Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Đề Án.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 68 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN</b>

<b>ĐỀ ÁN CHUYÊN NGÀNH</b>

<b>CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VÀ NGHIÊN CỨU ĐIỂNHÌNH CÁN CÂN THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM</b>

<b>VÀ HOA KÌ GIAI ĐOẠN 2020-2023</b>

<i><b>Ngành: Kinh doanh thương mại</b></i>

<i><b>Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh thương mại</b></i>

<b>Nguyễn Thị Xuân Mai</b>

<i><b>Giảng viên hướng dẫn: GS.TS. Hoàng Đức Thân</b></i>

Hà Nội, 2024

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CẢM ƠN</b>

Trong quá trình nghiên cứu viết đề án này, em đã nhận được sự giúp đỡ và góp ý nhiệt tình từ q thầy cơ trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tận tình giảng dạy, chỉ dẫn trong suốt thời gian học tập ở trường và đặc biệt là GS.TS. Hoàng Đức Thân – giảng viên hướng dẫn, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn, góp ý để em hoàn thành tốt đề án chuyên ngành.

Do những hạn chế về thời gian nghiên cứu, về tài liệu thu thập được và khả năng của bản thân, nội dung bài khó tránh khỏi những sai sót vầ khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn góp ý của thầy và các bạn.

Em xin chân thành cảm ơn!

<b>Sinh viên</b>

Nguyễn Thị Xuân Mai

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài...1</b>

<b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...2</b>

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...2</b>

<b>4. Phương pháp nghiên cứu...3</b>

<b>5. Nội dung nghiên cứu...3</b>

<b>CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI...4</b>

<b>1.1. Tổng quan về cán cân thương mại...4</b>

1.1.1. Khái niệm và phương pháp xác định cán cân thương mại...4

1.1.2. Trạng thái của cán cân thương mại...6

1.1.3. Vai trò của cán cân thương mại...7

<b>1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại...8</b>

1.2.1. Tình trạng nền kinh tế...8

1.2.2. Quan hệ quốc tế...10

1.2.3. Chính sách thương mại quốc tế...12

1.2.4. Một số yếu tố cơ bản khác (lạm phát, tỷ giá hối đoái…)...15

<b>1.3. Tác động của cán cân thương mại đối với nền kinh tế...23</b>

1.3.1. Tác động của cán cân thương mại đến tiết kiệm và đầu tư...23

1.3.2. Tác động của cán cân thương mại đến GDP...24

1.3.3. Tác động của cán cân thương mại đến cung cầu tiền tệ...26

<b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁN CÂN THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀHOA KỲ GIAI ĐOẠN 2020-2023 VÀ KHUYẾN NGHỊ...28</b>

<b>2.1 Khái quát quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ...28</b>

2.1.1 Giới thiệu chung về kinh tế Hoa Kỳ...28

2.1.2 Quan hệ hợp tác song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ...31

<b>2.2 Thực trạng điển hình cán cân thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ giaiđoạn 2020-2023...34</b>

2.2.1 Tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ...34

2.2.2 Tình hình nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ...39

2.2.3 Thực trạng cán cân thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ...44

2.2.4 Tác động của thặng dư thương mại đến nền kinh tế Việt Nam...48

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>2.3 Khuyến nghị cải thiện cán cân thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ...50</b>

2.3.1 Dự báo phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ...50 2.3.2 Khuyến nghị một số giải pháp cải thiện cán cân thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đến 2025...54

<b>KẾT LUẬN...58</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>DANH MỤC BẢNG, HÌNH</b>

<b>Bảng: </b>

Bảng 2.1: Năm đối tác nhập khẩu hàng đầu của Việt Nam giai đoạn 2020-2022...41

Bảng 2.2: Nhập khẩu bông các loại của Việt Nam từ một số thị trường...44

Bảng 2.3: Năm đối tác xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam giai đoạn 2020-2022...46

<b>Hình:</b> Hình 1.1: Hiệu ứng tuyến J về ảnh hưởng của phá giá đến cán cân thương mại...22

Hình 2.1: Tăng trưởng GDP và mức lạm phát giai đoạn 2017-2021...28

Hình 2.2: Thâm hụt thương mại hàng năm của Hoa Kỳ từ 1975-2022...30

Hình 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ giai đoạn 2020-2023...34

Hình 2.4: Các thị trường xuất khẩu của Việt Nam, năm 2022...35

Hình 2.5: Thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa chủ yếu năm 2023...35

Hình 2.6: Sản phẩm chủ yếu xuất khẩu sang Hoa Kỳ năm 2021...36

Hình 2.7: Kim ngạch xuất khẩu Hàng dệt, may của Việt Nam sang Hoa Kỳ...37

Hình 2.8: So sánh cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam...37

<i>Hình 2.9: Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng lớn nhất sang Hoa Kỳ trong 10 tháng</i> đầu năm 2022...38

Hình 2.10: Các thị trường nhập khẩu của Việt Nam, năm 2022...40

Hình 2.11: Sản phẩm chủ yếu nhập khẩu từ Hoa Kỳ năm 2021...42

Hình 2.12: Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng lớn nhất từ Hoa Kỳ trong 10 tháng đầu năm 2022...42

