Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

Nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (992.26 KB, 186 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

<b>HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI</b>

<b>TÔ THANH TÙNG</b>

<b>NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC HÀNH DÂN CHỦCỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO KỸ SƯ QUÂN SỰ TRONGNHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY</b>

<b>Ngành: CNDVBC&DVLSMã số: 922 9002</b>

<b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC</b>

<b>NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:</b>

1. PGS, TS Nguyễn Tài Đông 2. PGS, TS Nguyễn Trọng Tuấn

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CAM ĐOAN</b>

<i>Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa họccủa riêng tơi. Các tư liệu, số liệu được sử dụng trong luận ánlà trung thực, chính xác, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.</i>

<b>Tác giả luận án</b>

<b>Tô Thanh Tùng</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>MỞ ĐẦU...1Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUANĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN...8</b>

1.1.Những cơng trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa . 8 1.2.Những cơng trình nghiên cứu về thực hành dân chủ và thực hành dân chủ trong Quân đội nhân dân Việt Nam...18 1.3.Giá trị các công trình đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung làm rõ...24

<b>Chương 2:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰCTHỰC HÀNH DÂN CHỦ CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO KỸ SƯ QUÂN SỰTRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM...28</b>

<small>2.1.</small>Khái niệm dân chủ và năng lực thực hành dân chủ...28 <small>2.2.</small> Năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam...44 <small>2.3.</small> Nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam và những nhân tố tác động...47

<b>Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚINÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC HÀNH DÂN CHỦ CỦA HỌC VIÊNĐÀO TẠO KỸ SƯ QUÂN SỰ TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘINHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY...69</b>

<small>3.1.</small>Thực trạng nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay...69 <small>3.2.</small>Nguyên nhân của thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam...83

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰCTHỰC HÀNH DÂN CHỦ CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO KỸ SƯ QUÂNSỰ</b>

<b>TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆNNAY112</b>

<small>4.1.</small>Một số quan điểm nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào

tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam...112

<small>4.2.</small>Các nhóm giải pháp nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay . <b>121 KẾT LUẬN...144</b>

<b>DANH MỤC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...148</b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...149</b>

<b>PHỤ LỤC...159</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ</b>

Biểu đồ 3.1: Khi thực hiện các vấn đề liên quan đến dân chủ, đồng chí lựa chọn hình thức dân chủ nào? (theo tỉ lệ%)

Biểu đồ 3.2: Tự đánh giá của học viên về năng lực thực hành dân chủ của mình (theo tỉ lệ %)

Biểu đồ 3.3: Chức vụ công tác nào ảnh hưởng nhiều nhất đến thực hiện quyền dân chủ của học viên (theo tỉ lệ %)

Biểu đồ 4: Lựa chọn giải pháp nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên (theo tỷ lệ %)

122

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài</b>

Sau 8 năm thực hiện Kết luận số 120- KL/TW, ngày 07/01/2016 của

<i>Bộ Chính trị (Khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả</i>

<i>việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, và hơn một năm triển</i>

khai thực hiện Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, số 10/2022/QH15, khơng khí dân chủ của các đơn vị trong nhà trường Quân đội đã được cải thiện đáng kể. Nội dung cơ chế dân chủ ngày càng được cụ thể hóa trong thực tiễn, năng lực thực hành dân chủ của cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ từng bước được nâng cao.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được, việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Hiện tượng lãnh đạo, chỉ huy đơn vị đôi khi chưa thực hiện đúng quy định, quy chế dân chủ, thực hành dân chủ còn mang tính hình thức, áp đặt theo mệnh lệnh của người chỉ huy, năng lực thực hành dân chủ của học viên còn nhiều hạn chế. Khi gặp vướng mắc trên các mặt công tác, một bộ phận học viên không dám lên tiếng thể hiện quan điểm và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình, vẫn cịn một số học viên chưa nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người quân nhân. Một số trường hợp có biểu hiện sai lệch trong thực hành dân chủ và kỷ luật quân đội, điển hình như: chấp hành chưa nghiêm kỷ luật, kỷ cương, Điều lệnh, Điều lệ Quản lý bộ đội, chế độ quy định của đơn vị và pháp luật của Nhà nước... Những điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến công tác giáo dục - đào tạo của nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời phản ánh nhận thức về dân chủ và năng lực thực hành dân chủ của một bộ phận học viên chưa đáp ứng được yêu cầu, tiêu chuẩn của người quân nhân cách mạng trong thời đại mới.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Hiện nay, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) đang đứng trước những khó khăn, thách thức mới. Các thế lực thù địch, lực lượng phản động trong và ngoài nước đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hịa bình” với những cách thức rất tinh vi, thâm độc. Chúng tìm cách “phi chính trị hóa” Qn đội, chia rẽ Quân đội với Đảng và Nhà nước, nhằm mục tiêu làm chệch hướng XHCN trên con đường phát triển của đất nước. Trong bối cảnh đó, học viên đào tạo kỹ sư quân sự nói riêng, học viên đang học tập, rèn luyện tại nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam nói chung là đối tượng mà các thế lực thù địch hướng tới. Các học viên do đang trong quá trình học tập, rèn luyện, chưa hồn thiện về cả kiến thức, nhân cách, bản lĩnh chính trị người quân nhân cách mạng nên dễ bị ảnh hưởng. Cùng với đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng đang hàng ngày, hàng giờ tác động đến nhận thức, hành vi, lối sống của người quân nhân, làm cho một số học viên có hiểu biết chưa đúng đắn, phiến diện về dân chủ và thực hành dân chủ.

Năng lực thực hành dân chủ là một phần trong phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống cần có của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Học viên cần có năng lực ấy ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, để sau khi tốt nghiệp sẽ trở thành những sỹ quan kỹ thuật quân sự có năng lực thực hành dân chủ, nếu khơng có năng lực này thì khơng thể hồn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội

<i>nhân dân Việt Nam hiện nay vẫn cịn nhiều hạn chế. Vì thế, đề tài “Nâng cao</i>

<i>năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhàtrường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” được lựa chọn làm đề tài</i>

nghiên cứu luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án</b>

<i><b>2.1. Mục đích nghiên cứu</b></i>

Từ việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao hơn nữa năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong thời gian tới.

<i><b>2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu</b></i>

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau:

<i>Một là, tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, chỉ ra</i>

những nội dung luận án kế thừa, tiếp thu từ các cơng trình đã được cơng bố, khẳng định các vấn đề luận án sẽ nghiên cứu, phân tích, làm rõ.

<i>Hai là, đúc rút các khái niệm: dân chủ, năng lực thực hành dân chủ, nâng</i>

cao năng lực thực hành dân chủ, nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam.

<i>Ba là, khái quát thực trạng nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học</i>

viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, đánh giá trên cả hai bình diện ưu điểm và hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên.

<i>Bốn là, trình bày những quan điểm, đề xuất các nhóm giải pháp nhằm tiếp</i>

tục nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam thời gian tới.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án</b>

<i><b>3.1. Đối tượng nghiên cứu</b></i>

Nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>3.2. Phạm vi nghiên cứu</b></i>

<i>Phạm vi nội dung: Để xác định phạm vi nội dung nâng cao năng lựcthực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quânđội nhân dân Việt Nam phải bắt đầu từ khái niệm dân chủ. Dân chủ là một</i>

khái niệm rộng, được hiểu dưới nhiều góc độ. Trong luận án này, dân chủ được xem xét chủ yếu dưới góc độ là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của cộng đồng, dựa trên sự tự do và bình đẳng giữa các thành viên, thiểu số phục tùng đa số, tôn trọng, bảo vệ thiểu số. Nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam là một cộng đồng xã hội, do đó, năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự là năng lực nhận thức và thực hiện các quy chế, quy định về dân chủ trong quá trình học tập, rèn luyện tại trường, thể hiện trên ba khía cạnh: 1. Khả năng nhận thức, hiểu biết của học viên đào tạo kỹ sư quân sự về dân chủ, các quy chế, quy định dân chủ; 2. Sự chuyển hóa từ nhận thức thành thực hành dân chủ trong thực tiễn; 3. Cách thức thực hành dân chủ của học viên. Vì vậy, phạm vi nội dung nghiên cứu là biểu hiện nâng cao ở ba khía cạnh của năng

<i>lực thực hành dân chủ: một là, nhận thức quy chế, quy định về dân chủ đầy đủ,sâu sắc hơn; hai là, sự chuyển hoá từ nhận thức thành thực hành dân chủ trongthực tiễn ngày càng toàn diện, triệt để, hiệu quả; ba là, cách thức thực hiện</i>

dân chủ đa dạng, linh hoạt, sáng tạo.

