giữa thu và chi ngân
sách sẽ có những tác dụng khác nhau đến nền KT, tuỳ theo các tác động đó mà
có các cách thức để giảm bớt sự thiếu hụt:
Một làvay dân cư ;
Hai là vay từ hệ thống tín dụng và thị trường TC trong nước;
Ba là vay NHNN;
Bốn là vay nước ngoài;
Việc vay của NHTW& vay nước ngoài sẽ làm tăng mạnh khối tiền tệ gây
ra các áp lực tiềm tàng về sau. Vay của dân cư& của các NHTM trong nước sẽ
làm cho các nguy cơ trên giảm đi. Hiện nay, áp lực lạm phát tại các nước đang&
kém phát triển cao hơn so với các nước phát triển do họ bù đắp thâm hụt ngân

sách chủ yếu bằng các biện pháp phát hành tiền& vay nợ nước ngoài.
- Trong trường hợp NSNN cân bằng, khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra
khỏi lưu thông một lượng tiền và chi tiêu trở lại số tiền đó vào bộ may kinh
tế.khối lượng tiền không thay đổi vì nó được tăng giảm một lượng như nhau.Tuy


12

nhiên, nó có thể làm thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chẳng hạn nếu
tầng lớp chịu thuế không giảm tiêu thụ mà giảm tiết kiệm, trong khi đó CP phải
dùng số thuế thu được trợ cấp cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ
chung lạI gia tăng, số đầu tư giảm và kết quả là làm tăng khả năng tăng vật giá.
Nêú Nhà nước dùng số chi ngân sách để đầu tư của nhà nước tăng lên, đầu tư
chung không đổi, lưu ý hai trường hợp:
Thứ nhất, nếu CSTT chống lạm phát,ngân sách thăng bằng vãn có thể tác
dụng ngược với CSTT chống suy thoái.
Thứ hai, Trường hợp CSTT nhằm chống suy thoái, Ngân sách cân bằng
vẫn có thể chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái
bằng cách làm tăng mức tiêu thụ.
- Trường hợp NS thặng dư: Đây là trường hợp rất có lợi vì nó rút bớt khối
tiền tệ dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu.
Để thực hiện tốt các mục tiêu và nội dung như đã nêu ở trên, bản thân
CSTT phải sử dụng một cách có hiệu quả nhất các công cụ mà nó có được. Các
công cụ đó bao gồm cả các ưu và nhược đIúm.Vì vậy trong khi sử dụng cần hết
sức lưu ý,tránh tình trạng quá đà không kiểm soát nổi để chúng gây phản tác
dụng, gây ra những hậu quả khó lường đối với nền KT.
II. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Công cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp hoặc
gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó mà đạt được các
mục tiêu của chính sách tiền tệ.

II.1. Các công cụ trực tiếp.
Các công cụ sau được gọi là các công cụ trực tiếp bởi vì thông qua chúng,
NHNN có thể tác động trực tiếp tới khối lượng tiền trong lưu thông mà không
cần phải thông qua các công cụ khác.Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến ở
các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ là hạ mức tín
dụng.


13

II.1.1 Hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng trung ương buộc các
tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ
được quy định cho từng Ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của nó ( cơ
cấu khách hàng, mức rủi ro), định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ
các đối tượng chính sách và nó phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng
dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm
khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng. Trong trường hợp
các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát
triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với sự biến động của lãi suất hay
Ngân hàng trung ương không có khả năng không chế và kiểm soát được sự biến
động của lượng vốn khả dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại thì hạn mức
tín dụng là cứu cánh của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết lượng tiền
cung ứng.
Tuy nhiên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính
linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng
do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại.
II.1.2. Lãi suất tiền gửi và cho vay.

Lãi suất là con át chủ bài tác động đến đầu tư và tiêu dùng là hành lang mà
từ đó những sự thay đổi trong cung ứng tiền dẫn đến sự thay đổi trong kinh tế vĩ
mô.
NHTW có thể qui định khung lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường
nhưng thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ
thu hút được nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay, ngược lại sẽ làm giảm khả
năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lương cho vay, NHTW
giảm mức lãi suất cho vay để kich thích các nhá đầu tư vay vốn, khi cần hạn chế
đầu tư NHTW sẽ ấn định mức lãi suất cao.


