Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải ngoài tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.52 KB, 100 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




NGUYỄN MINH THÙY






SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
THÔNG QUA HÒA GIẢI NGOÀI TÒA ÁN






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2014




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN MINH THÙY





SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT HOA KỲ
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI
THÔNG QUA HÒA GIẢI NGOÀI TÒA ÁN

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Thủy




HÀ NỘI - 2014





Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Nguyễn Minh Thùy












MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các sơ đồ


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP THƢƠNG MẠI THÔNG QUA HÒA GIẢI NGOÀI
TÒA ÁN
6
1.1.
Khái quát về giải quyết tranh chấp thương mại
6
1.1.1.
Khái niệm về giải quyết tranh chấp thương mại
6
1.1.2.
Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
8
1.2.
Khái quát về giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa
giải ngoài tòa án
14
1.2.1.
Khái niệm về giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải ngoài
tòa án
14
1.2.2.
Bản chất pháp lý của việc giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua hòa giải ngoài tòa án
17
1.2.3.
Đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp thương mại thông
qua hòa giải ngoài tòa án
19
1.2.4.

Nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp thông qua hòa
giải ngoài tòa án
22
1.3.
Cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua hòa giải ngoài tòa án
25
1.3.1.
Học thuyết về tự do ý chí
25
1.3.2.
Học thuyết về hạn chế rủi ro
26
1.3.3.
Học thuyết giải quyết xung đột và tạo lập công lý
27


Chương 2: SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT
HOA KỲ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG
MẠI THÔNG QUA HÒA GIẢI NGOÀI TÒA ÁN
31
2.1.
Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa
giải ngoài tòa án tại Việt Nam
31
2.1.1.
Pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Việt Nam
31

2.1.2.
Chủ thể và đối tượng của việc giải quyết tranh chấp thương
mại thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Việt Nam
35
2.1.3.
Thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp thương mại thông qua
hòa giải ngoài tòa án tại Việt Nam
38
2.1.4.
Hiệu lực của thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Việt Nam
40
2.2.
Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa
giải ngoài tòa án tại Hoa Kỳ
42
2.2.1.
Pháp luật điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Hoa Kỳ
42
2.2.2.
Chủ thể và đối tượng của việc giải quyết tranh chấp thương
mại thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Hoa Kỳ
47
2.2.3.
Nguyên tắc cơ bản của giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Hoa Kỳ
53
2.2.4.
Phương thức và thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại

thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Hoa Kỳ
57
2.2.5.
Hiệu lực của thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Hoa Kỳ
60
2.3.
Bài học cho việc xây dựng pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại thông qua hòa giải ngoài tòa án tại Việt Nam
66

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI THÔNG
QUA HÒA GIẢI NGOÀI TÒA ÁN
70
3.1.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
thương mại thông qua hòa giải ngoài tòa án
70

3.1.1.
Hoàn thiện hành lang pháp lý cho biện pháp giải quyết tranh
chấp thương mại thông qua hòa giải ngoài tòa án
70
3.1.2.
Xây dựng mô hình giải quyết tranh chấp thương mại thông
qua hòa giải ngoài tòa án tại Việt Nam
71
3.2.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh

chấp thương mại thông qua hòa giải ngoài tòa án
73
3.2.1.
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh
chấp thương mại thông qua hòa giải ngoài tòa án
73
3.2.2.
Xây dựng mô hình giải quyết tranh chấp thương mại thông
qua hòa giải ngoài tòa án
82
3.2.3.
Xây dựng và sử dụng án lệ
83
3.2.4.
Các giải pháp bổ trợ
83

KẾT LUẬN
86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
88




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

AAA
:

Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ
ABA


̣
phâ
̣
n gia
̉
i quyết tranh chấp cu
̉
a Liên đoa
̀
n Luâ
̣
t sư
Hoa Kỳ
ADR
:
Các biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế
BLDS
:
Bộ luật dân sự
KDTM
:
Kinh doanh thương mại
UMA
:
Đạo luật hòa giải thống nhất Hoa Kỳ
UNCITRAL

:
Ủy ban liên hợp quốc về luật thương mại quốc tế
VIAC
:
Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế tại Việt Nam
WTO
:
Tổ chức thương mại thế giới




DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
2.1
Quy trình hòa giải tại VIAC
39


