Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận ngân hàng tranh chấp tín dụng theo pháp luật hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.61 KB, 25 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TÊN ĐỀ TÀI: TRANH CHẤP TÍN DỤNG THEO PHÁP LUẬT HOA KỲLỜI NĨI ĐẦU</b>

<b>1. Tính cấp thiết</b>

Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội nhằm góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào công cuộc cải tiến đất nước. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày rất đa dạng. Trong lĩnh vực ngân hàng, nhận thấy hợp đồng tín dụng có nhiều trong các giao dịch với các chủ thể có nhu cầu vay vốn. Bởi hợp đồng tín dụng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng. Khi quyền và lợi ích hợp pháp giữa các bên bị ảnh hưởng thì các bên sẽ khởi kiện ra Tòa án hoặc Trọng tài thương mại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng của Tịa án đóng vai trị rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, các nhân, giữ gìn trật tự an tồn xã hội và đặc biệt góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó cần phải hồn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng. Trong những năm qua, pháp luật về tổ chức tín dụng và pháp luật về tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đã được Nhà nước quan tâm và khơng ngừng được hồn thiện. Bên cạnh đó, việc học hỏi từ pháp luật nước ngồi ở các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ cũng sẽ tạo nên bài học kinh nghiệm đáng giá cho pháp luật Việt Nam từ đó tạo ra khung pháp lý quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và kết quả đạt được thì pháp luật về các tổ chức tín dụng và pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cịn rất nhiều bất cập. Để tìm hiểu rõ hơn, nhóm tác giả đưa ra một vụ việc thực tiễn ở Hoa Kỳ và được giải quyết theo pháp luật Hoa Kỳ, được trình bày trong tiểu luận “Tranh chấp tín dụng theo pháp luật Hoa Kỳ”, với bản án của Toà án phúc thẩm Georgia ngày 14/11/2013 về tranh chấp hợp đồng vay giữa ông David Hewitt và ngân hàng Community & Southern. Những lý do nêu trên chính là động lực để nhóm tác giả thực hiện đề tài này.

<b>2. Mục tiêu</b>

Với tiểu luận này, từ bản án thực tế ở Hoa Kỳ, làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp đồng tín dụng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng theo pháp luật Hoa Kỳ lẫn pháp luật Việt

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Nam, chỉ ra được sự khác biệt về những tiêu chí trên giữa hai hệ thống pháp luật. Từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần hồn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường Tòa án ở Việt Nam hiện nay.

<b>3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu</b>

Tiểu luận nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến tín dụng, vụ án thực tế và giải pháp kiến nghị hồn thiện. Tiểu luận khơng nghiên cứu tồn bộ các quy định của pháp luật về hợp đồng tín dụng, mà chỉ tập chung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm về khái niệm hay đặc điểm về tín dụng cũng như hợp đồng cho vay và tìm ra sự bất cập, khó khăn trong thực tiễn.

<b>4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu</b>

Tiểu luận chú trọng phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp cụ thể. Ngồi ra, còn sử dụng các phương pháp phổ biến và hiện đại khác như phương pháp thống kê, phương pháp lý luận Mác - Lênin, phương pháp quan sát khoa học, phương pháp liệt kê so sánh,...

<b>5. Cơ cấu của tiểu luận</b>

Qua tính cấp thiết, mục tiêu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng các phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu áp dụng vào tiểu luận để trình bày vấn đề thơng qua ba phần lớn, như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về tranh chấp tín dụng ngân hàng theo pháp luật Hoa Kỳ

Chương 2: Phân tích tình tiết tranh chấp liên quan đến hợp đồng cho vay trong bản án số A13A1433 của Toà án cấp phúc thẩm Georgia theo pháp luật Hoa Kỳ

<b> Chương 3: Ưu, nhược điểm và giải pháp về hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất</b>

lượng về quy định hợp đồng cho vay tại Hoa Kỳ

<b>CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRANH CHẤP TÍNDỤNG NGÂN HÀNG THEO PHÁP LUẬT HOA KỲ</b>

<b>1.1. Sơ lược cơ sở phát triển của tín dụng</b>

<b>1.1.1. Sơ lược cơ sở phát triển của tín dụng ở Hoa Kỳ</b>

Trước Thế chiến thứ II, phần lớn tín dụng được cung cấp trực tiếp cho khách hàng bởi các nhà bán lẻ. Mối quan hệ tín dụng này được kết nối giữa các nhà bán lẻ và

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

người tiêu dùng của họ thường dựa trên mối quan hệ cá nhân. Ban đầu, các văn phịng báo cáo tín dụng của Hoa Kỳ chỉ đơn thuần là liên minh của các thương gia trao đổi dữ liệu tín dụng với nhau. Các văn phịng tín dụng ban đầu chia sẻ dữ liệu về những khách hàng khơng thanh tốn hóa đơn của họ và được coi là có rủi ro tín dụng tiêu cực. Sau đó, họ trao đổi thơng tin về khách hàng tiềm năng để lấy thông tin về khách hàng hiện tại của họ<small>1</small>.