<i>Phạm vi về không gian, thời gian: luận án tiến hành nghiên cứu, khảo sát</i>

đối với học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam. Gồm có Học viện Kỹ thuật Quân sự, Học viện Phòng không-Không quân, Học viện Hậu cần, Học viện Hải quân.

Thời gian nghiên cứu từ năm 2018 đến năm 2023.

<b>4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án</b>

<i><b>4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn</b></i>

<i>Cơ sở lý luận: Luận án chủ yếu dựa vào hệ thống quan điểm của chủ</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ, dân chủ XHCN.

<i>Cơ sở thực tiễn: Luận án dựa trên tài liệu nghiên cứu, số liệu khảo sát,</i>

điều tra xã hội học ở một số học viện, nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam, những báo cáo tổng kết, thống kê của Quân ủy Trung ương, Tổng cục Chính trị, học viện, nhà trường.

<i><b>4.2. Phương pháp nghiên cứu</b></i>

Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong nghiên cứu luận án sử dụng các nhóm phương pháp cụ thể như:

<i>4.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết</i>

Đó là các phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa tài liệu, nhằm làm rõ các vấn đề lý luận về dân chủ, năng lực thực hành dân chủ, nâng cao năng lực thực hành dân chủ nói chung và nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự nói riêng.

<i>4.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn</i>

Phương pháp điều tra xã hội học: khảo sát thực trạng năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự hiện nay, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự. Đây chính là cơ sở thực tiễn quan trọng để luận án đưa ra các kết luận và đề xuất nhóm giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực thực hành dân chủ cho học viên đào tạo kỹ sư quân sự.

Phương pháp quan sát: phương pháp này được nghiên cứu sinh tiến hành bằng cách theo dõi quá trình thực hành dân chủ ở Học viện Kỹ thuật Qn sự, Học viện Phịng khơng - Khơng quân, Học viện Hậu cần, Học viện Hải quân, nhằm thu thập những thông tin, dữ liệu cần thiết, hỗ trợ việc xử

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

lý, đánh giá các kết quả điều tra, đảm bảo việc đánh giá được khách quan, chính xác.

<i>4.2.3. Các phương pháp bổ trợ khác</i>

- Phương pháp thống kê SPSS (Statistical Product and Services Solutions) được sử dụng để phân tích, xử lý các số liệu điều tra, khảo sát.

- Các phần mềm tin học được sử dụng để vẽ biểu đồ, đồ thị minh họa, mô tả kết quả khảo sát.

<b>5. Đóng góp mới về khoa học của luận án</b>

Luận án góp phần làm sáng tỏ bản chất nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam, thực trạng nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên hiện nay, những yếu tố tác động và một số vấn đề đặt ra.

Nêu ra các quan điểm, đề xuất một số nhóm giải pháp cơ bản, khả thi, phù hợp với đặc thù của học viên đào tạo kỹ sư quân sự, để tiếp tục nâng cao hơn nữa năng lực thực hành dân chủ của học viên trong thời gian tới.

<b>6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án</b>

<i><b>6.1. Ý nghĩa lý luận</b></i>

Luận án góp phần làm phong phú thêm hệ thống lý luận về dân chủ, nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam.

Cung cấp cơ sở khoa học nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự nói riêng, các học viên trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay nói chung.

<i><b>6.2. Ý nghĩa thực tiễn</b></i>

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà trường Quân đội trong nghiên cứu, tuyên truyền phổ biến, bổ sung, điều chỉnh các quy định về thực hành dân chủ, nhằm không ngừng nâng cao năng lực thực hành dân chủ

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

học viên đào tạo kỹ sư quân sự, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.

Các quan điểm, nhóm giải pháp được luận án đưa ra nếu được áp dụng trong thực tiễn sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao năng lực thực hành dân chủ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

<b>7. Cấu trúc của luận án</b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các cơng trình nghiên cứu của tác giả liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung luận án bao gồm 4 chương (10 tiết).

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>Chương 1</b>

<b>TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊNCỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN</b>

Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Nâng cao năng lực thực hành dân chủ nhân dân là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng và phát triển bền vững quốc gia. Do đó, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về dân chủ, thực hành dân chủ và nâng cao năng lực thực hành dân chủ cho các đối tượng nhân dân đã được đặt ra, thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia. Nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này của các tác giả trong và ngồi nước được cơng bố. Có thể khái qt thành các nhóm cơng trình như sau:

<b>1.1. Những cơng trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ xã hộichủ nghĩa</b>

<i><b>1.1.1. Cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước ngồi</b></i>

Lý luận chung về dân chủ và dân chủ XHCN được nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm, bàn luận tại các Hội nghị, Hội thảo khoa học quốc tế, điển hình như:

<i>Hội thảo bàn trịn về Dân chủ: Giá trị phổ quát và những kinh nghiệm</i>

<i>lịch sử [108], diễn ra vào ngày 16 tháng 5 năm 2008, do Viện Triết thuộc Viện</i>

Hàn lâm Khoa học Nga (Росси́йская акаде́мия нау́к) và các tạp chí Classe politique, Polis tổ chức.

Tại Hội thảo, các học giả cho rằng: trong lịch sử tư tưởng xã hội, bản thân khái niệm dân chủ đã được đưa ra dưới nhiều góc độ khác nhau, tùy

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

cứu tiếp cận. Từ thực tiễn nghiên cứu, các nhà khoa học khẳng định: Dân chủ là khái niệm đang phát triển và là hiện tượng chưa biết đến bao giờ mới “hồn hảo, xong xi”. Vì thế, ý niệm về dân chủ cũng đang phát triển. Dân chủ là một giá trị tiên nghiệm, được diễn đạt theo cách này hay cách kia, luôn hiện hữu trong mọi loại diễn từ. Cần phải phân định giới hạn khái niệm dân chủ với các khái niệm khác, bởi vì, khi nói về mình với tư cách là những nhà dân chủ, và về đất nước mình với tư cách là những nền dân chủ, không phải ai cũng có thái độ khách quan.

Tại đây, dân chủ trước hết được xem xét dưới góc độ là một vấn đề chính trị - triết học. Theo các học giả, định nghĩa ban đầu của dân chủ là quyền lực nhân dân, là sự tham gia của nhân dân vào việc điều hành các công việc xã hội. Cùng với sự phát triển của xã hội, sự tham gia ấy được hiện thực hóa ở những mức độ và quy mơ khác nhau. Vì thế, dân chủ là xu thế phát triển của lịch sử lồi người, nó được phản ánh một cách thực tế trong các hình thái kinh tế - xã hội, phụ thuộc vào những điều kiện phát triển của thế giới và dân tộc, vào trình độ văn hóa chính trị của nhân dân. Dân chủ thực tế là sự tham gia quản lí của nhân dân ở mức độ tối đa có thể có đối với những điều kiện cụ thể; hay dân chủ là chế độ mà ở đó, khơng chỉ đơn giản là mọi người chẳng phải vâng lệnh quyền lực, mà cịn phải có một số lượng nhất định nào đó những người có khả năng ảnh hưởng tới những quyết sách được thông qua ở cấp cao. Những người này được gọi là nhân dân, là công dân.