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc giải quyết tranh chấp thương mại có vai trò rất lớn trong việc
bảo đảm quyền lợi giữa các bên tham gia, góp phần tạo dựng môi trường
kinh doanh văn minh, lành mạnh. Giải quyết tranh chấp thương mại nhanh
gọn, hiệu quả, ít tốn kém có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia, nhất là
đối với Việt Nam, một nền kinh tế đang phát triển. Xuất phát từ thực tiễn đã

hình thành nhiều phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế, thương mại,
như: thương lượng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục trọng tài, giải quyết theo
thủ tục tư pháp. Trong đó, việc giải quyết tranh chấp theo phương thức hòa
giải (hòa giải ngoài tòa án cũng như hòa giải tại tòa án) có nhiều ưu điểm và
được áp dụng phổ biến trên thế giới. Việc hòa giải thành có tác dụng làm
cho các bên tranh chấp tự nguyện, tự giác thi hành quyết định công nhận sự
thỏa thuận của họ, tránh việc phải sử dụng những biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước trong quá trình thi hành án. Trên thực tế, tại Việt Nam, chế định
hòa giải ngoài tòa án đã được quy định trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
2005, Luật Thương mại năm 2005, Qui tắc hòa giải của Trung tâm Trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC)
Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện hành còn thiếu những quy định
pháp lý cần thiết để phát huy vai trò của hòa giải trong giải quyết tranh chấp
thương mại như: điều kiện hòa giải, trình tự, thủ tục hòa giải, các vấn đề liên
quan đến lựa chọn hòa giải viên, tiêu chuẩn hòa giải viên… Đây là những vấn
đề cần được phân tích, làm rõ để từ đó có những đề xuất xây dựng chế định
hòa giải cụ thể, chi tiết trong việc giải quyết tranh chấp thương mại.
Hiện nay ở các nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật và các nước
Đông Nam Á, phương thức hòa giải ngoài Tòa án được nhiều thương nhân áp
dụng khi gặp bất đồng, tranh chấp trong quan hệ thương mại. Nhiều tổ chức

quốc tế đó ban hành những quy tắc hòa giải với những quy định phù hợp, hiệu
quả được các chủ thể kinh doanh ưu tiên sử dụng. Đặc biệt đối với hệ thống
pháp luật Hoa Kỳ, là một trong những hệ thống pháp luật đề cao vai trò của
các phương thức giải quyết thay thế. Hoạt động hòa giải tại Hoa Kỳ phát triển
rộng rãi trong các thập kỷ trước, nhưng chỉ kể từ khi Đạo luật hòa giải thống
nhất (Uniform Mediation of American - UMA) năm 2001 được thông qua,
hoạt động hòa giải mới chính thức được công nhận như một phương thức giải
quyết tranh chấp chuyên nghiệp.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện về mặt lý luận

cũng như thực tiễn chế định hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế không
những mang tính thời sự đối với ngành tòa án mà còn đáp ứng những đòi hỏi
cấp thiết của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam. Từ đó, tác giả chọn vấn đề: "So sánh pháp luật Việt Nam và pháp
luật Hoa Kỳ về giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải ngoài
tòa án" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ.
Qua việc so sánh với hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, tác giả làm rõ những
nội dung, đặc điểm và bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại thông qua hòa giải; phân tích, so sánh và tổng hợp những kiến thức lý
luận cũng như thực tiễn về hòa giải ở Việt Nam với pháp luật Hoa Kỳ; đề xuất
những phương hướng và biện pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp thương mại bằng phương pháp hòa giải. Từ đó đề xuất
những quy định cụ thể, chi tiết trong việc xây dựng chế định độc lập về hòa
giải ngoài tòa án ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay các công trình nghiên cứu công phu về vấn đề này chưa
nhiều, lác đác chỉ có một số bài viết, một số các nghiên cứu rải rác như:
- Đề tài "Các phương pháp giải quyết tranh chấp kinh tế ở Việt Nam"
(1999) thuộc dự án VIE/94/003 của Bộ Tư pháp;

- Bài viết "Hòa giải - một phương thức giải quyết tranh chấp thay
thế", ThS. Dương Quỳnh Hoa, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 2012;
- Bài viết "Về các phương thức giải quyết tranh chấp chủ yếu tại Việt
Nam trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư nước ngoài" (1999), Tác giả: Hoàng Thế
Liên - được in trong số chuyên đề về "Các phương thức giải quyết tranh chấp
kinh tế ở Việt Nam hiện nay", Thông tin Khoa học pháp lý, Viện Nghiên cứu
Khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp;
- Dự án điều tra cơ bản "Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam và vai trò của các thiết
chế tư pháp, bổ trợ tư pháp" (2011), Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp).