14

Tuy nhiên, biện pháp này làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt
trong kinh doanh. Mặt khác, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở Ngân hàng,
nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền để dự trữ vàng,
ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng bị thiếu hụt về tiền mặt cũng như
nguồn cho vay.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp Ngân hàng lựa chọn những dự án kinh tế
tối ưu để cho vay, loạI bỏ các dự án kém hiệu quả nhưng nó cũng làm cho tính
linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các NHTM bị động trong kinh
doanh. Ngày nay biện pháp này ít được sử dụng ở các nước theo cơ chế thị
trường bởi trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được
vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
II.1.3. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và đầu tư, phát hành trái
phiếu:
Như đã xét ở trên, khi NSNN bị thiếu hụt thì một trong các biện pháp giải
quyết đó là phát hành tiền. Rõ ràng là biện pháp này làm tăng lượng tiền trong
lưu thông, trong khi lượng hàng hoá không tăng hoặc tăng không kịp dãn đến
hậu quả tất yếu là lạm phát. Chính vì vậy mà công cụ nay hoàn toàn không nên

sử dụng.
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể thông qua con đường NSNN hoặc là
bằng con đường tín dụng ngân hàng.Biện pháp này còn được gọi là biện pháp
ứng trước cho sản xuất,là một biện pháp tốt trong trường hợp nền KT suy
thoái,dư thừa tiềm năng.Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, khơi dậy các tiềm
năng về tài nguyên và con người.
Trong điều kiện các biện pháp khác không thuận lợi, Nhà nước muốn làm
giảm lượng tiền trong lưu thông, có htể phát hành một lượng nhất định trái
phiếu CP để thu hút khối lượng tiền trong lưu thông.
Bên cạnh các công cụ trực tiếp trên, CSTT còn bao gồm các công cụ gián
tiếp tác động đến cung cầu tiền tệ thông qua các tác động của thị trường tiền tệ.


15

II.2. Các công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác đông trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính
sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các
mục tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Thuộc về nhóm
công cụ này bao gồm:
II.2.1.Dự trữ bắt buộc
II.2.1.1. Khái niệm và nội dung:
Dự trữ bắt buộc là số tiền các ngân hàng thương mại buộc phải duy trì trên
một tài khoản tiền gửi không hưởng lãi tại Ngân hàng trung ương. Nó được xác
định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng
thời gian nào đó. Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời
hạn tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của ngân hàng thương mại
Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc:
Việc thay đổi dự trữ bắt buộc và do đó mức dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến
lượng tiền cung ứng theo ba cách:

Thứ nhất: giả sử Ngân hàng trung ương quyết định tăng tỷ lệ bắt buộc từ
10% đến 12%, bộ phận dự trữ dư thừa trước đây giờ trở thành bắt buộc, làm
giảm khả năng cho vay của hệ thông Ngân hàng thương mại.
Thứ hai: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của công
thức tạo tiền. Vì thế sự tăng lên của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số tạo
tiền và do đó khả năng mở rộng tiền gửi của hệ thống Ngân hàng giảm.
Thứ ba: tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn Ngân hàng
trung ương trên thị trường liên Ngân hàng. Trong điều kiên nhu cầu vốn khả
dụng không thay đổi, sự sút giảm này làm tăng lãi suất liên Ngân hàng, từ đó mà
tác động đến các mức lãi suất dài hạn và khối lượng tiền cung ứng.
Quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây lên những ảnh hưởng ngược
lại. Thí dụ, bảng tổng kết tài sản của một ngân hàng trước khi có sự thay đổi tỷ
lệ dự trữ bắt buộc như phần a trong bảng sau:


16

a. tỷ lệ dự trữ bắt buộc: 10%
Tài sản có Tài sản nợ
Dự trữ: 100
Cho vay: 900
Tiền gửi: 1000
Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% và tiền gửi là 1000, ngân hàng giữ 100 cho
yêu cầu dự bắt buộc và có thể cho vay tối đa là 900.
b.tỷ lệ bắt buộc: 5%.
Tài sản có Tài sản nợ
Dự trữ: 100
+ Dự trữ bắt buộc: 50
+ Dự trữ vượt mức: 50
Tiền gửi: 1000

Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm xuống 5% như phần b, ngân hàng vẫn có
100 dự trữ, nhưng trong đó phần dự trữ vượt mức là 50. Đây là bộ phận ngân
hàng sẵn sàng cho vay, làm cho tổng số cho vay có thể lên đến 950. Điều này
xảy ra ở tất cả các ngân hàng và sự tác động qua lại giữa các ngân hàng sẽ tạo
lên sự thay đổi trong tổng số cho vay và tiền gửi của hệ thống ngân hàng bằng
bội số của sự thay đổi dự trữ ban đầu.
II.2.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của dự trữ bắt buộc:
Điểm lợi chính của công cụ này là nó tác động đến tất cả các ngân hàng
như nhau và có tác dụng đâỳ quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên khi dự
trữ bắt buộc không được trả lại, chúng tương đương với một khoản thuế và có
thể dẫn đến hiện tượng phi trung gian hoá. Mặt khác bự trữ bắt buộc thiếu tính
mềm dẻo bởi sẽ rất vất vả để thực hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng
tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc. Một điểm bất lợi khác nữa của việc
sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát việc cung ứng tiền tệ là việc tăng dự trữ
bắt buộc cói thể gây ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh khoản của các NHTM,
gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hành. Chính vì vậy công cụ dự trữ
bắt buộc thường không được khuyến khích và ít được sử dụng.


17

II. 2.2 Chính sách chiết khấu.
II.2.2.1. Nội dung của chính sách chiết khấu:
Chính sách chiết khấu là công cụ của chính sách tiền tệ, theo đó NHTW
cho các NHTM vay dưới nhiều hình thức tái chiét khấu tức là hình thức NHTW
tái cấp vốn cho các NHTM. Khi NHTW nâng lãi suất chiết khấu tức là hạn chế
cho vay đối với các NHTM, khả năng cho vay của các ngân hàng giảm lượng
tiền gửi giảm đồng nghĩa với việc lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi lãi
suất tái chiết khấu giảm, các ngân hàng kinh doanh sẽ có khả năng bành trướng
tín dụng do được lợi trong việc vay vốn của NHTW, bởi vậy NHTM sẵn sàng

hạ lãi suất khi cho các doanh nghiệp vay, kích thích đầu tư và sản lượng.
II.2.2.2. Hoạt động của cửa sổ chiết khấu:
Ngân hàng trung ương có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu bằng
hai cách: bằng cách tác động đến giá cả của khoản vay( lãi suất chiết khấu) hoặc
bằng cách tác động đến số lượng vay thông qua việc Ngân hàng trung ương
quản lý cửa sổ chiết khấu.
Thực tế cho thấy, lãi suất chiết khấu thường thấp hơn lãi suất thị trường,
do vậy nên đã khuyến khích rất nhiều Ngân hàng vay của Ngân hàng trung ương
với lãi suất thấp và dùng tiền vay đó cho vay lại hoặc mua chứng khoán với lãi
suất cao hơn. Các Ngân hàng được coi là không được phép kiếm lợi từ các
khoản vay chiết khấu và Ngân hàng trung ương cố gắng ngăn chặn tình hình này
bằng cách quy định các thể lệ cho từng Ngân hàng một tỉ lệ đó giới hạn các ngân
hàng này có thể được vay chiết khấu thường xuyên đến mức nào. Giới hạn đó
gọi là cửa sổ chiết khấu.
Nếu một ngân hàng thường vay đến cửa sổ chiết khấu quá nhiều, thì Ngân
hàng trung ương sau này sẽ không cấp các khoản vay đó nữa. Việc các ngân
hàng được đến các cửa sổ chiết khấu là một đặc ân chứ không phải là một quyền
hạn.
Ngân hàng phải chịu ba loại phí khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu:
- Phí lãi biểu thị bằng lãi suất chiết khấu.


18

- Phí về việc phải làm đúng theo các điều tra của Ngân hàng trung ương về
khả năng thanh toán của Ngân hàng khi đến vay tại cửa sổ chiết khấu.
- Phí về việc rất có thể bị từ chối cho vay chiết khấu bởi vì đến cửa sổ chiết
khấu quá thường xuyên.
II.2.2.3. Ưu và nhược điểm của chính sách chiết khấu.
Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi

chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương. Nó không chỉ điều tiết lượng tiền
cung ứng, mà còn thể hiện vai trò người cho vay cuối cùng đối với các tổ chức
tín dụng và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế.
Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên những
giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương
đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của qui luật cung cầu
thị trường. nó cũng giúp NHTW thực hiện vai trò là người vay cuối cùng nhằm
tránh khỏi những cuộc sụp đổ tài chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc
biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc
khủng hoảng ngân hàng bởi vì dự trữ lập tức được điều đến các ngân hàng nào
cần thêm dự trữ hơn cả. Chính sách chiết khấu có tác dụng thông báo ý định của
NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai.
Việc sử dụng biện pháp này đôi khi cũng không đạt hiệu quả bởi vì nó có
hai nhược điểm chính sau: thứ nhất, ở vào nghiệp vụ này NHTW ở vào thế bị
động, NHTW có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu nhưng không thể bắt các
NHTM phải đi vay; thứ hai khi NHTW ấn định mức lãi suất chiết khấu tại một
mức đặc biệt nào đấy sẽ xảy ra những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi
suất chiết khấu và lãi suất thị trường vì lãi suất vay thay đổi, dẫn đến những thay
đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó trong cung ứng
tiền tệ, NHTW khó có thể đảo ngược những thay đổi trong lãi suất chiết khấu.
II.2.3.Nghiệp vụ thị trường mở
II.2.3.1. Khái niệm và nội dung:


19

Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các
chứng khoán có giá, mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước, nhằm làm thay
đổi lượng tiền cung ứng. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận
nghiệp vụ thị trường mở của mình với tín phiếu kho bạc là vì, thị trường tín

phiếu kho bạc có dung lượng lớn, tính lỏng cao, rủi ro thấp.
Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các NHTM với lãi suất hấp dẫn,
NHTW thu hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, đồng thời khả
năng cho vay của các NHTM cũng giảm và già trị tín dụng tăng lên. Ngược lại,
Bằng việc mua các giấy tờ có giá, NHTW cung cấp tiền cho các NHTM để cho
vay, làm gia tăng lượng tiền cung ứng trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là
thời hạn cuả các giấy tờ có giá. Việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ
yếu nhằm mục đích cân bằng giao động của tỷ lệ lãi suất trên thị trường tiền tệ,
trong khi đó mua bán các giấy tờ có giá dài hạn có ảnh hưởng rõ rệt tới khả năng
thanh toán của các NHTM.
II.2.3.2. Ưu và nhược điểm:
Nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất của Ngân
hàng trung ương trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, đặc biệt là ở các thị
trường tài chính phát triển cao, bởi ưu thế vốn có của nó:
- NHNN hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch trên thị trường
mở.
-Là công cụ linh hoạt và có tính chính xác cao, có thể sử dụng ở bất cứ mức
độ nào, điều chỉnh một lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ
- Ngân hàng trung ương với công cụ nghiệp vụ thị trường mở có thể đảo
ngược lại tình thế của chính mình.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến nhanh chóng không gây những chậm
trễ về mặt hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí.
Tuy nhiên, khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải
phụ thuộc vào người mua bán ( các NHTM ). Và để sử dụng được nghiệp vụ này
thì phải có sự phát triển khá cao của của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt,


20

tiền trong lưu thông phần lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng, đòi hỏi thị

trường tài chính phải tương đối phát triển.Hay nói cách khác, nghiệp vụ thi
trường mở chỉ đạt được hiệu quả trong điều kiện có một thị trường chứng khoán
thứ cấp sôi động,một thị trường liên NH, thị trường tiền tệ hoạt động sôi động.
II.3. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới
Có bốn loại chính sách tiền tệ cơ bản trên thế giới: chính sách tiền tệ có
mục tiêu tỷ giá hối đoái; chính sách tiền tệ có mục tiêu là khối lượng tiền tệ;
chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát; chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm ẩn
chứ không công khai.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá hối đoái đã có một lịch sử lâu dài.
Đó là việc ấn định giá trị đồng nội tệ theo giá vàng hoặc gắn vào đồng tiền của
một quốc gia khác. Gần đây, người ta thường sử dụng phương pháp neo giá trị
của đồng nội tệ theo giá trị một ngoại tệ trong một biên độ nhất định. Phương
pháp này rất đơn giản rõ ràng và dễ hiểu và tỷ lệ lạm phát dự kiến sẽ được kiểm
soát thông qua đồng ngoại tệ được chọn làm neo. Một số quốc gia đã sử dụng
thành công chính sách này như Anh, Pháp (sau khi gắn đồng tiền của nó vào
đồng Mark Đức. Tuy nhiên nó cung có những mặt hạn chế như làm mất đi tính
độc lập của các chính sách tiền tệ; do có sự ổn định của đồng tiền, các nhà đầu
tư không lường hết được mọi sự rủi ro và làm luồng vốn đổ vào tăng nhanh, khi
vốn bị rút ra một cách bất ngờ thì đây là một trong những nguyên nhân chính
làm gia tăng mức độ trầm trọng của các cuộc khủng hoảng; nó cũng loại bỏ đi
những dấu hiệu quan trọng cho thấy chính sách tiền tệ đã quá bành trướng
nhưng đến khi NHNN nhận ra thì đã muộn.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu tiền tệ: Chính sách này cho phép NHNN có
thể chọn một tỷ lạm phát không giống các quốc gia khác tuỳ theo sự biến động
của sản lượng. Chế độ tiền tệ này có thể gửi tín hiệu gần như lập tức cho cả công
chúng và thị trường về tình trạng của chính sách tiền tệ cũng như ý định của các
nhà làm chính sách trong việc kiểm soát lạm phát. Mỹ, Anh, Canada đã không
thành công trong việc kiểm soát vì việc theo đuổi chính sách này không được
chặt chẽ và mối liên hệ không ổn định giữa khối lượng tiền tệ và các biến mục



