Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

skkn tiếng việt tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 22 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

MỤC LỤC

I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN...10

II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP...11

1. Giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến...11

2. Giải pháp sau khi có sáng kiến...15

2.1. Giải pháp 1: Dạy học với học sinh có trí thơng minh nội tâm...17

2.1.1 Thiết kế truyện tranh văn học...17

2.2.2. Sáng tác văn, thơ...20

2.2. Giải pháp 2: Dạy học theo trí thơng minh khơng gian - thị giác...21

2.3 Dạy học với học sinh có đặc điểm trí tuệ âm nhạc...25

2.4 Dạy học với học sinh có trí thông minh tương tác – giao tiếp...25

2.5 Dạy học với học sinh có trí thơng minh ngơn ngữ...27

III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI...29

1. Hiệu quả kinh tế...29

2. Hiệu quả về mặt xã hội...29

2.1. Kết quả...29

2.2. Bài học kinh nghiệm...30

2.3. Kết luận...31

IV. CAM KẾT KHÔNG SAO CHÉP HOẶC VI PHẠM BẢN QUYỀN..31

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN...33

PHỤ LỤC...37

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

I. ĐIỀU KIỆN, HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN

Trong chương trình tiểu học, mơn Tiếng Việt là một trong các môn quan trọng bậc nhất trong hệ thống giáo dục, cần thiết để phát triển ngôn ngữ, tư duy logic, giao tiếp, truyền đạt ý tưởng, cảm xúc của mình một cách tốt nhất. Mơn Tiếng Việt gồm nhiều phân mơn khác nhau. Song, khó hơn cả đối với người dạy và người học là phân môn Tập làm văn dạng văn tả cảnh. Đây là dạng bài mang tính vận dụng cao. Khơng chỉ giúp các em tổng hợp được các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho các em khả năng quan sát, giao tiếp, tổng hợp, dạy cho các em cách nhìn nhận về cuộc sống xung quanh và ghi chép lại bằng cảm xúc, sự sáng tạo của mình. Để từ đó giúp các em phát triển các kĩ năng điển hình như: Kỹ năng giao tiếp, suy nghĩ sáng tạo, tự nhận thức, kỹ năng giải quyết vấn đề, làm chủ bản thân…Dựa vào những kỹ năng này để giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp, nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống và khơng ngừng vươn lên. Cũng như qua đó sẽ dạy các em cách giao tiếp, ứng xử trong mối quan hệ với gia đình, cộng đồng.

Chương trình phổ thơng tổng thể do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành theo định hướng phát triển năng lực, trong đó chú ý đến phát triển năng lực viết sáng tạo. Tuy nhiên thực tiễn hiện nay, việc học sinh tiểu học thường viết những bài văn tả cảnh một cách rập khuôn, máy móc (rập khn từ cách mở bài, cách dùng từ ngữ trong câu văn, cách bộc lộ cảm nghĩ/ suy nghĩ của mình), thiếu cảm xúc, đặc biệt là thiếu tính sáng tạo. Việc học sinh ln đi trên một lối mòn, viết đi viết lại những điều mà người khác đã viết khiến người đọc thấy nhàm chán và thất vọng về cách làm văn của học sinh. Vậy làm thế nào để nâng cao được hiệu quả của việc dạy và học là một nhu cầu thiết yếu không chỉ đối với người học mà đặc biệt là đối với người đang trực tiếp giảng dạy. Nhưng không phải học sinh nào cũng phù hợp với một cách dạy như nhau vì theo thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner mỗi học sinh là một cá thể riêng biệt và mỗi em mang trong mình một số trí thơng minh khác nhau.

Thuyết đa trí tuệ là một thuyết mang tính nhân văn, nó khơng đánh đồng hay ép buộc học sinh phải theo một chuẩn nhất định mà xem xét sự thông minh của các em theo nhiều hướng khác nhau, giúp các học sinh thêm tự tin vào bản thân bởi nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tự ti mặc cảm và không dám phát huy khả năng của mình là các em đã bị người thân hoặc thầy cơ vơ tình dán nhãn tiêu cực là yếu kém khi học tập chưa đạt điểm cao.