Trong đó, gần như chỉ nghiên cứu về các phương pháp hòa giải tại tòa
án, mà lại bỏ qua các vấn đề về hòa giải thương mại ngoài tòa án - vốn dĩ là
một phương pháp giải quyết tranh chấp hiệu quả giữa các thương nhân. Do đó,
tác giả chọn đề tài này với mong muốn tìm hiểu, nghiên cứu một cách sâu sắc
và đầy đủ về phương thức hòa giải trong kinh doanh ngoài con đường tố tụng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
- Tìm ra các thiếu sót, bất cập, và hạn chế của pháp luật trong việc
giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại (KDTM), và việc áp dụng
các quy định của pháp luật vào thực tiễn giải quyết các tranh chấp KDTM.
- Chỉ ra sự thiếu hụt của pháp luật trong việc quy định về hòa giải -
với tư cách là một phương pháp giải quyết thay thế.
- Đưa ra hướng hoàn thiện và bổ sung về nguyên tắc, mô hình,
phương pháp, thủ tục trong việc sử dụng hòa giải ngoài tòa án như một
phương pháp giải quyết tranh chấp KDTM hữu hiệu.
Mục tiêu cụ thể
- Giải quyết được một số vấn đề lý luận có liên quan như: các phương
pháp giải quyết tranh chấp thay thế, vai trò và đặc điểm của hòa giải thương
mại, sự phát triển của chế định hòa giải thương mại trên thế giới và Việt Nam.

- Nghiên cứu các trường hợp giải quyết KDTM thông qua hòa giải
ngoài tòa án.
- Nghiên cứu và so sánh các quy định pháp luật nước ngoài về hòa
giải thương mại ngoài tòa án.
- Phân tích mối liên hệ giữa hòa giải thương mại trong hệ thống các
phương pháp giải quyết tranh chấp thay thế, sự tương tác giữa cơ quan hòa
giải, trọng tài thương mại và tòa án trên cơ sở đó có những đề xuất nhằm đảm
bảo tính hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp về KDTM, và giảm
thiểu áp lực đối với tòa án tại Việt Nam.
4. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn

Việc nghiên cứu đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những
quy phạm pháp luật đầy đủ, phù hợp với thực tiễn và là cơ sở pháp lý cho việc
áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, những kiến
nghị của đề tài này hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn
thiện các quy định pháp luật của Việt Nam trong lĩnh vực này.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải có sự nghiên cứu của chế định hòa giải
ngoài tòa án một cách toàn diện, đầy đủ, có cả lý luận và thực tiễn, nhằm nâng
cao hiệu quả của việc hòa giải. Do đó, luận văn góp phần luận giải những vấn
đề lý luận về việc giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng phương thức hòa giải
ngoài tòa án ở Việt Nam, đồng thời làm sáng tỏ hình thức, điều kiện, thủ tục
hòa giải và hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự. Từ đó, luận văn góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
hòa giải tranh chấp kinh tế cũng như trong việc nghiên cứu về chế định hòa
giải các tranh chấp kinh tế tại Việt Nam.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật Hoa Kỳ về hòa giải ngoài tòa án trong việc giải quyết các
tranh chấp kinh tế.

Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về các phương pháp giải
quyết tranh chấp ngoài tòa án (hay còn gọi là "Các phương pháp giải quyết
tranh chấp thay thế" - ADR), trong đó đi sâu nghiên cứu các quy định của
pháp luật về chế định hoàn giải nhằm xây dựng cơ chế pháp lý để giải quyết
các tranh chấp KDTM.
Luận văn phân tích, xem xét các trường hợp tranh chấp KDTM thông
qua hòa giải, đồng thời so sánh đối chiếu với các quy định của pháp luật nước
ngoài, từ đó tìm ra những bất cập, hạn chế và kiến nghị những giải pháp nhằm
hoàn thiện các qui định của pháp luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn
quá trình giải quyết tranh chấp KDTM tại Việt Nam và Hoa Kỳ, tìm ra những
vướng mắc, bất cập trong việc giải quyết các tranh chấp KDTM hiện nay, và
khả năng của tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp KDTM.
Đề tài tập trung nghiên cứu đi sâu xem xét và nghiên cứu phương
pháp hòa giải trong các tranh chấp KDTM với tư cách một "phương pháp giải
quyết tranh chấp thay thế" - một phương pháp giải quyết phổ biến, hữu hiệu,
song còn rất hạn chế ở Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu luật truyền thống như so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại
thông qua hòa giải ngoài tòa án.
Chương 2: So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về giải
quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải ngoài tòa án.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp thương mại thông qua hòa giải ngoài tòa án.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƢƠNG MẠI THÔNG QUA HÒA GIẢI NGOÀI TÒA ÁN