21

tiêu như lạm phát. Thế nhưng Đức và Thuỵ Sĩ lại thành công khi áp dụng và do
đó hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến ủng hộ mạnh mẽ và nó đang được xem xét như
là một chính sách tiền tệ chính của NHTW các nước Châu Âu.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát: Niu Dilân là quốc gia đầu tiên
thực hiện theo chính sách này vào năm 1990 tiếp theo là Canada (1991) Anh
(1992) Chính sách này có một số lợi điểm quan trọng. Nó cho phép sử dụng
chính sách trong việc đối phó với các cú sốc trong nội địa, ngoài ra nó dễ hiểu
và có tính minh bạch cao. NHTW có trách nhiệm công khai về con số mục tiêu
lạm phát, nó sẽ cung cấp thông tin cho công chúng và những người tham gia thị
trường tài chính cũng như các nhà chính trị, đồng thời nó làm giảm bớt tính
không chắc chắn của chính sách tiền tệ, lãi suất và lạm phát. Một đặc tính quan
trọng nữa của chế độ tiền tệ này là nó làm tăng tính trách nhiệm của NHTW.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm chứ không công khai: Milton
Friedman đã nhấn mạnh tác động của chính sách tiền tệ có độ trễ khá lớn. Do đó
chính sách tiền tệ sẽ mất thời gian khá dài để có thể tác động tới lạm phát. Vì
vậy để ngăn chặn lạm phát xuất hiện, NHNN cần phải hành động theo kiểu dự
báo đón trước nhằm đưa ra chính sách tiền tệ phù hợp. Lí do cơ bản cho việc sử
dụng chiến lược này chính là sự thành công của nó mà điển hình là ở Mỹ trong
vài năm gần đây. Một nhược điểm quan trọng của chiến lược náy là nó thiếu tính
minh bạch. Nhưng nhược điểm lớn nhất là nó phụ thuộc quá nhiều vào sở thích,
năng lực và độ tin cậy của những người có trách nhiệm trong NHNN. Những bất
lợi đó có thể làm cho chiến lược hoạt đông không tốt trong tương lai.
Bốn loại chính sách tiền tệ được đề cập trên đây đều có những ưu và nhược
điểm riêng của mình. Các kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự minh bạch và tính có
trách nhiệm là điều cốt yếu để điều khiển một chính sách tiền tệ nhằm mang lại
một kết quả mong muốn trong dài hạn. việc sử dụng loại chế độ nào là tuỳ thuộc
vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá và lịch sử của từng quốc gia.





22

PHẦN II: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Ở VIỆT NAM TỪ 1986-2000.
I. TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ VIỆT NAM( TỪ 1986 – 2000)
Sau đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải
đi những bước đầu tiên, vừa xây dựng và cải cách tổ chức hoạt động hệ thống
ngân hàng, vừa định hướng chính sách tiền tệ.
Từ năm 1990, sau khi hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành( pháp lệnh
về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng – Hợp tác xã tín dụng – Công
ty tài chính ), hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển đổi từ một cấp sang hai
cấp, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và
chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần
với hệ thống ngân hàng của nền kinh tế thị trường.
Chính sách tiền tệ đã được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ
thể: chính sách tín dụng tạo ra các công cụ huy động vốn, mở rộng cho vay đến
mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất thực hiện thông qua xoá bỏ bao cấp
vốn, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất cho vay phù
hợp với sự biến động của lạm phát ; chính sách quản lí ngoại hối và một số
công cụ hỗ trợ khác.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả, thể hiện
vai trò quản lí thông qua: ban hành và hoàn thiện cơ chế chính sách, điều hành
các chính sách ấy hoạt động có hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức của hệ thống
ngân hàng theo hướng gọn nhẹ có khoa học; củng cố hệ thống ngân hàng thương
mại quốc doanh, mở rộng quan hệ quốc tế; xây dựng qui chế, cấp giấy phép