Thấy được tính nhân văn và khả năng ứng dụng cao của thuyết đa trí tuệ vào giảng dạy để nâng cao chất lượng dạy và học môn Tập làm văn là lý do tôi chọn đề tài: “ Ứng dụng thuyết đa trí tuệ nhằm phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 5 ở dạng văn tả cảnh”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP

1. Giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến. 1.1. Cơ sở lý luận

Văn tả cảnh giúp các em tổng hợp được các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, rèn cho các em khả năng quan sát, giao tiếp, tổng hợp, dạy cho các em cách nhìn nhận về cuộc sống xung quanh và ghi chép lại bằng cảm xúc, sự sáng tạo của mình. Giúp các em phát triển các kĩ năng điển hình như: Kỹ năng giao tiếp, suy nghĩ sáng tạo, tự nhận thức, kỹ năng giải quyết vấn đề, làm chủ bản thân… Giúp các em tự tin hơn trong giao tiếp, nhận biết được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Để dạy học sinh viết văn tả cảnh nhằm phát triển năng lực sáng tạo, tôi đã dựa vào các căn cứ sau:

- Căn cứ vào nhiệm vụ năm học 2022 – 2023: Căn cứ vào các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Bộ Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định, phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo huyện Nam Trực về kế hoạch triển khai chương trình Giáo dục phổ thông 2018 và việc hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục cấp tiểu học năm học 2022-2023. Căn cứ vào chương trình phổ thơng tổng thể do Bộ Giáo dục ban hành theo định hướng phát triển năng lực, trong đó chú ý đến phát triển năng lực viết sáng tạo.

- Căn cứ vào mục tiêu của môn Tiếng Việt ở Tiểu học: Chú trọng các kĩ năng ngơn ngữ của người học.

+ Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.

+ Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.

+ Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngồi.

+ Bồi dưỡng tình u Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”

- Căn cứ vào chương trình văn tả cảnh lớp 5

Chương trình văn tả cảnh lớp 5 gồm 15 tiết ( Từ tuần 1 đến tuần 11). Chiếm thời lượng khá nhiều trong phân môn Tập làm văn lớp 5.

- Căn cứ vào đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 + Tưởng tượng của học sinh tiểu học

Tưởng tượng của học sinh tiểu học phong phú và có sự quyện chặt giữa tính phóng khống sáng tạo với tính hiện thực. Trong hình ảnh tưởng tượng của

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

các em có sự đan xen giữa các yếu tố hiện thực với các yếu tố khơng thực. Chính sự thể hiện đậm nét của sự hòa quyện giữa tưởng tượng phóng khống với hiện thực đã làm tạo nên tính “ma thuật” dựa được vào những điều khơng có thật – trong suy nghĩ của các em.

Tưởng tượng của học sinh tiểu học được phát triển mạnh mẽ. Nó được hình thành, phát triển trong các hoạt động, đặc biệt là hoạt động thực hành. Khuynh hướng chủ yếu trong sự phát triển của tưởng tượng ở lứa tuổi này là tiến dần đến phản ánh một cách đúng đắn và đầy đủ hiện thực khách quan trên cơ sở những tri thức tương ứng.

+ Ngôn ngữ của học sinh tiểu học

Ngôn ngữ của học sinh tiểu học phát triển mạnh cả về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Hình thức mới của ngơn ngữ - ngơn ngữ viết được hình thành và phát triển mạnh. Tuy vậy, kết quả các nghiên cứu cho thấy, ngôn ngữ viết của học sinh tiểu học nghèo hơn nhiều so với ngơn ngữ nói. Bởi các em rất khó chuyển ngơn ngữ bên trong vào hình thức viết. Hay nói một cách khác, các em chưa thể đặt mình vào vị trí của người đọc – người chưa hề biết sự kiện mà trẻ đang viết. Hơn nữa, do hiểu từ ngữ chưa chính xác, nắm ngữ pháp chưa chắc, nên khi viết các em dùng từ cịn sai, viết câu chưa đúng, khơng biết chấm câu,...