1.1. Khái quát về giải quyết tranh chấp thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp thương mại
Thuật ngữ "Tranh chấp thương mại" ngày càng được được sử dụng
nhiều trong khoa học pháp lý nói riêng và trong đời sống xã hội nói chung.
Thông thường tranh chấp được hiểu là "sự giành giật, giằng co nhau cái

không thuộc về bên nào" [34, tr. 139]. Khi đề cập đến khái niệm tranh chấp
thương mại, người ta thường hiểu là những mâu thuẫn, xung đột hoặc bất
đồng giữa các chủ thể trong hoạt động thương mại. Bên cạnh thuật ngữ "tranh
chấp thương mại", các thuật ngữ khác cũng được sử dụng khá rộng rãi như
"tranh chấp kinh tế", "tranh chấp hợp đồng kinh tế", "tranh chấp kinh doanh
thương mại" Trên thực tế, pháp luật Việt Nam cũng đã có những khái niệm
khác nhau về loại tranh chấp này. Trước đây, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế 1994 quy định, tranh chấp kinh tế là các tranh chấp về hợp đồng
kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với các nhân có đăng ký
kinh doanh; ii) Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể công ty; iii) Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu;
iv) Các tranh chấp kinh tế khác theo quy định của pháp luật [32, Điều 12].
Đây là khái niệm "tranh chấp kinh tế" được giải thích theo hướng liệt kê, nên
không thể phản ánh hết những quan hệ phát sinh trong hoạt động thương mại
ngày càng thay đổi, đa dạng và phức tạp. Để khắc phục, Luật Thương mại
1997 lần đầu tiên đưa ra khái niệm "tranh chấp thương mại", theo đó, định
nghĩa "Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại" [16, Điều 238].

Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa tương thích với quan niệm phổ biến của
các nước trên thế giới về tranh chấp thương mại và có nội hàm rất hẹp. Cụ thể
tại Luật thương mại 1997 quy định hoạt động thương mại được hiểu là việc
thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến
thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách
kinh tế - xã hội [16, Điều 5]. Ngoài ra, khi Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003 ra đời, đã quy định hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi;

thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài
chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành
khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành
vi thương mại khác theo quy định của pháp luật [33, Điều 2].
Hiện nay, Luật Thương mại 2005 ra đời đã giải quyết vấn đề này bằng
việc mở rộng nội hàm hoạt động thương mại, theo đó quy định: "Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác" [18, Điều 3]. Có thể thấy, mọi hoạt động có mục đích
"sinh lợi" đều được coi là hoạt động thương mại. Trên thực tế, hướng tiếp cận
này của Luật Thương mại 2005 tương đồng với khái niệm kinh doanh trong
Luật Doanh nghiệp 2005 và các quan điểm về tranh chấp thương mại trong
các văn bản pháp luật hiện hành. Như vậy, có thể hiểu tranh chấp thương mại
là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các
chủ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.
Trong luận văn này, các thuật ngữ "tranh chấp kinh doanh thương mại",
"tranh chấp kinh doanh" có nội hàm và bản chất giống khái niệm "tranh chấp
thương mại", được sử dụng tương ứng với nhau và có thể thay thế nhau.

1.1.2. Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp thƣơng mại
Phương thức giải quyết tranh chấp thương mại được hiểu là các hoạt
động điều chỉnh các bất đồng, các xung đột nhằm khắc phục và loại trừ các
tranh chấp đã phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
thương nhân và các chủ thể kinh doanh khác. Tùy thuộc vào trình độ phát
triển của các quan hệ kinh tế xã hội và do những ảnh hưởng của những đặc điểm
về phong tục, tập quán, các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại được
pháp luật của mỗi quốc gia được quy định không giống nhau. Nhìn chung, khi
xảy ra tranh chấp thương mại, luật pháp của các nước đều quy định phương
thức giải quyết tranh chấp bằng con đường tòa án và ngoài tòa án [24].
Việc giải quyết các tranh chấp thương mại dựa trên nguyên tắc quan

trọng là quyền tự định đoạt của các bên, theo đó, các bên có thể lựa chọn việc
giải quyết tranh chấp thương mại thông qua các phương thức như: Thương
lượng, hòa giải, trọng tài và Tòa án.
1.1.2.1. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng là biện pháp các
bên sử dụng để trao đổi bàn bạc và đi đến thống nhất chung cho việc giải
quyết các vướng mắc, mâu thuẫn. Các bên có thể trao đổi, tiến hành thương
lượng thông qua đại diện của mỗi bên, có thể là người đại diện theo pháp luật,
người được ủy quyền trên cơ sở các buổi làm việc trực tiếp hoặc trao đổi
thông tin bằng văn bản. Trong hình thức thương lượng, các bên có quyền tự
do ý trí, bình đẳng, cùng nhau xem xét vấn đề toàn bộ tranh chấp thương mại
trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành. Nếu các bên đạt được sự
thoả thuận thì coi như tranh chấp được giải quyết. Biện pháp được coi là biện
pháp giải quyết tranh chấp thương mại đơn giản, tiết kiệm được thời gian và
chi phí đối với mỗi bên. Việc thương lượng còn thể hiện sự thiện chí thương
lượng của các bên trong việc giải quyết tranh chấp, bởi sau khi đã thoả thuận
thống nhất các bên vẫn giữ được mối quan hệ tốt với nhau cũng như giữ được