Từ sau Thế chiến II, ngành tín dụng Hoa Kỳ đã chứng kiến nhiều thay đổi khi nền kinh tế mở rộng. Các ngân hàng và tập đồn tài chính đã thay thế các thương nhân trở thành nguồn tín dụng tiêu dùng chính khi ngành bán lẻ phát triển. Các tổ chức ngân hàng bắt đầu sản xuất thẻ tín dụng có thể được sử dụng trên toàn quốc khi người tiêu dùng trở nên di động hơn. Một hệ thống báo cáo tín dụng quốc gia ngày càng có nhu cầu. Các văn phịng tín dụng giờ đây có thể cung cấp thơng tin tín dụng một cách hiệu quả cho những người cho vay tiêu dùng nhờ sự ra đời của máy tính có thể lưu trữ và giải thích khối lượng dữ liệu khổng lồ. Dữ liệu tín dụng tiêu dùng hiện có thể được báo cáo trên phạm vi tồn quốc. Equifax, Experian và TransUnion đã trở thành ba văn phịng tín dụng thống trị ngành báo cáo tín dụng vào những năm 1980. Nợ tiêu dùng đã tăng từ khoảng 100 tỷ đô la năm 1970 lên hơn 1 nghìn tỷ đơ la vào năm 1995 do có sẵn thơng tin tín dụng tiêu dùng nhưng khi thị trường dữ liệu tín dụng tiêu dùng mở rộng, thì những lo lắng về tính chính xác của dữ liệu và tác hại tiềm ẩn mà dữ liệu sai có thể gây ra cho người tiêu dùng cũng tăng theo<small>2</small>.

<b>1.1.2. Sơ lược cơ sở phát triển tín dụng ở Việt Nam</b>

Tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại và trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội, xuất phát từ tiếng Latinh và được hiểu là quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay để cho vay và đi vay hay còn được hiểu là sự vận động của nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. Trong quan hệ này, bên cho vay có nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng vốn vay hoặc hàng hoá của bên vay trong một thời hạn nhất định cho bên vay và hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay.

Quan hệ tín dụng đã xuất hiện ngay từ thời kỳ chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, nghĩa là khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện đồng thời cũng xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hoá đồng thời hình thành và phát triển hiện tượng phân hố giàu nghèo. Lúc bấy giờ, để duy trì cuộc sống bình thường tất yếu phải diễn ra q trình điều hồ sản phẩm từ nơi thừa sang nơi thiếu. Từ đó, nảy sinh ra hình thức “vay

<small>1 Federal Trade Commission, Consumer Credit Law & Practice in the U.S., </small>

<small> truy cập 25/11/2022.2 Federal Trade Commission, Consumer Credit Law & Practice in the U.S., </small>

<small> truy cập 25/11/2022.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

mượn”. Từ những giai đoạn đầu hình thành, hoạt động tín dụng này chỉ mang tính trợ giúp phi kinh tế nhưng về sau đã trở thành nghề của kẻ giàu hoặc những kẻ môi giới trung gian, những kẻ sống bằng nghề cho vay. Do số lượng người cho vay ít mà người cần vay nhiều cho nên quan hệ tín dụng thuở đầu trong chế độ chiếm hữu nơ lệ và phong kiến này dần trở thành quan hệ tín dụng nặng lãi với việc thu lãi rất cao của những người cho vay.

Tuy nhiên, do sự phát triển hiện đại hố của nền kinh tế thị trường, tín dụng được sử dụng là công cụ nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của các chủ thể mang ba đặc trưng chính. Theo đó, bên cho vay có số vốn chuyển giao cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, bên cho vay chỉ chuyển giao quyền sử dụng chứ không chuyển giao quyền sở hữu. Sau thời gian đã thoả thuận, bên đi vay phải hoàn trả cho bên cho vay một số tiền lớn hơn số tiền vay ban đầu. Bên cạnh đó, tín dụng mang lại vai trị vơ cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường như góp phần điều tiết nhu cầu về vốn trong nền kinh tế, góp phần phát triển đời sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động cũng như tạo điều kiện thúc đẩy nền sản xuất hàng hố phát triển, là địn bẩy trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân.

Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, các hình thức tín dụng cơ bản được pháp luật Việt Nam thừa nhận bao gồm: Tín dụng nhà nước, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng và tín dụng huy động vốn. Trong đó, tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là các tổ chức tín dụng còn bên kia là các tổ chức và cá nhân, được thực hiện thơng qua việc các tổ chức tín dụng huy động tiền nhàn rỗi trong công chúng và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng theo ngun tắc có hồn trả cả vốn và lãi vay. Đây là hình thức tín dụng phổ biến trong nền kinh tế, vì vậy nếu tổ chức tín dụng có cơ chế huy động vốn và cho vay thích hợp thì sẽ có tác dụng rất lớn. Đây thực sự là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn của các tổ chức cũng như về vốn của cá nhân.

<b>1.2. Khái niệm tín dụng và quan hệ tín dụng</b>

<b>1.2.1. Khái niệm tín dụng và quan hệ tín dụng theo pháp luật Hoa Kỳ</b>

Tín dụng là một thành phần quan trọng của nền kinh tế Hoa Kỳ. Một nền kinh tế được quản lý tốt sẽ vận hành trơn tru hơn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng có thể dễ dàng vay tiền. Người tiêu dùng có thể vay tiền hoặc nhận nợ thơng qua hệ thống tín dụng và hoãn trả nợ theo thời gian. Khách hàng có tín dụng có thể mua sản phẩm hoặc tài sản mà không phải trả trước bằng tiền mặt. Một người có lịch

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

sử tín dụng xuất sắc có lịch sử đã được chứng minh là hồn trả 100% các khoản nợ của họ đúng hạn. Một cá nhân có tín dụng tốt sẽ có thể vay tiền trong tương lai đơn giản hơn và với điều kiện tốt hơn. Mặt khác, có một lịch sử tín dụng xấu cho thấy rằng một người trước đây đã phải vật lộn để thanh toán đúng hạn hoặc trả tất cả các khoản nợ của họ và điều này khiến một người khó mua xe hơi, nhà hoặc lấy thẻ tín dụng vì người cho vay ít có khả năng cho người có tín dụng xấu vay thêm tiền. Tiếp cận tín dụng là một nguồn tài nguyên quan trọng mà người ta nên bảo vệ và xử lý một cách thận trọng.

Quan hệ tín dụng là mối quan hệ giữa người tiêu dùng vay tiền từ các chủ nợ như ngân hàng và người cho vay thế chấp. Các chủ nợ này duy trì một hồ sơ về việc mỗi khách hàng trả nợ cho họ như thế nào. Hồ sơ của người tiêu dùng sẽ bao gồm bất kỳ thông tin tiêu cực nào nếu họ thanh tốn trễ hoặc khơng hồn trả tồn bộ số tiền đã vay. Những chi tiết về lịch sử thanh toán của khách hàng sau đó được các chủ nợ chuyển tiếp đến các cơng ty báo cáo của văn phịng tín dụng. Các văn phịng tín dụng tổng hợp tất cả dữ liệu lịch sử thanh toán của một người tiêu dùng do tất cả các chủ nợ của người tiêu dùng đó cung cấp. Sau đó, văn phịng tín dụng tạo một tệp có chi tiết về lịch sử thanh toán của người tiêu dùng. Các chủ nợ trong tương lai sẽ tìm kiếm hồ sơ tín dụng của khách hàng từ văn phịng tín dụng khi người tiêu dùng muốn vay tiền từ họ (ví dụ: để trả tiền mua ô tô hoặc mua nhà). Chủ nợ nhận hồ sơ từ các văn phịng tín dụng và sử dụng nó để xác định xem có nên cho người tiêu dùng vay tiền hay không. Dựa trên các sự kiện trong hồ sơ của khách hàng, nếu chủ nợ xác định rằng người tiêu dùng có rủi ro tín dụng tốt, thì người tiêu dùng có thể sẽ được cho vay. Nếu chủ nợ chọn gia hạn khoản vay, nó cũng sẽ bắt đầu theo dõi lịch sử trả nợ của người vay đối với khoản vay mới và báo cáo dữ liệu đó cho các cơ quan tín dụng để các chủ nợ trong tương lai sử dụng.