Dân chủ cịn được bàn luận với tư cách là tơn giáo nhà nước. Giống như mọi hình thức tơn giáo khác, dân chủ cũng có những lễ nghi riêng: ngày bầu cử, truyền bá tín nhiệm cho các vị đại biểu của nhân dân, những bài ca chính thức, khánh tiết, biểu dương sự thống nhất. Dân chủ cũng có đội thập tự qn đơng đảo đó là nhân dân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Ở góc độ khác, dân chủ cịn được xem là một hiện tượng đang phát triển. Hiện tượng này chứa đựng trong bản thân cả những nhân tố cơ bản bao gồm quyền lực của nhân dân, sự tham gia của nhân dân vào giải quyết những vấn đề xã hội và chính trị, vào điều hành cơng việc xã hội, lẫn những nội dung nhất thời, gắn với các hình thức và cơ chế tham gia của nhân dân như dân chủ trực tiếp, đại diện nghị trường, tự quản, các hội đồng v.v... Nếu bình diện thứ nhất thể hiện tính quyết định của dân chủ, thì bình diện thứ hai lại có thể thay đổi tùy vào trình độ phát triển của xã hội, vào truyền thống và loại hình văn hóa chính trị, vào những thách thức lịch sử, thách thức địa chính trị cụ thể. Bình diện quan trọng nhất của dân chủ là tính chất tự do tham gia vào đời sống chính trị của nhân dân. Cho nên, mọi ý đồ xây dựng và hoàn thiện dân chủ xã hội chỉ thành công và bền vững tương ứng với mức độ mà nhân dân sẽ trở thành chủ thể của nền dân chủ đó đến đâu.

Tóm lại, Hội thảo đã làm rõ nội hàm khái niệm dân chủ trên một số góc độ và những giá trị phổ quát, cùng với đó đưa ra những kinh nghiệm phát huy dân chủ trong giai đoạn hiện tại. Các đại biểu nhấn mạnh: “Ngày nay, trong những điều kiện của giai đoạn quá độ. Trong khi chưa quen với tự do mang tinh thần trách nhiệm công dân, chưa phát triển những truyền thống tự kiềm chế một cách ý thức, xã hội có nguy cơ biến quyền lực nhân dân thành sự hỗn loạn và thế là sẽ đánh mất cả tự do lẫn bình đẳng. Nước Nga phải tìm được một cơng thức đối phó tối ưu đối với các nguy cơ ấy. Trong đó, việc nâng cao tính tích cực cơng dân của quần chúng sẽ trở thành nhân tố quan trọng nhất, tạo nên sinh khí cho hệ thống xã hội, đảm bảo cho nó sự mềm dẻo và bền vững [108].

<i>N.M. Voskresenskaia và N.B. Davletshina là tác giả cuốn Chế độ dân</i>

<i>chủ, nhà nước và xã hội [63]. Tác phẩm được xuất bản nhằm phục vụ giảng dạy</i>

và học tập trong các trường trung học ở Nga. Tuy nhiên, tầm ảnh hưởng của nó đã vượt xa sự mong đợi. Sách không chỉ thu hút sự chú ý của học sinh,

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

viên, phụ huynh, mà còn được dư luận đánh giá cao. Ngay từ những trang đầu của tác phẩm, các tác giả khẳng định: khát vọng tự do có thể là bẩm sinh, cịn dân chủ thì phải học mới biết. Muốn xây dựng một xã hội dân chủ, cần phải hiểu biết về dân chủ. Đây là lý do cuốn sách được phổ biến rộng rãi trong các trường trung học tại Nga.

Cuốn sách dành thời lượng lớn làm rõ khái niệm dân chủ, sự hình thành của khái niệm, cũng như các quan niệm khác nhau về dân chủ. Theo các tác giả, đặc điểm quan trọng nhất, bản chất nhất của dân chủ là quyền tự do cá nhân mỗi con người được tôn trọng. Công nhận phẩm giá vốn có của mọi thành viên gia đình nhân loại, cơng nhận các quyền bình đẳng là bất khả phân, là cơ sở của tự do, công bằng và hịa bình trên thế giới.

Như vậy, dân chủ địi hỏi quyền bình đẳng cho tất cả các cơng dân, khơng phụ thuộc vào màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, thành phần xuất thân, tài sản, đẳng cấp, niềm tin… Nhưng phải hiểu bình đẳng theo nghĩa rộng: bình đẳng về cơ hội, bình đẳng trước pháp luật và bình đẳng trong việc chọn người đại diện. Những điều đó khơng có nghĩa là mọi người phải sống như nhau, phải cùng đọc một loại sách, phải có thu nhập như nhau. Nói đến dân chủ, trước hết chúng ta hiểu rằng, đấy là quyền của con người trong việc tham gia quản lý nhà nước thông qua các cơ chế khác nhau, quyền làm một thành viên bình đẳng trong một tập thể nào đó, quyền có điều kiện thể hiện quan điểm của mình và được lắng nghe…Và rằng, dân chủ sẽ thắng lợi hoàn toàn khi tất cả các công dân thực sự tham gia và bình đẳng trong việc giải quyết công việc quốc gia. Nhưng đây là một mơ hình lý tưởng, trên thực tế, xã hội cịn nhiều vấn đề khó chưa giải quyết được.

<i>Khi bàn về nền dân chủ XHCN, Bài Chủ nghĩa xã hội và dân chủ củaAlecxei Prigarin trong Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa</i>

<i>xã hội [84] khẳng định: Nền dân chủ XHCN là nền dân chủ tiến bộ nhất, việc</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN là hoạt động tất yếu trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. “Xây dựng dân chủ XHCN là xây dựng các điều kiện bảo đảm để quần chúng được biết tất cả, được thông tin đầy đủ về các lĩnh vực đời sống xã hội, để từng cá nhân và tổ chức xã hội có thể tự do bày tỏ cơng khai ý kiến của mình về mọi việc, để mọi người tác động đến đời sống của tập thể lao động của họ, cũng như đời sống của địa phương và đất nước” [84, tr. 26].

<i>Cuốn Trung Quốc đối mặt với những điểm nóng về lý luận [19] của Cục</i>

Lý luận - Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đây là tác phẩm lý luận rất quan trọng, huy động lực lượng lớn các nhà khoa học, chuyên gia và các nhà lãnh đạo của Trung Quốc tham gia biên soạn. Theo các học giả, Trung Quốc trong quá trình phát triển đang đối mặt với 21 vấn đề nóng cần làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn. Trong đó, hệ thống lý luận về CNXH đặc sắc Trung, dân chủ kiểu Trung Quốc… là vấn đề được quan tâm nhiều nhất.

Tác phẩm nêu rõ: lý luận CNXH đặc sắc Trung Quốc xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa Mác, được phát triển linh hoạt, sáng tạo, uyển chuyển gắn liền với thực tiễn cải cách, mở cửa của Trung Quốc. Thực tiễn xây dựng CNXH đặc sắc Trung Quốc diễn ra một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là kinh tế thị trường XHCN đặc sắc Trung Quốc, dân chủ XHCN đặc sắc Trung Quốc, Nhà nước pháp quyền XHCN đặc sắc Trung Quốc, văn hóa XHCN đặc sắc Trung Quốc và xã hội hài hòa XHCN đặc sắc Trung Quốc. Trên cơ sở phân tích, đánh giá chế độ XHCN đặc sắc Trung Quốc qua 60 năm, các tác giả nhận định: không thể coi dân chủ, tự do, nhân quyền của phương Tây là giá trị phổ biến của nhân loại. Phát triển chính trị XHCN đặc sắc Trung Quốc là con đường duy nhất đúng đắn, phù hợp với tình hình và thực tế Trung Quốc, mà nhân dân Trung Quốc đã chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản [19, tr.161]. Quan điểm nổi bật là lấy người dân làm trung tâm trong việc giải quyết các vấn

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

đề chính trị, xã hội. Nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, lực lượng căn bản quyết định tiền đồ, vận mệnh của Đảng và đất nước.

<i>Thái Thượng Kim trong bài Đảng Cộng sản các nước trên thế giới tận</i>

<i>dụng như thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa Đảng với quầnchúng [57]. Từ kinh nghiệm của các Đảng Cộng sản trên thế giới (Đảng Cộng</i>

sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Cuba), tác giả đã bàn đến giải pháp thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng thông qua sự tham dự dân chủ. Phải lấy dân chủ trong Đảng để thúc đẩy dân chủ trong xã hội. Dân chủ trong Đảng là “hạt nhân” cho dân chủ ngoài xã hội, thực hiện nghiêm nguyên tắc nhân dân làm chủ, tận dụng kênh dân chủ để biểu đạt, lắng nghe nguyện vọng của quần chúng và thống nhất lợi ích của xã hội.

Như vậy, lý luận về dân chủ, dân chủ XHCN nói chung, dân chủ ở Nga, dân chủ đặc sắc Trung Quốc đã được các cơng trình nghiên cứu đề cập trên một vài khía cạnh. Các cơng trình là những tài liệu vô cùng quan trọng để tham khảo, so sánh, đánh giá mơ hình dân chủ XHCN ở Việt Nam và việc nâng cao năng lực thực hành dân chủ cho người dân, đặc biệt là những người quân nhân trong Qn đội nhân dân Việt Nam.