uy tín và bảo mật được giao dịch tín dụng. Tuy vậy biện pháp thương lượng
chỉ thật sự hiệu quả và thành công khi các bên cùng có thiện chí trong việc
giải quyết tranh chấp thương mại.
1.1.2.2. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hoà giải
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hoà giải là hình thức giải
quyết tranh chấp thương mại giữa các bên thông qua một người thứ ba gọi là
hoà giải viên. Hoà giải viên được các bên lựa chọn để tạo điều kiện giúp các
bên đạt được giải pháp điều hoà lợi ích, giúp xử lý những mâu thuẫn, bất
đồng đã phát sinh trong hoạt động thương mại. Khi giải quyết tranh chấp
thương mại, hoà giải viên có thể tổ chức họp kín với riêng từng bên hoặc họp
chung với các bên có tranh chấp để tìm hiểu kỹ nội dung tranh chấp, đưa ra
những lý giải, phân tích cho các bên. Qua đó giúp các bên thấy rõ lợi ích của

mình và của bên kia để cùng tìm ra một giải pháp thống nhất giải quyết tranh
chấp một cách hợp tình, hợp lý. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hoà
giải là hình thức giải quyết tranh chấp mang tính chất tự nguyện và mang đầy
đủ những ưu điểm giống như biện pháp thương lượng. Ngoài ra, hoà giải còn
có những ưu điểm như hoà giải viên thường là những chuyên gia am hiểu về
vấn đề đang tranh chấp, có khả năng phân tích chính xác, rõ ràng các vấn đề
thực tế trong tranh chấp, từng bước giúp các bên xử lý những bất đồng để đi
đến thống nhất.
1.1.2.3. Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua thủ tục trọng tài
Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua thủ tục trọng tài là hình
thức giải quyết tranh chấp thông qua quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với các
quy định của pháp luật. Pháp luật hiện hành quy định, tranh chấp được giải
quyết bằng trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 5 Luật trọng tài 2010 thì thỏa thuận trọng tài có thể được lập
trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp thương mại. Theo đó, để tranh chấp
thương mại được giải quyết bằng biện pháp Trọng tài, giữa các bên phải có

một thỏa thuận trọng tài phù hợp với quy định pháp luật và xác định trọng tài
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại. Nếu các bên đã thỏa thuận
về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng, nhưng thỏa thuận trọng tài không có
giá trị pháp lý thì trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết. Do vậy,
thỏa thuận trọng tài được xem là vấn đề then chốt, nếu không có thỏa thuận
trọng tài thì sẽ không có việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Ưu điểm của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài là có tính linh hoạt, tạo quyền chủ động cho các bên, giúp tiết kiệm
được thời gian khi thực hiện thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật của
các bên. Bởi trọng tài tiến hành giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc bản án,
quyết định trọng tài không được công bố công khai, rộng rãi. Với nguyên tắc
này các bên có thể giữ được bí mật liên quan đến tranh chấp thương mại.
Gần đây phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài

cũng đã ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, bức tranh về trọng tài thương
mại tại Việt Nam vẫn chưa thật sự khởi sắc khi phương thức này chỉ giải
quyết khoảng 11% tổng số tranh chấp thương mại [27, tr. 1]. Nguyên nhân là
do những quy định của pháp luật hiện hành còn nhiều thiếu sót, chồng chéo,
chưa rõ ràng cụ thể. Bên cạnh đó, thói quen, tập quán của thương nhân Việt
Nam tin tưởng tòa án hơn trọng tài. Trên thực tế, việc thi hành quyết định
trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản
án, quyết định của tòa án, nên việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài vẫn được sử dụng thường xuyên và phổ biến. Hơn nữa, chi phí giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại còn cao cũng là một rào cản làm
cho trọng tài thương mại chưa phát huy hết hiệu quả.
1.1.2.4. Giải quyết tranh chấp thương mại theo thủ tục Toà án
Toà án được coi là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét
xử nhân danh quyền lực nhà nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục
nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án, quyết định của Toà án về vụ tranh chấp nếu

không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế nhà nước. Nếu như việc giải quyết tranh chấp bằng thương lượng,
hòa giải và trọng tài mang đặc điểm tôn trọng quyền thỏa thuận hay ý chí của
các bên tham gia để đưa ra phán quyết thì đặc trưng cơ bản của thủ tục giải
quyết tranh chấp bằng tòa án là thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và
nhân danh quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ
thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế. Do là cơ quan xét xử của Nhà nước
nên phán quyết của tòa án có tính cưỡng chế cao, nên khi một trong các bên
không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án sẽ bị cưỡng chế.
Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự thì những tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án là tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh
doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và
đều có mục đích lợi nhuận. Theo quy định của pháp luật hiện hành, về thẩm