Hồ sơ báo cáo tín dụng của một khách hàng bao gồm nhiều thơng tin chi tiết về cá nhân đó và họ đã xử lý tín dụng như thế nào trong quá khứ. Các chi tiết cơ bản bao gồm tên, ngày sinh, địa chỉ và số an sinh xã hội của người đó trước tiên được đưa vào tệp. Bởi vì nó cho phép các văn phịng tín dụng xác định cụ thể từng người tiêu dùng, số an sinh xã hội rất quan trọng, thường được sử dụng làm công cụ chỉ định khi các chủ nợ gửi thông tin mới về người tiêu dùng đến các cơ quan tín dụng để xác định người cụ thể có liên quan đến thông tin mới. Hồ sơ này cũng chứa thông tin chi tiết về bất kỳ khoản tiền nào mà khách hàng đã vay từ một người cho vay nhất định trong quá khứ hoặc, giống như thẻ tín dụng, có thể vay trong tương lai. Hồ sơ sẽ bao gồm tên của người vay, tên của người cho vay, số tiền ban đầu của khoản vay, loại khoản vay

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

(chẳng hạn như thẻ tín dụng, thế chấp mua nhà hoặc khoản vay mua ô tơ) và số tiền mà người vay vẫn cịn nợ đối với khoản vay. Ngồi ra, phần này chứa thơng tin về lịch sử thanh toán của người vay, giúp người cho vay tiềm năng xác định khả năng người vay sẽ hoàn trả khoản vay đầy đủ và đúng hạn. Những người tiêu dùng thường xuyên thanh toán trễ hoặc không trả nợ đầy đủ thường được coi là rủi ro tín dụng kém và người cho vay ít có xu hướng gia hạn tín dụng bổ sung cho họ trong tương lai. Bất kỳ thông tin hồ sơ cơng khai nào có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của người tiêu dùng cũng được liệt kê trong báo cáo tín dụng của họ. Hồ sơ báo cáo tín dụng sẽ bao gồm các chi tiết như liệu khách hàng có nộp đơn xin phá sản gần đây hay khơng, họ có nợ tiền pháp lý hay nợ thuế hay không và các thông tin tương tự khác. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, điểm tín dụng của người tiêu dùng sẽ được đưa vào hồ sơ báo cáo tín dụng của họ. Điểm tín dụng là một con số thể hiện tín dụng của người tiêu dùng đang hoạt động tốt như thế nào. Dựa trên tất cả các dữ liệu tín dụng trước đó trong hồ sơ báo cáo tín dụng của người tiêu dùng, cơ quan tín dụng sử dụng các cơng thức tốn học phức tạp để xác định điểm tín dụng của người tiêu dùng. Tương tự như một chỉ số thống kê, các văn phịng tín dụng cơ đọng một cách máy móc lịch sử tín dụng của người tiêu dùng thành điểm tín dụng. Điểm tín dụng cao hơn thường là kết quả của người tiêu dùng có lịch sử tín dụng và tín dụng tốt hơn. Điểm tín dụng thường được người cho vay và các chủ nợ khác sử dụng để nhanh chóng đánh giá mức độ tin cậy của người đi vay. Người tiêu dùng có điểm tín dụng cao hơn thường được các chủ nợ coi là rủi ro tín dụng tốt hơn và có nhiều khả năng trả lại những gì họ nợ.

Tuy nhiên, nội dung trong hồ sơ của người tiêu dùng có thể khơng chính xác. Bởi vì, hệ thống này khơng hồn hảo, mặc dù các cơ quan tín dụng đã nỗ lực hết sức để cung cấp cho các chủ nợ thơng tin chính xác về người tiêu dùng. Nhưng vẫn có các biện pháp khắc phục tình trạng này, chủ nợ có thể biết thơng tin khơng chính xác về khách hàng theo một trong ba cách. Thứ nhất, các chủ nợ có thể cung cấp thơng tin sai lệch hoặc một phần cho các cơ quan tín dụng về một khách hàng cụ thể. Thứ hai, các văn phịng tín dụng có thể cập nhật hồ sơ của một người tiêu dùng khác bằng cách sử dụng thơng tin họ có được từ các chủ nợ về một người tiêu dùng trước đó. Thứ ba, văn phịng tín dụng có thể vơ tình cung cấp cho chủ nợ hồ sơ của người tiêu dùng khơng chính xác. Khi các chủ nợ xác định một khách hàng có rủi ro tín dụng, các kết quả khơng mong muốn có thể xảy ra do việc sử dụng thơng tin khơng đầy đủ hoặc khơng chính xác. Người cho vay có thể bị thua lỗ nếu họ cấp tín dụng cho người có tín dụng xấu hoặc khơng làm như vậy nếu họ có tín dụng tốt. Lỗi trong các tệp báo cáo tín

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

dụng cũng có thể ngăn cản khách hàng có được một cơng việc tốt, một nơi ở tử tế hoặc những thứ cần thiết khác. Một công cụ để khách hàng sửa bất kỳ lỗi nào trong hồ sơ báo cáo tín dụng của họ là một thành phần cần thiết của một hệ thống tín dụng tiêu dùng hiệu quả.