+ Chú ý của học sinh tiểu học

Chú ý không chủ định được phát triển mạnh và chiếm ưu thế ở học sinh tiểu học. Tất cả những gì mới mẻ, bất ngờ, rực rỡ khác thường đều dễ dàng cuốn hút sự chú ý của các em mà khơng cần bất kì một sự nỗ lực nào của ý chí. Vì vậy, để tổ chức tốt sự chú ý của học sinh tiểu học, việc sử dụng đồ dùng, phương tiện dạy học một các hợp lí, khoa học nhằm tạo hứng thú là điều kiện quan trọng.

- Căn cứ vào thuyết Đa trí tuệ Howard Gardner

Năm 1988, thuyết Đa trí tuệ (trí thơng minh đa dạng) được Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner của đại học Harvard giới thiệu lần đầu trong quyển “Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences”. Ông phản bác quan niệm truyền thống về khái niệm thông minh, vốn được đồng nhất và đánh giá dựa theo các bài trắc nghiệm IQ. Ông cho rằng khái niệm này chưa phản ánh đầy đủ khả năng tri thức đa dạng của con người.

Theo Gardner, trí thơng minh (intelligence) được ơng quan niệm “là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều mơi trường văn hóa” và trí thơng minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ.

Ông đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều tồn tại một vài kiểu thông minh trong số 8 loại: ngơn ngữ, lơgic/tốn học, âm nhạc, khơng gian, vận

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

động cơ thể, giao tiếp (tương tác cá nhân), nội tâm (hướng nội), thiên nhiên (tự nhiên học). Tuy nhiên, ứng với mỗi cá nhân sẽ có những loại trí thơng minh vượt trội hơn các trí thơng minh cịn lại.

1.2. Cơ sở thực tiễn.

1.2.1. Thực trạng phía giáo viên

Ngại đổi mới, áp dụng cách dạy thuyết trình và khá áp đặt kiến thức. Gị bó học sinh theo khn khổ vốn có.

Đề văn thiếu tính gợi mở tạo sự sáng tạo nhằm phát triển năng lực cho học sinh.

Chưa tin tưởng vào khả năng tiềm ẩn ở học sinh của mình. 1.2.2. Thực trạng phía học sinh

Thực trạng viết văn của học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 tơi giảng dạy nói riêng trong thực tế đã tạo ra các sản phẩm học tập ít tính sáng tạo, ít mang dấu ấn và quan điểm cá nhân. Một số học sinh lớp 5 chưa có khả năng phân tích, tổng hợp, khả năng tư duy logic, tư duy ngơn ngữ cịn hạn chế.

Trình độ nhận thức của học sinh chưa đồng đều, thiếu vốn từ, thiếu cảm thụ văn học.

Một số học sinh chưa có sự tập trung, chú ý trong q trình học tập, khơng thích khám phá, tìm hiểu, chưa tương tác với giáo viên và các bạn.

Qua làm bài khảo sát đầu năm và quan sát học sinh giao tiếp, tôi thấy kĩ năng viết văn của các em còn nhiều hạn chế như: Viết những bài văn một cách rập khn, máy móc, thiếu cảm xúc, đặc biệt là thiếu tính sáng tạo. Việc học sinh ln đi trên một lối mịn, viết đi viết lại những điều mà người khác đã viết khiến người đọc thấy nhàm chán và thất vọng về cách làm văn của học sinh.

Kết quả khảo sát dạng văn tả cảnh vào đầu năm học 2021-2022 và 2022-2023 của lớp 5A như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

1.2.3. Thực trạng phía phụ huynh:

Một số phụ huynh chưa phối hợp chặt chẽ với giáo viên trong công tác giáo dục, cịn phó thác cho giáo viên, chưa khuyến khích con tự học, chưa có tương tác trong học tập cùng con.

Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với bản thân tôi tạo ra sáng kiến để hình thành cho học sinh năng lực sáng tạo khi viết văn, mang dấu ấn của riêng cá nhân mỗi em.

2. Giải pháp sau khi có sáng kiến

Theo Tiến sĩ Howard Gardner, trí thơng minh được ông quan niệm “là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều mơi trường văn hóa” và trí thơng minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Trí thơng minh của con người được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, mang tính đa dạng. Mỗi cá nhân sở hữu các loại trí tuệ ở các dạng (loại) khác nhau. Vì vậy, cách giải quyết vấn đề cũng không giống nhau.