quyền của Toà án các cấp, thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền của Toà
án theo sự lựa chọn của nguyên đơn cần lưu ý: i) Tòa án cấp huyện có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp thương mại; ii) Nếu hoạt động thương mại có yếu
tố nước ngoài, thì việc giải quyết tranh chấp thương mại không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện, mà thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án cấp tỉnh.
Thứ hai, quyền khởi kiện tranh chấp thương mại. Theo quy định của
pháp luật hiện hành, khi xảy ra tranh chấp thương mại, một trong các bên có
quyền quyết định việc khởi kiện, tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp khởi kiện vụ án tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc tranh chấp
thương mại khi có đơn khởi kiện của các bên và chỉ giải quyết trong phạm vi
đơn khởi kiện đó. Nếu cá nhân tham gia vào hoạt động thương mại mà khởi
kiện tại Tòa án, thì cá nhân phải là người phải có đầy đủ năng lực chủ thể (có

đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự). Nếu tổ chức tham
gia vào hoạt động thương mại mà khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu giải quyết
tranh chấp hợp đồng tín dụng, thì tổ chức thông qua người đại diện theo pháp
luật hoặc người đại diện theo ủy quyền hợp pháp tham gia tố tụng.
Thứ ba, về thời hạn giải quyết của Tòa án. Theo quy định tại điểm m
khoản 1 Điều 29 và khoản 1 Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự, thì thời hạn
chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với tranh chấp thương mại là hai tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án. Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách
quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử,
nhưng không quá một tháng đối với vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng. Việc
giải quyết tranh chấp thương mại thông qua tòa án có hạn chế lớn là do thời
gian xét xử thường phải kéo dài hơn so với giải quyết tranh chấp thương mại
phương thức khác. Các thủ tục tư pháp hiện nay thường phức tạp và mất thời
gian, bao gồm việc thụ lý đơn, ra quyết định và cuối cùng là thi hành án. Trên
thực tế, việc giải quyết của Tòa án ở hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm có

thể kéo dài đến 1 năm. Ngoài ra, ngay cả khi đã có phán quyết cuối cùng của
Tòa án cấp phúc thẩm thì phán quyết đó vẫn có thể bị xem xét lại theo cấp
giám đốc thẩm do sự suy xét của Tòa án cấp tối cao. Tiếp theo đó là những
khó khăn của quá trình thi hành án liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm. Ngoài
ra, việc lựa chọn phương thức này cũng có những nhược điểm nhất định vì
thủ tục tại tòa án thiếu linh hoạt do đã được pháp luật quy định trước đó.
Trên thực tế, việc giải quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam
chủ yếu được xét xử thông qua hệ thống tòa án và trung tâm trọng tài. Thực
tế, hệ thống tòa án đã trở nên quá tải, dẫn đến tăng lượng vụ án tồn đọng,
không kịp giải quyết, do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong năm 2012 (tính từ 01/10/2011-30/9/2012), tòa án các
cấp xét xử 332.868 vụ án các loại trong tổng số 360.941 vụ án đã thụ lý (đạt
92%) [27, tr. 2]. Theo số liệu của Tòa án nhân dân tối cao (tháng 3/2013),

trong tổng số gần 400 vụ án cần được xét xử giám đốc thẩm của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhưng Hội đồng này chỉ họp toàn thể để
xét xử được hơn 200 vụ. Tình hình đó ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, gây
áp lực cao đối với các thẩm phán, ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các
doanh nghiệp về mức độ an toàn pháp lý trong hoạt động kinh doanh, thương
mại [27, tr. 3].
Như vậy, thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại đang đặt ra yêu
cầu đa dạng hóa phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án để giảm tải
gánh nặng cho hệ thống tòa án, qua đó góp phần lành mạnh hóa hoạt động
kinh doanh thương mại [27, tr. 2]. Một trong những phương thức phổ biến
trên thế giới hiện nay là giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải ngoài tòa án
hay hòa giải thương mại. Trong vòng vài thập kỷ gần đây, việc phát triển
mạnh mẽ của hệ thống giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải,
trọng tài đã khiến các nhà lập pháp nhìn nhận lại vai trò tuyệt đối của tòa án.
Theo đó, xuất hiện sự phân biệt phương thức đại diện cho quyền lực công - Tòa
án và một bên là các phương thức lựa chọn bởi các chủ thể - Phương thức giải