<i><b>1.1.2. Cơng trình nghiên cứu của các tác giả trong nước</b></i>

Tại Việt Nam, bàn về dân chủ, dân chủ XHCN và việc xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam được rất nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu quan tâm. Tiêu biểu là các tác phẩm, đề tài nghiên cứu khoa học và những công bố sau:

<i>Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa [61] của hai tác giả Thái</i>

Ninh và Hồng Chí Bảo. Trong cuốn sách, khái niệm về dân chủ và dân chủ XHCN được tiếp cận trên 5 phương diện: 1- Dân chủ là một hình thức tổ chức xã hội, tổ chức nhà nước, 2- Dân chủ là một giá trị xã hội tồn tại vĩnh viễn, 3-Dân chủ là một điều kiện để hình thành và hoàn thiện nhân cách của một con người, 4- Dân chủ là một nguyên tắc tổ chức sinh hoạt (thiểu số phục tùng đa

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

số), 5- Dân chủ là động lực, là bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. Bên cạnh đó, hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử ra đời, quá trình phát triển, nội dung bản chất của dân chủ tư sản, hay nội dung, tính ưu việt của nền dân chủ XHCN cũng được tác giả Thái Ninh và Hồng Chí Bảo so sánh, làm rõ trên các phương diện.

<i>Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền dân chủ xãhội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới [93] là luận án triết học của Nguyễn</i>

Anh Tuấn. Trong luận án, khái niệm dân chủ được tác giả tiếp cận theo nghĩa rộng với 5 nội dung: thứ nhất, dân chủ là chế độ chính trị, chế độ nhà nước; thứ hai dân chủ là quyền lực thuộc về giai cấp thống trị; thứ ba, dân chủ là sự biểu thị thành quả đấu tranh của nhân dân lao động chống lại các giai cấp, lực lượng áp bức, bóc lột; thứ tư, dân chủ là nguyên tắc, tổ chức sinh hoạt của các cộng đồng và các tổ chức chính trị - xã hội trên cơ sở sự tự do, bình đẳng giữa các thành viên, thiểu số phục tùng đa số và tôn trọng, bảo vệ thiểu số; thứ năm, dân chủ là giá trị xã hội, giá trị nhân văn, văn minh, phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người trong tiến trình phát triển của xã hội. Xây dựng nền dân chủ được tác giả hiểu là việc thiết lập dân chủ trên 4 lĩnh vực cơ bản: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và các nguyên tắc, yêu cầu, chuẩn mực dân chủ trên 4 lĩnh vực tương ứng. Thực trạng xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới được tác giả phân tích, đánh giá một cách hệ thống. Từ đây, các giải pháp nâng cao nhận thức về dân chủ XHCN, tiến tới xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN ở Việt Nam cũng được đưa ra.

<i>Luận án Nâng cao trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân trong quá</i>

<i>trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [59] của Mẫn</i>

Văn Mai lại khẳng định: dân chủ là một giá trị văn hóa - văn hóa dân chủ. Từ đó, luận án nêu ra các đặc điểm và tiêu chí xác định trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân, những nhân tố khách quan, chủ quan tác động đến quá trình

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

độ văn hóa dân chủ của nhân dân, đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu, nhằm nâng cao trình độ văn hóa dân chủ của nhân dân hiện nay.

<i>Cuốn Dân chủ, nhân quyền - giá trị toàn cầu và đặc thù quốc gia [51],</i>

của Hội đồng lý luận Trung ương. Sách tập hợp những bài viết của các chuyên gia lý luận hàng đầu Việt Nam, bàn về các vấn đề chung: dân chủ, nhân quyền, cũng như phân tích và phê phán các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về dân chủ.

Trong khi bàn về dân chủ, các hình thái dân chủ và dân chủ ở Việt Nam, nhiều tác giả khẳng định: “Dân chủ - cuộc tìm kiếm khơng ngừng nghỉ của lồi người; dân chủ - một giá trị chung của nhân loại và một phạm trù lịch sử phù hợp với điều kiện, đặc điểm của mỗi quốc gia” [51, tr.209]. Về nền dân chủ Việt Nam, đó là nền dân chủ mang đặc điểm truyền thống văn hóa phương Đơng, gắn với sự phát triển dân sinh, dân trí qua các thời kỳ. Ngày nay, Đảng cầm quyền có sứ mệnh lịch sử rất quan trọng trong việc kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của dân tộc, lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN Việt Nam. “Chế độ bầu cử đa nguyên, đa đảng chỉ là một sự lựa chọn nhằm thực hiện dân chủ đại diện, chứ tuyệt nhiên không phải là phương thức duy nhất để thực hiện dân chủ, kể cả dân chủ đại diện” [51, tr.209].

Tác giả Trung Thực khi bàn về chế độ dân chủ XHCN ở Việt Nam, trong

<i>cuốn Quyền dân chủ ở nước ta [98], đã đánh giá: “Chế độ dân chủ ở nước ta</i>

hoàn toàn khác hẳn chế độ dân chủ của các nước tư bản Âu - Mỹ, với nền thống trị của giai cấp tư sản, nhân dân lao động khơng có quyền làm chủ quốc gia, khơng có quyền tự do bình đẳng thực sự. Ở chế độ chúng ta, toàn dân làm chủ nhà nước và bản chất của chế độ ta là hoàn toàn tốt đẹp” [98, tr.41].

<i>Đề tài Những quan điểm cơ bản của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin</i>

<i>về dân chủ xã hội chủ nghĩa [94], do tác giả Nguyễn Thanh Tuấn làm chủ</i>

nhiệm. Trên cơ sở khái quát quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

tác giả khẳng định: nền dân chủ XHCN “hơn gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Do đó, cần thiết vận dụng những quan điểm dân chủ XHCN trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở Việt Nam theo tinh thần đổi mới.

Tuy nhiên, dân chủ XHCN và việc thực hành dân chủ ở Việt Nam hiện nay cũng đang nổi lên nhiều vấn đề gai góc, phức tạp, cần giải quyết cả trên phương diện thực tiễn và lý luận. Đó là khẳng định của tác giả Hồ Bá Thâm

<i>trong bài Di chúc Hồ Chí Minh vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi</i>

<i>với bối cảnh hiện nay [97].</i>

<i>Tiếp cận dân chủ từ giác độ rộng nhất của khái niệm [72] là bài viết của</i>

Phạm Ngọc Quang. Tác giả cho rằng: lịch sử nhân loại đã trải qua dân chủ tự quản thời cộng sản nguyên thủy, dân chủ chủ nô, dân chủ phong kiến, dân chủ tư sản và ngày nay đang ra đời dân chủ XHCN ở các nước đi lên CNXH. Nếu xem mỗi loại hình dân chủ nói trên là những cái riêng, thì giữa chúng bao giờ cũng có những yếu tố chung, yếu tố đồng nhất, yếu tố giống nhau tạo thành giá trị phổ biến của dân chủ [72, tr. 28-29].

<i>Luận án tiến sĩ Xây dựng và phát triển dân chủ phục vụ q trình cơng</i>

<i>nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay [91] của Đàm Anh Tuấn một lần</i>

nữa đã khái quát lý luận về dân chủ, dân chủ XHCN, làm rõ vai trò của dân chủ đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở nước ta; phân tích, đánh giá thực trạng dân chủ và đề xuất phương hướng, giải pháp phát huy dân chủ theo yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.

<i>Xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinhtế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa [16], do Vũ Hồng Cơng chủ biên, vàVề q trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [69] của tác giả</i>

Lê Minh Quân. Các tác phẩm tập trung làm rõ: 1. Mối quan hệ giữa dân chủ XHCN với phát triển kinh tế thị trường; thực trạng, phương hướng, giải pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

phát triển dân chủ XHCN trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN. 2. Đề xuất các giải pháp để thực hiện dân chủ hóa trong xã hội Việt Nam, trong đó, điển hình là: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng theo hướng dân chủ hóa; xây dựng và phát triển xã hội cơng dân; xây dựng, phát triển nền văn hóa và con người Việt Nam mới.