Theo Howard Gardner, mỗi người đều sở hữu 8 loại hình trí thơng minh và các trí thơng minh này là những tổ hợp không giống nhau, và ở những mức độ khác nhau. Tính khác biệt cịn do hồn cảnh mơi trường và phương thức giáo dục không giống nhau tạo nên. Bao gồm: trí thơng minh ngơn ngữ; trí thơng minh logic tốn học; trí thơng minh hình ảnh, hội họa, khơng gian; trí thơng minh âm nhạc; trí thơng minh vận động thể chất; trí thơng minh giao tiếp xã hội; trí thơng minh nội tâm; trí thơng minh về khoa học tự nhiên. Khơng có dạng trí thơng minh nào tồn tại đơn lẻ, trừ một số trường hợp hiếm hoi của các nhà bác học chuyên sâu hoặc người bị tổn thương não. Các dạng trí tuệ ln tương tác với nhau.

Hình ảnh: Thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Đi cùng với các đặc điểm trí tuệ khác nhau là các phong cách học tập khác nhau. Mỗi cá nhân khơng chỉ có một phong cách học tập mà có tới hai, ba phong cách học tập. Do đó, giáo viên cần hiểu rõ về phong cách học tập của học sinh để có biện pháp phù hợp giúp học sinh phát triển năng lực sáng tạo. Các phong cách học tập có thể là: học bằng thị giác; học bằng thính giác; học bằng lời nói; học bằng vận động; học bằng suy nghĩ, logic…

Dựa trên kết quả nghiên cứu khoa học về các loại hình trí tuệ và phong cách học tập, chúng ta có thể vận dụng để xây dựng các hoạt động trong tiến trình dạy học Tập làm văn cho học sinh. Trước một yêu cầu của đề bài Tập làm văn, với mỗi đặc điểm trí tuệ khác nhau của cá nhân, học sinh sẽ có cách tiếp cận, cách giải quyết vấn đề khác nhau. Quá trình này có thể xây dựng từ giai đoạn hình thành ý tưởng và triển khai theo hướng ra đề mở và định hướng học sinh tiếp cận các đề bài theo đặc điểm trí tuệ và phong cách học tập.

Lý thuyết của Howard Gardner đã chỉ ra rằng mỗi người trong chúng ta đều tồn tại một vài kiểu thơng minh trên, tuy nhiên, sẽ có kiểu thơng minh trội hơn trong mỗi người. Bên cạnh đó, ông đã chỉ ra rằng trong trường học thông thường chỉ đánh giá một học sinh thông qua 2 loại trí thơng minh là trí thơng minh về ngơn ngữ và trí thơng minh về logic/tốn học, và điều này là khơng chính xác. Dường như trường học đã bỏ rơi các em có thiên hướng học tập thơng qua âm nhạc, vận động, thị giác, giao tiếp…đồng thời hướng học sinh đi theo cùng một con đường và cùng chịu chung một sự đánh giá nhận xét. Nhiều học sinh đã có thể học tập tốt hơn nếu chúng được tiếp thu kiến thức bằng chính thế mạnh của chúng. Với vai trị là một người dẫn dắt, tơi ln tìm cách khơi gợi tiềm năng, tạo điều kiện để các em học tập theo thế mạnh của bản thân.

Thuyết đa trí tuệ giúp giáo viên có cách suy ngẫm, chọn lựa phương pháp dạy học sao cho hay nhất và phù hợp nhất với bản thân họ và họ hiểu thấu đáo vì sao phương pháp đó là hiệu quả hoặc chỉ hiệu quả với học sinh này mà không hiệu quả với học sinh kia.