quyết tranh chấp thay thế. Dù phương thức giải quyết tranh chấp thay thế
(Alternative Dispute Resolution - ADR) đã phát triển mạnh mẽ và được sử dụng
tại nhiều nước khác nhau, nhưng vẫn có sự e ngại nhất định về việc chính thức
công nhận nó. Sự e ngại này là do rất nhiều người vẫn còn có quan điểm tuyệt
đối hóa vài trò của Tòa án, đề cao vai trò giải quyết tranh chấp của Tòa án và cho
rằng ADR có sự đối lập với trình tự, thủ tục tố tụng và xét xử tại tòa án, nếu
công nhận ADR đồng nghĩa với với việc không coi trọng vị trí, vai trò của tòa
án. Tại Việt Nam, giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hòa giải với tư
cách là một phương thức giải quyết tranh chấp độc lập chưa được công nhận
mặc dù trong thực tế, một số tổ chức, doanh nghiệp đã sử dụng hòa giải để
giải quyết các tranh chấp của mình [27, tr. 2]. Do vậy, việc đa dạng hóa

phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án để giúp các giải quyết tranh
chấp thương mại dung hòa được các lợi ích của các bên là điều cần thiết.
1.2. Khái quát về giải quyết tranh chấp thƣơng mại thông qua hòa
giải ngoài tòa án
1.2.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải ngoài
tòa án
Thuật ngữ "trung gian (mediation)" và "hòa giải (conciliation)" được
dùng để chỉ một biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế và có sự tham gia
của một bên thứ ba độc lập nhằm thúc đẩy, hỗ trợ các bên đạt được sự đồng
thuận, giải quyết được các mâu thuẫn, bất đồng phát sinh trong quá trình KDTM.
Trên thực tế, thuật ngữ "trung gian (mediation)" và "hòa giải (conciliation)"
thường được sử dụng thay thế nhau, sự khác nhau giữa hai thuật ngữ này chỉ
thể hiện ở mức độ tham gia đề xuất phương thức giải quyết tranh chấp của
người trung gian hòa giải để các bên quyết định, tùy theo pháp luật của các
nước [38, tr. 584-585]. Luật mẫu của Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương
mại quốc tế (United Nations Commission on International Trade Law -
UNCITRAL) về hòa giải không phân biệt trung gian và hòa giải. Theo đó, tại
khoản 3 Điều 1 Luật mẫu của UNCITRAL về hòa giải định nghĩa:

Hòa giải là một trình tự được hiểu là trình tự hòa giải, trung
gian hoặc một thể hiện tương tự mà các bên yêu cầu bên thứ ba
(hòa giải viên) trợ giúp các bên đạt được thỏa thuận giải quyết tranh
chấp; hòa giải viên không có thẩm quyền ép các bên tuân theo một
giải pháp nào [62].
Còn Trung tâm Giải quyết tranh chấp hiệu quả (CEDR) của Anh, một
trong những tổ chức cung cấp dịch vụ ADR hàng đầu trên thế giới đã định
nghĩa hòa giải là một quá trình linh hoạt được tiến hành không công khai mà
trong đó một người trung gian sẽ hỗ trợ các bên một cách tích cực trong việc
đạt được thỏa thuận thương lượng về một sự khác biệt hay tranh chấp, các bên

nắm quyền kiểm soát chính về quyết đi
̣
nh giải quyết tranh chấp và các quy định
về giải quyết tranh chấp [39]. Trên thực tế hòa giải là hành vi thuyết phục các
bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa [46, tr. 67].
Ngoài ra, hòa giải cũng là giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều
bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thương lượng với nhau có sự tham
gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh chấp) [51, tr. 91]. Tại Điều 317
Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam cũng quy định hòa giải giữa các
bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận làm trung
gian hòa giải [18]. Từ các định nghĩa này, có thể thấy, hòa giải là phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại, các định nghĩa về hòa giải đều thừa nhận vai
trò của hòa giải viên như là một thành phần trung gian hỗ trợ tích cực cho quá
trình hòa giải.
Như vậy, hòa giải được hiểu là một biện pháp giải quyết tranh chấp,
theo đó, với sự giúp đỡ của một bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian, các
bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp phù hợp với quy
định pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội. Hòa giải thương mại ngoài tòa án
được hiểu là một thủ tục trong đó một người hay một nhóm người (hòa giải

viên) sẽ trợ giúp các bên trong việc giải quyết tranh chấp. Có thể thấy khác
với phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng (negotiation) - chỉ
có sự tham gia của các bên tranh chấp, trong hòa giải có sự tham gia trợ giúp
của bên thứ ba (hòa giải viên). Khác với trọng tài, trong hòa giải, các bên
tranh chấp hoàn toàn làm chủ quá trình giải quyết tranh chấp và kết quả cuối
cùng. Sự trợ giúp của người thứ ba (hòa giải viên) mang tính trung lập và
người thứ ba không có quyền (khác với trọng tài) áp đặt giải pháp/kết quả giải
quyết tranh chấp cho các bên [26, tr. 5-15.].
Tại Việt Nam, sau khi đất nước dành được độc lập (tháng 9/1945),
ngay trong Điều 3 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chủ tịch nước quy
định: "Ban tư pháp xã có quyền: Hòa giải toàn bộ các việc dân sự và thương