<i>Bài viết Nhận thức về dân chủ và quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam</i>

<i>trong thời kỳ đổi mới - Thực trạng và giải pháp [95] của Trần Thị Minh Tuyết.</i>

Tác giả nhấn mạnh: Trong tiến trình đổi mới đất nước, Đảng ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò của dân chủ và đã tập trung xây dựng thiết chế, hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế và chính sách bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân ngày một tốt hơn. Quá trình thực hiện dân chủ hóa trên các lĩnh vực của đời sống xã hội sẽ tạo động lực cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhưng theo tác giả, dân chủ ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Nhận thức về dân chủ và phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền vẫn còn những vấn đề chưa được giải đáp đầy đủ, thấu đáo... Thực tế đó địi hỏi, Đảng phải tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức để thúc đẩy nhanh hơn nữa q trình dân chủ hóa ở nước ta.

<i>Tác phẩm Dân chủ, độc tài và phát triển [73] của Hồ Sĩ Qúy, tác giả đã</i>

đi sâu phân tích mối quan hệ giữa dân chủ và độc tài; giữa dân chủ, độc tài và phát triển, đồng thời chỉ rõ cái giá phải trả của tình trạng mất dân chủ đối với sự phát triển của xã hội hiện nay. Trong tác phẩm, tác giả khẳng định: sự vận động và phát triển của dân chủ cũng trải qua những bước quanh co và không thể tránh khỏi hạn chế, nhưng “dân chủ nếu có khiếm khuyết, nó sẽ được sửa chữa bằng một trình độ dân chủ cao hơn” [73, tr.256]. Vì vậy, “dân chủ cần phải trở thành một thứ văn hóa tồn tại một cách tự nhiên, ngấm sâu trong đời sống xã hội. Những điều tích cực chỉ khi đã ăn sâu vào đời sống văn hóa, phong tục, tập

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

thì mới có thể coi là đã hoàn thành và tồn tại bền vững, trở thành nhân tố điều chỉnh hành vi. Nếu dân chủ chỉ tồn tại một cách hình thức, hời hợt, hoặc chỉ như một thứ trang trí, tơ vẽ cho vẻ bề ngồi của xã hội thì nó khơng thể tạo ra các quan hệ dân sự thực sự có sức mạnh, làm nhiệm vụ điều chỉnh hành vi xã hội và bảo vệ xã hội trong giờ phút hiểm nghèo”. “Hậu quả nguy hiểm nhất của mất dân chủ là sự mất khả năng đề kháng của xã hội trước sự tấn công của kẻ thù” [73, tr.256].

<i>Do vậy, cần thiết phải Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá trình độ phát triển</i>

<i>dân chủ ở Việt Nam hiện nay [56]. Đó cũng là luận án nghiên cứu của Trần Thị</i>

Thu Huyền. Trong luận án, tác giả đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của các tiêu chí đánh giá trình độ phát triển dân chủ. Khảo sát thí điểm trình độ phát triển dân chủ dựa trên tiêu chí đã đề xuất. Hệ tiêu chí đo lường trình độ phát triển dân chủ ở Việt Nam bao gồm: đo lường tổ chức và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị (HTCT); đo lường năng lực làm chủ của người dân; đo lường các điều kiện để thực hiện quyền làm chủ của người dân. Ba hệ tiêu chí này có thể tham khảo để đánh giá thực trạng dân chủ, góp phần đưa ra giải pháp nâng cao trình độ dân chủ của nhân dân nói chung, nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên các nhà trường Quân đội nói riêng.

<b>1.2. Những cơng trình nghiên cứu về thực hành dân chủ và thựchành dân chủ trong mơi trường Qn đội</b>

<i><b>1.2.1. Cơng trình nghiên cứu về thực hành dân chủ</b></i>

<i>Thực hành dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền [34],</i>

là cơng trình nghiên cứu do giáo sư Phạm Văn Đức chủ biên. Sách được biên soạn dựa trên đề tài cấp nhà nước của Viện Triết học, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Nội dung cuốn sách luận giải những vấn đề lý luận về dân chủ, thực hành dân chủ… Đồng thời, khái quát kinh nghiệm thực hành dân chủ ở một số nước trên thế giới, những quan điểm, phương hướng, giải pháp thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Theo các tác giả, “Chủ nghĩa Mác chủ trương mở rộng khái niệm dân chủ trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó, hình thái nhà nước sử dụng chế độ chính trị dân chủ là căn bản nhất. Do vậy, đây là hình thức căn bản của chính quyền nhà nước, của tổ chức giai cấp thống trị, thể hiện ý chí, nguyện vọng của chính mình. Song, quyền dân chủ, ngun tắc quản lý dân chủ, quan niệm về dân chủ, tác phong dân chủ và phương pháp dân chủ đối với quá trình vận hành và thực hiện chế độ dân chủ cũng phát huy tác dụng quan trọng và không thể coi nhẹ” [34, tr.17].

Trong tác phẩm, thực hành dân chủ được khẳng định là “việc triển khai trên thực tế (làm) những điều đã nói (lý luận) về dân chủ. Quan hệ giữa lý luận dân chủ với thực hành dân chủ chính là quan hệ giữa nói và làm, giữa lý luận và thực tiễn. Nói cách khác, thực hành dân chủ chính là cơ chế, chính sách, những quy định, nguyên tắc được đưa vào thực tiễn bảo đảm cho mọi người dân thực hiện quyền dân chủ của mình, hiện thực hóa phương châm mà Đảng đã xác định: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” [34, tr.52-53]. Kinh nghiệm thực hành dân chủ ở một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới (như Cộng hòa Liên bang Đức, Thái Lan, Xinh-ga-po, Đài Loan), thực trạng thực hành dân chủ, một số quan điểm, phương hướng, giải pháp thực hành dân chủ trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam cũng được tác giả phân tích làm rõ.

<i>Bài Dân chủ và đặc tính của việc thực hành dân chủ ở Việt Nam [35] của</i>

Nguyễn Ngọc Hà và Luyện Thị Hồng Hạnh. Các tác giả cho rằng, tùy vào điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa riêng, mỗi nước đều xác định tiêu chuẩn dân chủ phù hợp với nước mình. Biểu hiện tính đặc thù của dân chủ và thực hành dân chủ ở Việt Nam là dân chủ XHCN, dân chủ khơng có đối trọng giữa các đảng phái, khơng có tam quyền phân lập, là nền dân chủ có sự thống nhất giữa các thành tố trong HTCT, thống nhất giữa Đảng với Nhà nước

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

và các tổ chức chính trị - xã hội, khơng có quy định nhân dân trực tiếp bầu ra người đứng đầu Nhà nước.

Bên cạnh những cơng trình khoa học nghiên cứu về thực hành dân chủ, cơ chế thực hành dân chủ ở Việt Nam nói chung, nhiều tác giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong các trường đại học, cao

<i>đẳng ở Việt Nam. Tác giả Đồng Văn Quân trong cuốn Thực hiện dân chủ trong</i>

<i>các trường đại học ở nước ta hiện nay [69], đã phân tích cơ sở lý luận của việc</i>

thực hiện dân chủ ở các trường đại học, chỉ rõ thực trạng thực hành dân chủ, những thành tựu, nguyên nhân và yếu kém tồn tại trong quá trình thực hành dân chủ ở các trường đại học hiện nay. Tác giả đánh giá: “dân chủ tùy tiện, thiếu định hướng dẫn đến vi phạm các nguyên tắc, quy định về dân chủ của cấp trên; hoặc ngược lại, vận dụng một cách cứng nhắc văn bản, quy định, quy chế dân chủ được áp đặt từ trên xuống vào quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường dẫn đến hiện tượng rập khn giáo điều, máy móc” [69, tr.134], là những hạn chế đang tồn tại. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra một số phương hướng, giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả thực hành dân chủ ở các trường đại học giai đoạn hiện nay.

<i>Bài Thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học, cao đẳng Hà Nội</i>

[54] của tác giả Nguyễn Thanh Hùng. Bài viết tiếp tục làm rõ thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học, cao đẳng Hà Nội. Về ưu điểm, việc thực hiện dân chủ tại trường học đã tạo ra bước ngoặt có tính đột phá trong giáo dục - đào tạo. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế do các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Vì vậy, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội là yêu cầu đặt ra.