Thuyết này cũng giúp giáo viên áp dụng thiên biến hơn các phương pháp dạy học và kĩ năng sử dụng các tài liệu, các thiết bị dạy học. Giáo viên trong lớp học đa trí tuệ khác với trong lớp học truyền thống ngơn ngữ hoặc lơgic-tốn học. Trong lớp học đa trí tuệ, giáo viên phải linh hoạt thay đổi phương pháp và khéo léo chuyển từ lối dạy ngôn ngữ sang lối dạy không gian rồi lối dạy âm nhạc hay vận động, giao tiếp,…

Qua nghiên cứu và thực nghiệm cho thấy, việc tổ chức dạy học bằng áp dụng linh hoạt, tổng hợp các phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang tích cực triển khai gần đây như đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, bàn tay nặn bột, bản đồ tư duy,… sẽ tạo ra môi trường học tập đa trí tuệ rất hiệu quả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Trong đó, phương pháp dạy học theo phương pháp kết hợp nhiều trí thơng minh ở học sinh, góp phần phát triển toàn diện cho học sinh. Theo định hướng này, giáo viên tổ chức dạy học kết hợp với sự tham gia của nhiều yếu tố “trí thơng minh” trong cùng một hoạt động học:

Vì vậy tơi ứng dụng thuyết đa trí tuệ nhằm phát triển năng lực hình thành và thực hành viết văn tả cảnh hiệu quả.

2.1. Giải pháp 1: Dạy học với học sinh có trí thơng minh nội tâm

Trí thơng minh nội tâm là khả năng khám phá chiều sâu bản thân, nhạy cảm, hòa điệu với những cảm xúc, suy nghĩ, tâm trạng... Những người sở hữu trí thơng minh này có thể ý thức được ưu điểm, khuyết điểm của mình, thích trầm ngâm suy tư, làm việc một mình. Đại diện cho nhóm này là nhà nghiên cứu, lý luận, triết học, nhà văn, những người có tài viết lách…

Qua thực tế giảng dạy, tơi nhận thấy nhiều học sinh khó trong việc ghi nhớ từ ngữ, nhưng thông qua tranh, truyện các em lại ghi nhớ rất tốt và khắc sâu vận dụng tốt. Dạy học theo trí thơng minh ngơn ngữ tơi sẽ thực hiện qua các hình thức như sau:

2.1.1 Thiết kế truyện tranh văn học

Mục đích: Học sinh thể hiện sự sáng tạo qua việc thiết kế truyện tranh và ghi nhớ tốt hơn nội dung bài học

Ví dụ 1: Bài Cấu tạo bài văn tả cảnh ( Tuần 1)

Cách tiến hành: Sau khi học sinh học xong bài “Cấu tạo bài văn tả cảnh”, giáo viên giao bài tập về nhà theo nhóm yêu cầu nhóm sáng tác truyện tranh để ghi nhớ các kiến thức đã học trong bài.

Các yêu cầu giáo viên có thể chia các nội dung như: + Cấu tạo bài văn tả cảnh được chia làm mấy phần? + Có mấy cách miêu tả một bài văn tả cảnh ?

Học sinh làm việc tại nhà trao đổi với nhau qua zalo, zoom hoặc trao đổi vào các giờ ra chơi, đến đầu giờ của tiết học sau sẽ chia sẻ với các bạn trong lớp.

Các nhóm báo cáo kết quả. Cả lớp lắng nghe và nhận xét.

Nhóm sao xanh gồm các em: Trần Khánh Ly, Đào Gia Huy, Phạm Quỳnh Chi đã hồn thành bài và trình bày như sau:

Ly: Huy ơi, tớ đố cậu bài văn tả cảnh được chia làm mấy phần?

Huy: Câu hỏi của cậu quá dễ. Bài văn tả cảnh được chia làm ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Giờ cậu trả lời câu hỏi của tớ nhé!

Theo cậu có mấy cách miêu tả một bài văn tả cảnh?

Ly: Ừhm … theo tớ thì có hai cách miêu tả: Theo thứ tự thời gian và tra theo từng bộ phận. Cậu thấy sao?

Huy: Ok câu trả lời của cậu chính xác rồi đấy.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Giáo viên nhận xét và đánh giá kết quả.

Hình ảnh: Sản phẩm truyện tranh văn học của nhóm Sao xanh

Kết luận: Cùng là nhiệm vụ cần nắm được cấu tạo của bài văn tả cảnh gồm 3 phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Trình tự miêu tả bài văn tả cảnh theo thứ tự thời gian và tả theo từng bộ phận. Nhưng thông qua hình thức sáng tác truyện tranh các em rất hứng thú và ghi nhớ tốt hơn.