sự. Nếu hòa giải được, ban tư pháp có thể lập biên bản hòa giải có các ủy viên
và những đương sự ký" [4]. Ngày 25/09/1989, Hội đồng Nhà nước ban hành
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, trong Pháp lệnh này, lần đầu tiên hòa giải trong
giải quyết tranh chấp kinh tế được ghi nhận trong Điều 7: "Các tranh chấp
phát sinh khi thực hiện hợp đồng kinh tế được giải quyết bằng cách tự thương
lượng giữa các bên hoặc đưa ra trọng tài kinh tế" [10]. Ngay sau khi có Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế, ngày 10/01/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp
lệnh Trọng tài kinh tế, Trọng tài kinh tế là cơ quan của Chính phủ làm trọng
tài nhằm giải quyết các tranh chấp kinh tế. Tuy nhiên, vì Trọng tài kinh tế
không phát huy được vai trò trong thời kỳ chế độ kế hoạch hóa nền kinh tế,
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh không nhiều, các tranh
chấp lại phần lớn do cơ quan chủ quản, cấp trên đứng ra dàn xếp giải quyết.
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới của hoạt động kinh tế, Tòa Kinh tế được thành
lập trên cơ sở Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/03/1994,
Trọng tài kinh tế chấm dứt sự tồn tại của mình.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996 đã ghi nhận hòa giải là
một trong những biện pháp đầu tiên để các chủ thể lựa chọn khi có tranh chấp
thương mại xảy ra:

Các tranh chấp giữa các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh hoặc giữa các bên liên doanh cũng như các tranh chấp giữa
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp
đồng hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp Việt Nam trước hết
phải được giải quyết thông qua hòa giải [15, Điều 24].
Khi Luật Thương mại 1997 ra đời, tiếp tục khẳng định hòa giải là một
trong những phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Lần đầu tiên, luật
đã ghi nhận các bước của quá trình giải quyết tranh chấp thương mại và hòa giải
viên có thể là tổ chức, cá nhân cụ thể: "Các bên tranh chấp có thể thỏa thuận chọn
một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân làm trung gian hòa giải " [16, Điều 239].

Với sự phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp của các tranh chấp
KDTM, các bên nhận thấy rằng cần phải tìm một cơ chế thích hợp để giải
quyết để đảm bảo các bên cùng thành công trong việc giải quyết tranh chấp
(cơ chế win-win). Đây chính là sự manh nha phát triển của hệ thống hòa giải
chuyên nghiệp ở Việt Nam. Chỉ đến khi VIAC xây dựng và ban hành Quy tắc
hòa giải, thì lần đầu tiên hòa giải với tư cách là một phương thức giải quyết
tranh chấp độc lập mới được ghi nhận chính thức. Đây là một nỗ lực lớn của
VIAC trong việc định hướng cho các bên lựa chọn hòa giải viên và khuyến
nghị trình tự, thủ tục cho các bên lựa chọn làm căn cứ cho quá trình hòa giải
ngoài toà án. Đối với hòa giải tại VIAC, các quy định về hòa giải tuy có chi
tiết và quy mô, song nhìn chung vẫn chưa thể hiện được một cách triệt để tính
chất trung gian hòa giải. Như vậy, có thể thấy sự phát triển của chế định hòa
giải tại Việt Nam không thống nhất, quy định rải rác ở nhiều văn bản pháp
luật khác nhau. Nhìn chung các quy định bước đầu mới chỉ giới hạn phạm vi
của hòa giải ở các tranh chấp thương mại, hoạt động thương mại theo nghĩa
hẹp, chưa đưa ra được những vấn đề cơ bản của hòa giải. Các văn bản pháp
luật này cũng không có những quy định cụ thể, chi tiết hướng dẫn về phương
thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải.
1.2.2. Bản chất pháp lý của việc giải quyết tranh chấp thương mại

thông qua hòa giải ngoài tòa án
Hòa giải thương mại ngoài tòa án là một quá trình giải quyết tranh chấp
độc lập có bản chất pháp lý một hợp đồng và thể hiện quyền tự do ý chí, tự do
cam kết, tự định đoạt của các bên trong việc giải quyết tranh chấp. Cụ thể:
Thứ nhất, các bên hoàn toàn tự nguyện lựa chọn phương thức hòa giải
để giải quyết tranh chấp phát sinh; tự do thỏa thuận về hòa giải viên, về thời
gian, địa điểm, thủ tục hòa giải sao cho phù hợp, thuận lợi nhất với điều kiện
của hai bên; tự nguyện thỏa thuận về phương án giải quyết tranh chấp trên cơ
sở các đề xuất của hòa giải viên; tự nguyện thi hành kết quả thỏa thuận đạt
được giữa các bên.

×