<i>Luận án của Nguyễn Hữu Tâm về Thực hiện Quy chế dân chủ ở các</i>

<i>trường Đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiệnnay [83]. Trong luận án, tác giả đã trình bày khái luận về dân chủ, quy chế dân</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

chủ và việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nói chung, trong các trường đại học, cao đẳng Khánh Hòa nói riêng. Phân tích thực trạng thực hiện quy chế dân chủ trong các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hịa, từ đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy chế dân chủ trong các trường đại học, cao đẳng ở Khánh Hòa hiện nay.

<i>Bài viết, Dân chủ - phương thức và động lực của đổi mới giáo dục và</i>

<i>đào tạo [92] của tác giả Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Minh Hải, đăng trên tạp</i>

chí Lý Luận Chính trị. Bài viết đã bàn về dân chủ trong giáo dục đào tạo, và khẳng định: dân chủ là mục tiêu, phương thức, động lực của việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Do đó: “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học và công nghệ, bảo đảm định hướng XHCN và thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo” [92].

<i>Tiếp tục vấn đề này, bài Dân chủ sẽ làm bừng nở những điều tốt đẹp</i>

<i>trong giáo dục [75] của tác giả Diệp Văn Sơn, khẳng định: thiếu dân chủ, nhà</i>

trường sẽ trở thành “ốc đảo”, trường học cịn có sự “khiếp nhược”, thiếu dân chủ trong nhà trường sẽ khó cải cách giáo dục... Từ đó, tác giả đưa ra những giải pháp cần thiết nhằm tạo lập dân chủ trong trường học hiện nay.

Trong thực hành dân chủ, một số tác giả đã đi sâu phân tích các hình thức

<i>thực hành dân chủ phổ biến trên thế giới và Việt Nam, như: Một số vấn đề lý</i>

<i>luận và thực tiễn về dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và Việt Nam</i>

<i>[105], kỷ yếu Hội thảo khoa học do Đào Trí Úc chủ biên. Hay Dân chủ trực</i>

<i>tiếp: sổ tay IDEA Quốc tế [109] của Viện Quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử.</i>

Sổ tay đã tổng quan việc thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp ở 214 quốc gia và vùng lãnh thổ, từ đó trình bày cụ thể dân chủ trực tiếp ở Thụy sĩ, ở Venezuela. Sổ tay đưa ra bốn cơ chế dân chủ trực tiếp, làm cho cử tri có nhiều cơ hội hơn khi tham gia vào các hoạt động của Chính phủ, đó là trưng cầu dân ý, sáng

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

cơng dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn. Sổ tay IDEA Quốc tế đặt ra mục tiêu hỗ trợ xây dựng nền dân chủ trên toàn cầu và cung cấp những phân tích chuyên sâu, dưới nhiều hình thức để tăng cường dân chủ. Dân chủ trong sổ tay IDEA Quốc tế được xem là một cơ chế độc đáo, khuyến khích tự do ngơn luận, tự do hành động, để người dân tham gia vào xây dựng nền dân chủ ở các nước đang phát triển.

<i>Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn [60] của tác giả</i>

Nguyễn Văn Mạnh - Tào Thị Quyên. Tác phẩm một lần nữa làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình thức dân chủ trực tiếp trên thế giới và Việt Nam. Đánh giá thực trạng, đồng thời đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay.

<i><b>1.2.2. Cơng trình nghiên cứu về thực hành dân chủ trong môi trườngQuân đội</b></i>

<i>Cuốn “Bàn về dân chủ và kỷ luật trong Quân đội ta” [36] là tập hợp trích</i>

dẫn những quan điểm về dân chủ và kỷ luật trong Quân đội của các lãnh tụ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh và các tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam (Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Văn Tiến Dũng, Song Hào). Hầu hết các lãnh tụ, tướng lĩnh đều cho rằng: do đặc thù của lực lượng Quân đội nhân dân nên thực hành dân chủ rộng rãi, kỷ luật nghiêm minh vừa là một nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, vừa là truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta. Cần phải tăng cường phát huy dân chủ và kỷ luật quân đội, cần thường xuyên coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, đề cao phê bình và tự phê bình theo đúng đường lối quần chúng của Đảng.

<i>Bài viết Toàn quân tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở</i>

[20] của thượng tướng Nguyễn Thành Cung. Cùng với việc phân tích thực trạng thực hiện Quy chế dân chủ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, những thành

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

mạnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

thực hiện Quy chế dân chủ trong Quân đội. Theo tác giả, thực hiện Quy chế dân chủ phải gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng chỉnh đốn Đảng; gắn với thực hiện Quy định 87/QĐ của Quân ủy Trung ương; đồng thời, duy trì hoạt động đối thoại thường xuyên giữa Chính ủy, chỉ huy với sĩ quan, binh sĩ các cấp. Đây là những việc làm cần thiết để phát huy dân chủ trong Qn đội.

<i>Tác giả Hồng Trường có Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong</i>

<i>Quân đội - Mấy vấn đề đặt ra [103]. Bài viết phân tích q trình chỉ đạo của Bộ</i>

Quốc phịng, Tổng cục Chính trị trong việc quán triệt, cụ thể hóa Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong môi trường quân đội. Trên cơ sở phân tích vai trị của Hội đồng qn nhân trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, tác giả đã đề xuất 5 giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ trong Quân đội hiện nay.

<i>Năng lực thực hiện dân chủ trực tiếp của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơsở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [85] là luận án tiến sĩ của Lưu Duy</i>

Toàn. Luận án luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực thực hiện dân chủ trực tiếp của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở, đề xuất yêu cầu, giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực thực hiện dân chủ trực tiếp của hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam.

<i>Bài “Thực hành dân chủ trong Quân đội theo tư tưởng nhân văn quân sự</i>

<i>Hồ Chí Minh” [15] của tác giả Nguyễn Văn Cần. Trên cơ sở tư tưởng nhân văn</i>

quân sự của Hồ Chí Minh, tác giả đã chỉ ra 4 định hướng thực hành dân chủ trong Quân đội: Thực hành dân chủ trong Quân đội vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của quân nhân để đảm bảo sự bình đẳng của mọi người trong một tổ chức xã hội đặc thù - tổ chức quân sự. Thực hành dân chủ trong Quân đội phải thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống tham ơ, lãng phí trong tổ chức. Thực hành dân chủ phải đảm bảo sự đoàn kết, thống nhất và

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

yêu thương giữa đồng chí, đồng đội với nhau. Đặc biệt, thực hành dân chủ phải luôn gắn liền với kỷ luật, kỷ cương Qn đội.

<b>1.3. Giá trị các cơng trình đã tổng quan và những vấn đề luận ántập trung làm rõ</b>

Qua nghiên cứu các cơng trình khoa học đã công bố, những vấn đề sau đây được làm rõ:

<i><b>1.3.1. Các quan niệm về dân chủ và dân chủ XHCN</b></i>

<i>Thứ nhất, dân chủ được tiếp cận dưới các góc độ, phương diện khác nhau,</i>

với những biểu hiện cụ thể của nó như: Dân chủ là một chế độ chính trị, gắn với một kiểu bộ máy nhà nước nhất định; dân chủ là một nguyên tắc tổ chức sinh hoạt (thiểu số phục tùng đa số) của cộng đồng và các tổ chức chính trị - xã hội; dân chủ là một vấn đề chính trị - triết học; dân chủ đề cao sự tự do tham gia của người dân vào cơng việc của Chính phủ… Dân chủ cịn được xem là một hệ giá trị tồn tại vĩnh viễn và là một tất yếu trong tiến trình phát triển của nhân loại, một hiện tượng đang phát triển và chưa biết bao giờ hồn thiện.

<i>Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu đã chỉ ra bản chất, đặc trưng, tính ưu</i>

việt, tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nền dân chủ XHCN. Đó là nền dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân lao động, nền dân chủ được phát triển trên cơ sở kinh tế thị trường định hướng XHCN, tuy nhiên, dân chủ XHCN vẫn là nền dân chủ mang tính giai cấp. Ngồi ra, một số cơng trình đề cập đến q trình xây dựng và hồn thiện nền dân chủ Xơviết, dân chủ XHCN đặc sắc của Trung Quốc; dân chủ XHCN trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam. dân chủ trong Đảng, trong HTCT; tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển dân chủ phục vụ quá trình CNH, HĐH ở nước ta.