<b>1.2.2. Khái niệm tín dụng và quan hệ tín dụng theo pháp luật Việt Nam</b>

Như đã trình bày ở sơ lược phát triển tín dụng ở Việt Nam, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phổ biến trong nền kinh tế ở Việt Nam. Theo đó, tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa tổ chức tín dụng là bên cấp tín dụng với các tổ chức và cá nhân là bên đi vay trong đó tổ chức tín dụng thực hiện việc chuyển giao các nguồn vốn tiền tệ hoặc tài sản cho bên đi vay trong một thời gian nhất định theo ngun tắc có hồn trả cả vốn và lãi vay. Trong xã hội hiện nay ln tồn tại một số tổ chức, cá nhân có dư vốn tiền tệ nhưng cũng có một số tổ chức, cá nhân có nhu cầu cần vốn. Như vậy để giải quyết được vấn đề này, tổ chức tín dụng tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng vừa với tư cách là người cấp tín dụng, vừa với tư cách là người đi vay, nghĩa là nguồn vốn mà tổ chức tín dụng sử dụng để cấp tín dụng cũng chính là số vốn mà họ đi vay được<small>3</small>.

Để phân biệt với các hình thức tín dụng khác theo pháp luật Việt Nam, tín dụng ngân hàng có các đặc điểm riêng biệt. Thứ nhất, một bên tham gia quan hệ tín dụng ln là các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác được phép thực hiện hoạt động ngân hàng, nghĩa là tổ chức tín dụng là người trung gian đứng ra điều hồ nhu cầu về vốn cho các chủ thể trong xã hội. Thứ hai, đối tượng cấp tín dụng của tín dụng ngân hàng được biểu hiện dưới hình thức là vốn tiền tệ hoặc tài sản; nghĩa là khác với các chủ thể của các quan hệ tín dụng khác, chủ thể của quan hệ tín dụng ngân hàng có đối tượng là vốn tiền tệ hoặc tài sản. Thứ ba, thời hạn cho vay trong tín dụng ngân hàng rất đa dạng và phong phú; với thời hạn cho vay đa dạng và phong phú, tín dụng ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu về vốn cho các dự án đầu tư dài hạn hoặc các dự án đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhanh chóng thu hồi được vốn và từ đó giúp các doanh nghiệp chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh và thúc đẩy lưu thơng hàng hố được tiến hành một cách nhanh chóng.

Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng có bản chất đặc trưng riêng biệt. Một là, hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng là hoạt động kinh doanh chứa nhiều rủi ro; tuy nhiên vẫn có các biện pháp để phịng ngừa rủi ro như xem xét năng lực tài chính

<small>3 Trường Đại học Luật TPHCM, Giáo trình Luật Ngân hàng (Tái bản lần thứ ba), Nhà xuất bản Hồng Đức, cấpngày 9/5/2022, trang 300 - 301.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

của bên đi vay, yêu cầu bên đi vay phải có tài sản bảo đảm, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay của bên đi vay và còn rất nhiều các biện pháp khác. Hai là, lãi hay lợi tức trong quan hệ tín dụng ngân hàng là giá cả của khoản vay; khác với hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường, lợi nhuận được phân ra chứ không phải được nhân lên. Ba là, lòng tin là yếu tố cơ bản quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng; đối với hoạt động tín dụng ngân hàng, lịng tin đóng vai trị rất quan trọng bởi lẽ tiền vay được hình thành trên cơ sở “đi vay để cho vay” hay tổ chức tín dụng đi mua khoản vay với giá thấp, bán khoản vay với giá cao, phần chênh lệch được gọi là lợi nhuận và khách hàng là người gửi tiền và khách hàng là người đi vay của tổ chức tín dụng thuộc mọi thành phần, hoạt động sản xuất kinh doanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau<small>4</small>.