thành lập và quản lý hệ thống các tổ chức tín dụng đa thành phần; xây dựng và
điều hành chính sách tiền tệ ngày càng hoàn thiện, có hiệu quả, góp phần kiềm
chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam.
Đến tháng 10 / 1998, hai pháp lệnh ngân hàng đã được thay thế bằng hai
luật ngân hàng: Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức Tín dụng. Hai


23

luật này đã giúp hoạt động của hệ thống ngân hàng được tự do hơn, thông
thoáng hơn, phù hợp với những thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng.
II. CÁC GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
Chính sách tiền tệ của NHNN là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định
đồng tiền và thị trường tiền tệ, góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền
kinh tế. Chúng ta sẽ tiến hành nghiên cứu chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ sau
Đại hội Đảng lần thứ 6. Thời kì 1986 đến 2000 có thể chia làm 4 giai đoạn
II.1. Giai đoạn 1986 - 1988
Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu
luôn vượt quá tổng cung. Tình trạng thiếu ngân sách xảy ra thường xuyên vì vậy
Nhà nước liên tục phát hành tiền để bù thiếu hụt khiến cho nền kinh tế luôn
trong trạng thái bát ổn định, lạm phát đạt kỷ lục ba con số (siêu lạm phát). Xuất
phát từ thực trạng đó, nhiệm vụ chống lạm phát đựơc đặt lên hàng đầu. Do vậy
đã có hai thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ:
- Đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường
- Thi hành chế độ lãi suất thực dương.
Điều này đã làm nên những thay đổi mạnh mẽ dảo ngược tình hình. Với
mục tiêu trực tiếp là đem lại giá trị thực cho đồng tiền Việt Nam, những thay đổi
trên đã góp phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người
dân đối với đồng nội tệ, các quan hệ thị trường được hình thành, tạo ra những
cơ sở vững chắc để biến tư tưởng đổi mới trở thành xu hướng thực tiễn.

II.2. Giai đoạn 1989 - 1991
Các chính sách tiền tệ mới đã có ý nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm
phát cao. Nhưng lạm phát ở mức trên 66% năm 1990 –1991 là không thể tránh
khỏi vì nhuồn lực cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi thích nghi
hướng theo hệ thống kinh tế thị trường.


24

Đi đôi với các biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi và giảm
bội chi, việc tăng cường động viên tài chính và hoạt động của các ngân hàng
nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng kinh tế cũng được quan tâm
thích đáng. Đặc biệt cải cách hệ thống thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất
đối với tất cả các thành phần kinh tế từ năm 1990 đã có tác động tích cực trong
mở rộng và tập trung kịp thời nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
II.3. Giai đoạn 1992 - 1995
Đây là giai đoạn nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, sự ổn định đã
đi vào chế độ dừng. Việc cung ứng tiền tệ cho bội chi ngân sách đã chấm dứt,
cải cách thuế đã thay đổi cơ bản thu chi ngân sách Nhà nước, các chính sách
kinh tế đưa ra phú hợp vứi nền kinh tế đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường làm
cân bằng tổng cung và tổng cầu hàng hoá. Việc điều hành quản lý kinh tế tuy
vậy vẫn ở dạng thô. Do vậy nền kinh tế không tránh khỏi những giao động về
lạm phát.
Lạm phát giai đoạn 1991-1995









Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiếu hướng thuận lợi cho
chính sách tiền tệ. Chính phủ luôn chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm
đến chính sách tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Pháp lệnh ngân hàng Nhà
nước, pháp lệnh ngân hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng đã qui định cơ sở
cho việc thành lập hệ thống ngan hàng hai cấp. Bên cạnh đó Nhà nước đã mở
0
20
40
60
80
1 2 3 4 5
Series1

×