<i><b>1.3.2. Các hình thức dân chủ và việc thực hành dân chủ trong một sốđiều kiện cụ thể</b></i>

<i>Thứ nhất, một số cơng trình khẳng định thực hành dân chủ biểu hiện qua</i>

hai hình thức chủ yếu: dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện; cơ sở lý luận, căn cứ

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

của thực hành dân chủ; thực hành dân chủ trong điều kiện Đảng cầm quyền, đặc điểm thực hành dân chủ ở Việt Nam; thực hành dân chủ trong trường học.

<i>Thứ hai, các nghiên cứu khẳng định vị trí, vai trị, ý nghĩa của việc</i>

thực hành dân chủ trong giáo dục và đào tạo. Dân chủ trong trường học sẽ góp phần xây dựng bầu khơng khí cởi mở, làm bừng nở những điều tốt đẹp, tăng khả năng sáng tạo của thầy và trò. Dân chủ là động lực, phương thức thực hiện đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo ở nước ta. Các cơng trình cũng đã chỉ ra những hạn chế thực hiện dân chủ trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam, từ đó, một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình thực hiện dân chủ ở các trường đại học, cao đẳng được đưa ra.

<i><b>1.3.3. Thực hành dân chủ trong Quân đội và năng lực thực hànhdân chủ của người quân nhân</b></i>

Việc thực hiện quy chế dân chủ trong Quân đội; mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật trong Quân đội; ý thức, năng lực thực hành dân chủ của hạ sĩ quan, binh sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân được nhiều tác giả bàn đến trong các cơng trình nghiên cứu của mình. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ trong Quân đội cũng đã được nêu ra.

Như vậy, qua tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài, nhiều vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ XHCN, thực hành dân chủ đã được đề cập, những cơng trình đã cung cấp nguồn tài liệu đa chiều, phong

<i>phú liên quan đến các vấn đề của luận án. Tuy nhiên, “Nâng cao năng lực</i>

<i>thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trườngQuân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” là nội dung chưa được các học giả,</i>

nhà khoa học nào đi sâu nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<i><b>1.3.4. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, làm rõ</b></i>

<i>Một là, Xây dựng hệ thống các khái niệm: dân chủ, năng lực thực hành</i>

dân chủ, nâng cao thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam và những biểu hiện của nó;

<i>Hai là, thực trạng nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào</i>

tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam, đánh giá qua các văn bản sơ tổng kết, qua số liệu khảo sát tại một số học viện, nhà trường Quân đội; những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân; khái quát các vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao năng lực thực hành dân chủ cho học viên hiện nay;

<i>Ba là, đề xuất một số quan điểm, các nhóm giải pháp để tiếp tục nâng cao</i>

năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời gian tới.

<b>Tiểu kết chương 1</b>

Dân chủ luôn được xác định là một giá trị quan trọng, là mục tiêu và khát vọng cao nhất mà con người hướng tới, đó cũng là động lực cho sự phát triển xã hội. Đối với Việt Nam, việc nâng cao năng lực thực hành dân chủ của nhân dân là tất yếu, đòi hỏi khách quan để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng.

Nhiều học giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu, cơng bố các cơng trình khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã gợi mở cho nghiên cứu sinh nhiều vấn đề quan trọng. Từ đó, luận án kế thừa các quan điểm khoa học về dân chủ, thực hành dân chủ trong xã hội, dân chủ trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam, đặc biệt là thực hành dân chủ trong Quân đội và năng lực thực hành dân chủ của người quân nhân cách mạng nói chung, để hoàn thiện các nội dung

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

luận án. Mặt khác, qua nghiên cứu các cơng trình khoa học này cũng cho thấy khoảng trống chưa được đề cập đến và đó là những vấn đề mà nghiên cứu sinh làm rõ trong luận án, gồm: Các vấn đề lý luận về năng lực và nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, dưới góc độ triết học; Thực trạng nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam và những vấn đề đặt ra; Một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời gian tới.

Như vậy, vấn đề nâng cao năng lực thực hành dân chủ của học viên đào tạo kỹ sư quân sự trong nhà trường Qn đội nhân dân Việt Nam chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách độc lập, có hệ thống. Do đó, đề tài luận án khơng trùng lặp với bất cứ cơng trình khoa học nào đã cơng bố.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<b>Chương 2</b>

<b>NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC THỰC HÀNH DÂN CHỦ CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO KỸ SƯ QUÂN SỰ</b>

<b>TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM</b>

<b>2.1. Khái niệm dân chủ và năng lực thực hành dân chủ</b>

<i><b>2.1.1. Khái niệm dân chủ</b></i>

<i>Tư tưởng về dân chủ xuất hiện rất sớm trong triết học phương Đông,qua quan điểm “dân vi bản”. Trong Kinh thư hay còn gọi là Thượng Thư, một</i>

trong những tác phẩm cổ nhất của Trung Quốc, có viết: “Đối với dân nên gần và có tình thân, khơng nên sơ tình mà coi như đệ hạ. Dân là gốc nước. Gốc có vững thì nước mới an bình” [81, tr.11]. Kế thừa tư tưởng “quốc dĩ dân vi bản” nghĩa là “nước phải lấy dân là gốc”, khi bàn về vai trò của dân, Nho giáo coi Vua là thuyền, thứ dân là nước, nước có thể chở thuyền, nước chở thuyền nhưng nước cũng có thể lật thuyền - “Quân giả chu dã, thứ nhân giả thủy dã; thủy tắc tái chu, thủy tắc phúc chu” [10, tr.667]. Điều này vừa chỉ rõ vai trò của dân là “gốc nước”, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của dân đối với các thế lực trị nước, trị dân. So sánh giữa Vua và dân trong ý thức xã hội, Mạnh Tử đã rất dũng cảm khi đánh giá, sắp xếp thứ bậc trong xã hội: Dân là quý nhất, rồi đến xã tắc, Vua là khinh, cho nên được lòng dân rồi mới làm thiên tử - “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, thị cố đắc hồ dân nhi vi thiên tử” [10, tr.635].

Người Việt có vay mượn, sử dụng một số khái niệm, mệnh đề của Nho giáo, nhưng nội dung đã có sự cải biến, thay đổi cho phù hợp. Sử sách nước ta còn ghi lại, nhiều vị vua quan thời Lý - Trần (1009-1400) là những người có lịng thương yêu nhân dân sâu sắc, họ chú trọng đến vấn đề dân sinh và thể

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<i>toàn thư ghi: ngay sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã thực hiện việc miễn thuế</i>

cho dân để thể hiện sự đồng cảm với cuộc sống nhọc nhằn vất vả của họ. Lý Thường Kiệt thì yêu cầu phải thấu hiểu, trọng dân, yêu dân, xem lao động của dân là gốc của nước - “Làm việc cốt tránh phiền dân. Sai khiến dân, cốt khuyên nhủ dân vui theo... Đem bụng khoan thứ cứu dân, lấy lòng nhân ái yêu dân... Lấy sự no đủ làm nguyện vọng của dân, coi việc cày cấy làm gốc của nước...” [9, tr.31]. Trần Quốc Tuấn căn dặn phải “khoan thư sức dân” là chính sách trị nước vơ cùng q báu, là “thượng sách” để giữ nước. Trần Nhân Tông răn bảo các vệ sĩ không được quát mắng, ức hiếp nơ tì vì “ngày thường thì có thị vệ tả hữu, khi quốc gia lâm hoạn nạn thì chỉ có bọn chúng có

<i>mặt” [110, tr.68]. Lý Cơng Uẩn trong Chiếu dời đô đã khẳng định việc dời đô</i>

đến Thăng Long để mưu toan nghiệp lớn, là do “trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân”, đồng thời khẳng định trách nhiệm của bậc Quân Vương là “làm cho dân được giàu của, nhiều người”. Nguyễn Trãi suốt đời mang một hồi bão lớn “u ni nhân dân, để cho các nơi làng mạc khơng có tiếng ốn giận than sầu”. Ông khuyên triều đình phải chăm lo đến cái ăn, cái học của dân, không được sưu cao thuế nặng. Bởi “Đẹp cung thất mà cao đài tạ, tất gây thói tục xa hoa, theo ý mình mà ức lịng người, tất đến trăm năm ốn giận” [99, tr.196]. Vì thế, ơng mơ ước có phép màu đem lại đời sống giàu có cho mọi người dân: “Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng. Dân giàu đủ khắp đòi phương” [10, tr.253].