<b>1.3. Pháp luật áp dụng đối với quan hệ tín dụng</b>

<b>1.3.1. Tổ chức và luật áp dụng đối với quan hệ tín dụng ở Hoa Kỳ</b>

Một trong số các cơ quan liên bang ở Hoa Kỳ giám sát và duy trì các quy định về tín dụng là Federal Trade Commission (FTC). Nghĩa là, Ủy ban Thương mại Liên bang. Tổ chức này được thành lập nhằm bảo vệ khách hàng khỏi các doanh nghiệp sử dụng các thông lệ kinh doanh không công bằng hoặc gây hiểu lầm là một trong những nhiệm vụ chính của FTC và nhiệm vụ này bao gồm cả ngành tín dụng. Mặc dù thiếu quyền điều chỉnh độc lập, FTC thúc đẩy giáo dục người tiêu dùng về tín dụng liên quan đến các vấn đề với hàng tiêu dùng. FTC phát triển các tài liệu hướng dẫn riêng cho người tiêu dùng về tín dụng tiêu dùng và có quyền buộc các cơ quan tín dụng phải làm như vậy. FTC cũng đưa ra ý kiến về cách giải thích luật liên quan đến luật được đề xuất và các vấn đề thực thi dân sự. Một trong những quyền rất quan trọng của FTC là FTC có quyền khởi kiện dân sự đối với các cơng ty có biểu hiện vi phạm pháp luật gây hại cho nhiều khách hàng, nhưng FTC không kiểm tra hoặc điều tra các khiếu nại cụ thể mà trách nhiệm này thuộc về cơ quan có thẩm quyền khác tại Hoa Kỳ.

Về luật áp dụng, có rất nhiều văn bản pháp luật áp dụng cho các quy định liên quan đến tín dụng và một trong các đạo luật có sự điều chỉnh nhất đối với vấn đề này là Fair Credit Reporting Act (FCRA). Nghĩa là Đạo luật Báo cáo Tín dụng Công bằng. Đạo luật này đã được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào năm 1970. FCRA được thành lập để giải quyết các vấn đề liên quan đến việc người tiêu dùng thiếu các biện pháp bảo vệ quyền riêng tư đối với thơng tin tín dụng của họ cũng như việc họ khơng có

<small>4 Trường Đại học Luật TPHCM, Giáo trình Luật Ngân hàng (Tái bản lần thứ ba), Nhà xuất bản Hồng Đức, cấpngày 9/5/2022, trang 301 - 308.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

khả năng phản đối các lỗi trước đó trong báo cáo tín dụng của mình. Bất kỳ tình huống nào trong đó dữ liệu được thu thập và sử dụng để đánh giá khách hàng nhằm mục đích cấp tín dụng, bảo hiểm, việc làm hoặc các dịch vụ đủ điều kiện khác như tiện ích,... đều phải tuân theo FCRA. FCRA được phát triển với ba nguyên tắc chính: sự riêng tư (privacy), sự chính xác (accuracy) và sự cơng bằng (fairness)<small>5</small>.

Thứ nhất, về nguyên tắc sự riêng tư (privacy), FCRA quy định rằng để lấy thơng tin tín dụng từ cơ quan tín dụng, một người hoặc tổ chức phải có "mục đích được phép" để bảo vệ quyền riêng tư của người tiêu dùng. FCRA u cầu các văn phịng tín dụng thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết để đảm bảo rằng họ không tiết lộ thông tin tín dụng của người tiêu dùng cho các bên khơng có nhu cầu chính đáng về thơng tin đó. Mặc dù có một vài trường hợp ngoại lệ, nhu cầu hợp lý đối với báo cáo tín dụng của khách hàng liên quan đến giao dịch kinh doanh mà người tiêu dùng bắt đầu là tiêu chuẩn cho việc sử dụng được phép. Phần lớn thời gian, các mục đích được phép phải thực hiện với các giao dịch tín dụng hay hoạt động cho vay, xem xét hoặc thu thập tài khoản tín dụng hoặc bảo hiểm bảo hiểm. FCRA cũng coi một số loại điều tra của chính phủ và quy trình tư pháp là lý do được ủy quyền. Ngoài ra, nếu khách hàng đồng ý bằng văn bản, văn phịng tín dụng có thể tiết lộ thơng tin tín dụng cho các mục đích sử dụng "bất hợp pháp" khác (chẳng hạn như tiến hành kiểm tra lý lịch việc làm).