Ví dụ 2 : Bài Luyện tập tả cảnh (Tuần 8)

Cách tiến hành: Cuối tiết học trước giáo viên sẽ yêu cầu cá nhân chuẩn bị bài cho tiết sau bằng cách sáng tác truyện tranh về nội dung của bài tập 1. Giáo viên có thể đưa ra 1 số câu hỏi gợi ý như:

+ Tác giả tả những sự vật gì trong cơn mưa?

+ Tác giả quan sát cảnh vật bằng các giác quan nào?

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

+ Tìm chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả? Tại sao bạn thích nhất chi tiết đó?

Với bài tập 1 học sinh đã làm được sản phẩm như sau :

Sau khi có sản phẩm học sinh có thể trình bày truyện tranh của mình trước lớp, hoặc quay clip gửi cô giáo qua zalo,…

Học sinh Gia Linh trình bày trước lớp:

(Đây là cuộc nói chuyện trên đường đến trường của hai bạn Chip và Su về cơn mưa chiều qua)

Chip: Su ơi, thời tiết hôm nay dễ chịu quá, chắc do trận mưa chiều qua đấy nhỉ? Su: Ừh phải rồi, chiều qua mưa to thế cơ mà.

Chip: Lúc tớ vừa về đến nhà thì giơng gió nổi lên, mây đen ùn ùn kéo tới, sấm chớp đùng đùng. Đáng sợ lắm!

Su: Sau đó mưa lác đác vài hạt rồi mưa trắng xoá cả bầu trời ln. Tớ chưa kịp về cịn bị ướt hết cơ.

Chip: Tớ thì kịp rút cho mẹ mấy bộ quần áo trên dây phơi và cho đàn gà mới nở của chị mái mơ vào chỗ trú ẩn an toàn đấy!

Su: Hì hì cịn tớ thì cất cặp rồi rủ thằng Tin, thằng Bắp ra tắm mưa, sướng thôi rồi!

Chip: Tớ thích mưa lắm, vì cây cối như được tắm gội thay quần áo mới ấy! Su: Tớ cũng vậy, thôi chúng mình nhanh vào lớp đi.

Hình ảnh: Sản phẩm truyện tranh văn học của em Hoàng Gia Linh

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

(Học sinh có thể làm các nhân vật rời sau đó tận dụng và tiếp tục sử dụng trong nội dung khác của các bài sau.)

Kết luận: Để sáng tác được truyện tranh theo nội dung yêu cầu thì học sinh phải nắm bắt được nội dung câu chuyện, nêu bật những điều trọng tâm, nó có đặc điểm gì và diễn biến ra sao? Học sinh được tưởng tượng, được tư duy, được làm theo con mắt nhìn nhận sự việc của mình. Sau mỗi buổi học như vậy, tôi thấy học sinh rất hứng thú, phát triển được vốn từ và khả năng giao tiếp. Ngoài ra các em rất tích cực chủ động hồn thành nhiệm vụ của mình.

2.2.2. Sáng tác văn, thơ

Trong quá trình dạy học tơi nhận thấy học sinh trong lớp có những em phát triển ở trí thơng minh nội tâm qua việc sáng tác các bài văn, bài thơ có nội dung bài học. Như với đề bài: “Quê hương em là một vùng đất tươi đẹp. Nơi đây có cánh đồng lúa rộng mênh mơng bát ngát, có bờ đê thoai thoải mà mỗi chiều về lại nô nức lũ trẻ thả diều, có con đường làng gập ghềnh đi về … Nhưng đi xa, em nhớ nhất vẫn là con sơng êm đềm, nơi níu giữ những kỉ niệm đẹp nhất của tuổi thơ em. Em hãy tả con sơng q em.” Học sinh có thể hình thành kiến thức qua việc tự sáng tác các bài văn, bài thơ với vần điệu dễ nhớ dễ thuộc.

Hình ảnh: Bài thơ “Sông Hồng quê em” của em Bùi Gia Hân

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×