Tiếp nối tinh thần này, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho có tấm lịng u nước, thương dân. Ông yêu cầu phải thân dân, lấy dân làm gốc. Vì theo Ơng: Xưa nay nước lấy dân làm gốc, được nước nên hay bởi được dân -“Cổ lai quốc dĩ dân vi bản, đắc quốc ưng tri tại đắc dân”.

<i>Theo quan điểm của triết học phương Tây, dân chủ được xem là mộttrong những giá trị quan trọng. Thuật ngữ dân chủ xuất hiện đầu tiên tại</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<i>Athena Hy Lạp với cụm từ δημοκρατία (dimokratia), “quyền lực của nhândân” được ghép từ chữ δήμος (dēmos) nghĩa là “nhân dân”, và κράτος (kratos)</i>

là “quyền lực” vào khoảng giữa thế kỷ thứ VII đến thứ VI trước Công nguyên. Theo cách diễn đạt này, dân chủ theo tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.

Từ rất sớm, Hêraclít cho rằng, hạnh phúc của con người khơng phải ở sự thỏa mãn nhu cầu thể xác mà là ở tư duy, ở chỗ biết nói sự thật, biết lắng nghe tiếng nói của tự nhiên và biết hành động theo tự nhiên [76, tr.26]. Như vậy, theo ông khi nói đến dân chủ, không thể không quan tâm tới ý thức của người dân về quyền làm chủ của mình. Tư tưởng này tiến bộ ở chỗ, nó thúc đẩy sự tự chủ của con người thơng qua hành động dựa trên lý tính, khuyên răn con người biết vươn tới làm chủ chính mình thay vì hưởng thụ những hạnh phúc, tự do được ban phát.

Đêmơcrít nói “nghèo trong một nước dân chủ cịn hơn là giàu có trong một nước độc tài, vì tự do tốt hơn nơ lệ” [76, tr.5]. Đối với Đêmơcrít, hạnh phúc nằm ở việc được tận hưởng một bầu không khí chính trị dân chủ chứ khơng nằm ở sự giàu có hay nghèo khổ.

Platơn cho rằng: chính thể ra đời không “từ cây sồi hay tảng đá”, mà từ con người sống trong cộng đồng” [102, tr.550]. Theo Platôn: “Chính thể hình thành từ con người, đó là con đường duy nhất khả dĩ” [102, tr.551]. Chính con người tạo nên chính quyền và những đặc trưng của chính quyền bị quy định bởi con người. Quan niệm này của Platơn đã đặt nền móng cho các triết gia sau này phát triển lý luận về dân chủ và xây dựng quan niệm về thể chế dân chủ.

Rútxô phê phán gay gắt quan hệ đẳng cấp phong kiến và chế độ chuyên chế, ra sức ủng hộ nền dân chủ tư sản và các quyền tự do, dân chủ của cơng dân, kêu gọi sự bình đẳng của con người bất chấp nguồn gốc xuất thân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Môngtexkiơ cho rằng, nhà nước khế ước là sản phẩm có sau cơng dân và xã hội, chính vì vậy phải có sự kiểm tra, giám sát đối với nhà nước. Để làm được điều đó, Mơngtexkiơ chủ trương chia nhỏ quyền lực nhà nước thành “tam quyền phân lập”, bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Ba quyền này độc lập với nhau và chế ước lẫn nhau.

Nền dân chủ tư sản so với nền dân chủ chủ nô và các chế độ xã hội đã có trước chủ nghĩa tư bản là một bước tiến dài, song hạn chế lớn nhất của dân chủ tư sản là bảo vệ chế độ sở hữu tư nhân. Vì vậy, dân chủ tư sản vẫn là nền dân chủ bảo vệ lợi ích của thiểu số giai cấp. Nhân loại cần một nền dân chủ mới, thực sự cách mạng, đó là nền dân chủ XHCN - nền dân chủ làm cho nhân dân lao động thực sự làm chủ xã hội, làm chủ vận mệnh của mình.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, dân chủ là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thuộc hình thái ý thức xã hội. C. Mác là người đầu tiên đưa ra quan điểm cách mạng trong nhận thức về dân chủ. Theo C. Mác, bản chất của chế độ dân chủ chính là Nhà nước, mà ở đó nhân dân giữ vai trò trung tâm. Nhân dân là lực lượng quyết định, và cũng là lý do để tồn tại của chế độ nhà nước dân chủ. Vì vậy, C. Mác khẳng định: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến Nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như tơn giáo khơng tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo. Ở đây cũng vậy, không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước” [14, tr. 350]. Tóm lại, dân chủ là một thứ quyền lực, mà tất cả các quyền lực đó thuộc về đa số người dân chứ khơng phải của một nhóm người, quyền lực này được nhân dân trao cho Nhà nước của mình, là người đại diện cho mình. Sau này, V.I. Lênin khẳng định lại luận điểm của C. Mác khi cho rằng: “Chế độ dân chủ là chế độ thống trị của đa số với thiểu số” [106, tr.164]. Do vậy, dân chủ được nhìn nhận như một hình thức, một hình thái nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham gia của đông đảo quần chúng

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, để thực hiện sự thống trị đối với thiểu số - những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân.

Kế thừa, vận dụng, phát triển lý luận về dân chủ và xây dựng nền dân chủ XHCN của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh là người nhận thức đúng đắn, sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của dân chủ và thực hành dân chủ. Với quan niệm: “Trong bầu trời không gì q bằng nhân dân. Trong thế giới, khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [44, tr. 453]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm độc đáo, ngắn gọn về dân chủ. Người cho rằng, dân chủ nghĩa là “dân là chủ”, “dân làm chủ”. “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [42, tr. 434]. Bản chất của nền dân chủ XHCN được Người lý giải như sau: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của nhân dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của nhân dân” [41, tr.232].

Như vậy, qua cách diễn đạt của Hồ Chí Minh, dân chủ từ một khái niệm phức tạp trở nên rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ. Dân chủ không chỉ thuần túy một chiều là lợi ích, quyền hạn, mà cịn là trách nhiệm, là công việc, nghĩa vụ của nhân dân. Để dân chủ được hiện thực trong đời sống của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể chế hóa tư tưởng dân chủ vào Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946). Tại Điều 1 của Hiến pháp khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tơn giáo” [78, tr.8].

Trong q trình lãnh đạo cách mạng, nhận thức về dân chủ, xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng Cộng sản Việt Nam đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Hầu hết các văn kiện của Đảng thông qua trong thời kỳ này đều nhấn mạnh quyền dân chủ của nhân dân, chuyên chính

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

vô sản thực chất là quyền làm chủ tập thể của nhân dân, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN.

Tại Đại hội VI (12-1986), Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Thực tiễn cách mạng chứng minh, ở đâu nhân dân lao động có ý thức làm chủ và được làm chủ thật sự thì ở đấy xuất hiện phong trào cách mạng” [24, tr.115]. Từ thực tiễn 10 năm đầu cả nước quá độ lên CNXH, một trong những bài học quan trọng được rút ra là: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động” [24, tr.28]. Phương thức tổ chức vận động nhân dân và cũng là phương châm, khẩu hiệu, cơ chế thực hiện dân chủ thời kỳ đổi mới được Đại hội VI xác định: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đảng cho rằng, đó là nền nếp hằng ngày của dân chủ xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động làm chủ và tham gia quản lý nhà nước của mình.

Đến Đại hội VII (6-1991), nội dung dân chủ luôn ẩn chứa trong mục tiêu phấn đấu của đất nước, đó là: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) của Đảng khẳng định: Toàn bộ tổ chức và hoạt động của HTCT nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội, phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực… “Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, phải được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm” [24, tr.327].

Đại hội VIII (6-1996) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh cơ chế cụ thể để thực hiện dân chủ theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” [23, tr.127]. Đây là bốn yếu tố cơ bản, có quan hệ biện chứng với nhau, thể hiện quan điểm của Đảng về dân chủ.

Tại Đại hội IX (4-2001), dân chủ đã thực sự định hình trong hệ mục tiêu đổi mới, nằm trong chuỗi giá trị của phát triển, đó là: Độc lập dân tộc

</div>

×