Thứ hai, về nguyên tắc sự chính xác (accuracy), theo FCRA, người tiêu dùng có quyền xem thơng tin trong hồ sơ báo cáo tín dụng của họ (ngồi điểm tín dụng của họ) và phản đối bất kỳ điểm khơng chính xác nào. FCRA u cầu các văn phịng tín dụng duy trì các thơng lệ hợp lý để đảm bảo mức độ chính xác cao nhất cho dữ liệu tín dụng tiêu dùng mà họ thu thập. FCRA cũng yêu cầu các chủ nợ cập nhật và sửa đổi thơng tin họ có trong hồ sơ cho các cơ quan tín dụng nếu họ phát hiện ra sai sót. Thêm vào đó, FCRA cũng nêu rõ những hướng giải quyết mà khách hàng có thể làm vì những sai sót trong hồ sơ báo cáo tín dụng của họ. Văn phịng tín dụng được yêu cầu thông báo cho chủ nợ vi phạm về báo cáo của người tiêu dùng về lỗi trong tệp chứa báo cáo tín dụng của người tiêu dùng. Tiếp theo, chủ nợ phải xem xét sự bất đồng và cho văn phịng tín dụng biết kết quả. Trong vịng 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về tranh chấp của người tiêu dùng, văn phịng tín dụng phải thông báo kết quả điều tra cho khách hàng. Người tiêu dùng có cơ hội gửi tuyên bố tranh chấp nếu cuộc điều tra không mang lại bất kỳ sửa đổi nào đối với tệp báo cáo tín dụng của họ. Các chủ nợ trong tương lai sẽ biết về hành vi sai trái bị cáo buộc nếu họ truy cập vào tệp báo cáo

<small>5 Federal Trade Commission, Consumer Credit Law & Practice in the U.S., </small>

<small> truy cập 25/11/2022.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tín dụng của người tiêu dùng<small>6</small>.

Thứ ba, về nguyên tắc sự công bằng (fairness), FCRA trao cho khách hàng quyền được biết liệu thông tin trong hồ sơ báo cáo tín dụng có được sử dụng để đưa ra quyết định từ chối cấp tín dụng cho họ hoặc thực hiện hành động bất lợi khác đối với họ hay khơng. Khi từ chối cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên tệp báo cáo tín dụng, chủ nợ phải thông báo cho khách hàng và tiết lộ cơ quan tín dụng nào trong số ba cơ quan tín dụng đã tạo báo cáo. Ngồi ra, các cá nhân được quyền nhận một bản báo cáo tín dụng miễn phí mỗi năm theo FCRA. Ngồi ra, người tiêu dùng có quyền nhận được một bản sao miễn phí các báo cáo tín dụng của họ trong trường hợp chủ nợ có hành động bất lợi đối với họ hoặc nếu họ trở thành nạn nhân của hành vi trộm cắp danh tính. Tiếp theo, khách hàng có quyền để tìm ra ai có bản sao hồ sơ báo cáo tín dụng của họ theo FCRA. Cuối cùng, sau 7–10 năm, các văn phịng tín dụng phải xóa thơng tin lỗi thời ra khỏi các tệp báo cáo tín dụng. Điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho phép những cá nhân trước đây đã lạm dụng tín dụng của họ cuối cùng sửa chữa hồ sơ tín dụng của họ và một lần nữa kiếm được lợi nhuận từ việc có tín dụng tốt<small>7</small>.

Khơng chỉ FCRA quy định về tín dụng mà cịn nhiều văn bản pháp luật khác cũng điều chỉnh về quan hệ này được thể hiện rõ ràng chi tiết ở những phần sau.

<b>1.3.2. Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng theo pháp luậtViệt Nam</b>

Trong q trình tiến hành hợp đồng tín dụng, các đương sự khó tránh khỏi những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và nghĩa vụ. Khi có tranh chấp xảy ra, để đảm bảo quyền lợi của mình các bên có thể lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cụ thể như: thương lượng giữa các bên; hoặc hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải hoặc giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án. Khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương thức để có quyết định hợp lý<small>8</small>.

<small>6 Federal Trade Commission, Consumer Credit Law & Practice in the U.S., </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Đối với phương thức giải quyết tranh hợp đồng tín dụng bằng thương lượng, phương thức này là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng được giải quyết bằng phương thức này. Bởi vì với phương thức này, các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà khơng cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào. Chính vì điều này, pháp luật khơng đưa ra bất cứ quy định nào cho phương thức giải quyết này. Nếu thương lượng thành cơng thì ít gây phương hại đến quan hệ giữa các bên thậm chí còn được tăng cường về sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau. Tuy vậy, thương lượng thành công phụ thuộc vào các bên có thiện chí hay khơng. Bên cạnh đó, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng không bị ràng buộc bởi bất kỳ các cơ chế pháp lý nào nên kết quả thương lượng cũng không được bảo đảm bởi bất kỳ cơ chế pháp lý nào dẫn đến tính bắt buộc thực hiện khơng cao.

Đối với phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng hịa giải. Theo đó, phương thức này là phương thức mà các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để giải quyết các vấn đề tranh chấp và phải có sự hỗ trợ của bên thứ ba là hịa giải viên. Người trung gian có thể là cá nhân, tổ chức luật sư tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Bên thứ ba trung lập chỉ hỗ trợ các bên đưa ra thỏa thuận, khơng có thẩm quyền phán xét. Phương pháp này cũng phụ thuộc vào thiện chí của các bên và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải. Trong hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ q trình. Việc hịa giải có được tiến hành hay khơng, phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hịa giải viên khơng có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa thuận hòa giải. Các thỏa thuận, cam kết từ kết quả của q trình hịa giải khơng có giá trị bắt buộc cưỡng chế thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí, sự tự nguyện của các bên. Vì vậy, phương pháp này ít được sử dụng.

Đối với phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng trọng tài thương mại, phương thức này bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện và được tiến hành theo quy định của pháp luật. Theo đó, các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn một Trọng tài phù hợp, chỉ định trọng tài viên để thành lập Hội đồng Trọng tài giải quyết tranh chấp với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành. Việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài thương mại trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng. Quyết định của Trọng tài thương mại là

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

chung thẩm, vì vậy nó có giá trị bắt buộc đối với các bên. Việc xét xử tại Trọng tài thương mại chỉ diễn ra ở một cấp xét xử. Hội đồng trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hồn thành nhiệm vụ của mình và chấm dứt sự tồn tại. Giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình. Tuy nhiên, quyết định trọng tải thương mại khơng có tính cưỡng chế cao như quyết định của Toà án.

Đối với phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Tịa án thơng thường, phương thức này được áp dụng khi việc áp dụng phương thức thương lượng và hịa giải khơng cịn có hiệu quả và các bên bên tranh chấp cũng không tự thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại Trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tải, quyết định trọng tài khơng có tính cưỡng chế cao như quyết định của Tịa án và việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng thuận lợi mà phụ thuộc chủ yếu vào thiện chí của các bên, do đó, việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng thơng qua Tịa án là hình thức cuối cùng mà các bên lựa chọn để giải quyết khi tranh chấp khơng cịn lựa chọn nào khác.

<b>1.4. Lý luận về hợp đồng cho vay</b>

<b>1.4.1. Lý luận về hợp đồng cho vay theo pháp luật Hoa Kỳ1.4.1.1. Khái niệm hợp đồng cho vay theo pháp luật Hoa Kỳ</b>

Hợp đồng cho vay theo pháp luật Hoa Kỳ được hiểu là một cách chính thức hóa quy trình cho vay bằng cách tạo ra các hợp đồng có hiệu lực pháp lý giữa hai hoặc nhiều bên. Hợp đồng cho vay được thể hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau, từ các hứa hẹn đến các vấn đề quan trọng hơn như thơng qua thẻ tín dụng và các khoản vay trả trước ngắn hạn hoặc dài hạn. Hợp đồng cho vay cũng là một trong các loại tranh chấp tín dụng vì thế Bản án số A13A1433 của Toà án cấp phúc thẩm Georgia thể hiện rõ bản chất của tranh chấp tín dụng theo pháp luật Hoa Kỳ.

Hợp đồng cho vay xác định số tiền gốc, khoảng thời gian người vay phải trả lại số tiền đó và bất kỳ khoản lãi suất tiềm ẩn nào. Những thứ khác, như thế chấp, là những hồ sơ phức tạp được công khai và cung cấp cho người cho vay quyền thu giữ tài sản của người vay nếu khoản vay khơng được hồn trả theo các điều khoản. Các quy định pháp luật của tiểu bang hay các quy định pháp luật của liên bang ở Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn lãi suất trả nợ bất hợp pháp hoặc quá cao áp dụng cho từng loại hợp đồng cho vay và các điều khoản hoàn trả của nó. Các giao ước, số lượng tài sản thế chấp cơ bản, bảo lãnh, điều khoản lãi suất và khoảng thời gian yêu cầu trả nợ thường được đưa vào các hợp đồng cho vay. Để tránh hiểu lầm hoặc một sự kiện pháp lý có

</div>

×