Hình 2.13: Cơ cấu thị trường nhập khẩu rau quả của Việt Nam năm 2022...43

Hình 2.14: Thặng dư thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ giai đoạn 2020-2023...45

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>MỞ ĐẦU</b>

<b>1. Tính cấp thiết của đề tài</b>

Tồn cầu hố kinh tế là một xu thế tất yếu khách quan, một xu hướng bao trùm của sự vận động kinh tế thế giới ngày nay. Nhờ tác động của viễn thông, công nghệ và vốn, các hoạt động kinh tế, thương mại của mỗi quốc gia đã gia tăng mạnh mẽ, vượt ra khỏi biên giới quốc gia, liên kết thành một chỉnh thể thị trường tồn cầu. Song song với q trình đó là sự hình thành và hồn thiện các định chế tổ chức kinh tế quốc tế tương thích nhằm quản lý và điều hành các hoạt động kinh tế đã ngày càng lệ thuộc chặt chẽ giữa các quốc gia và khu vực.

Dưới góc nhìn quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta “đa phương hóa và đa dạng hóa trên cơ sở cơng bằng lợi ích giữa các đối tác,... tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu với tất cả các thị trường đã có, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn nhưng hiện cịn chiếm tỷ trọng thấp, mở ra các thị trường mới và tích cực tăng cường tiếp cận các thị trường cung ứng cơng nghệ nguồn”, thì Hoa Kỳ đã trở thành một trong những trọng điểm ưu tiên trong chiến lược phát triển thương mại quốc tế của Việt Nam. Việc tăng cường, đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ là nhu cầu bức thiết nhằm đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu hướng tới một thị trường có tính ổn định cao, và tiếp cận nhập khẩu "cơng nghệ nguồn". Hơn nữa, Hoa Kỳ cịn là một trong những nhà đàm phán lớn cho việc Việt Nam gia nhập WTO.

Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn, là đối tác thương mại của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Với hệ thống pháp luật phức tạp, khơng chỉ của liên bang mà cịn có quy định nghiêm ngặt của từng bang. Các nước, khi quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, đã gặp khơng ít khó khăn, ví dụ như do cán cân thương mại thâm hụt với các đối tác, đặc biệt là với Trung Quốc và EU, Hoa Kỳ đã áp đặt thuế đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và EU, dẫn tới căng thẳng thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, Hoa Kỳ và EU. Bên cạnh đó, các rủi ro khác mà các nước hay bị Hoa Kỳ đệ đơn kiện liên quan đến chống bán phá giá, đến chống trợ cấp, tiêu chuẩn kỹ thuật và quy tắc xuất xứ, đây cũng là những rủi ro mà Việt Nam gặp phải trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, đặc biệt là gần đây khi Việt Nam bị Hoa Kỳ gắn mác thao túng tiền tệ vào cuối năm 2020 khi liên tục xuất siêu sang Hoa Kỳ.

Sau hơn 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ (kể từ ngày 12/7/1995), kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã liên tục tăng dần

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

qua từng năm, tăng từ 0,45 tỷ USD trong năm 1995 lên 31,1 tỷ USD trong năm 2020 (tăng 69 lần. Theo thời gian, Việt Nam đã trở thành nhà cung cấp hàng hóa lớn cho thị trường Hoa Kỳ, trong khi nhiều công ty Hoa Kỳ đã trở thành những cái tên quen thuộc tại Việt Nam. Bất chấp lo ngại về nhu cầu suy yếu, song triển vọng thương mại song phương vẫn tươi sáng.

Tuy nhiên, thách thức lớn trong mối quan hệ này là thặng dư thương mại ngày càng tăng của Việt Nam với Hoa Kỳ, nguyên nhân là do sự tương thích trong cơ cấu thương mại của mỗi nước. Đề án này cung cấp một cái nhìn tổng quan về mối quan hệ thương mại Hoa Kỳ – Việt Nam và xem xét các vấn đề gây tranh cãi nhất trong thương mại song phương. Việc thúc đẩy phát triển thương mại song phương theo hướng cân bằng và có lợi cho cả hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ là vấn đề được đặt ra hiện nay.

<b>Chính bởi vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Cán cân thương mại và nghiên cứu điểnhình cán cân thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kì giai đoạn 2020-2023” nhằm</b>

nghiên cứu thực trạng cán cân thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và đưa ra một số khuyến nghị nhằm cải thiện cán cân thương mại song phương giữa hai nước.

<b>2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu</b>

<i><b>2.1 Mục tiêu</b></i>

Đề án trên cơ sở nghiên cứu lý luận về cán cân thương mại và phân tích thực trạng điển hình cán cân thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2020-2023. Từ đó kiến nghị phương hướng, biện pháp nhằm cải thiện tình trạng cán cân thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ.

<i><b>2.2 Nhiệm vụ</b></i>

Từ mục tiêu tổng quát đã nêu trên, đề án có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về cán cân thương mại.

- Phân tích, đánh giá thực trạng điển hình cán cân thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2020-2023.

- Đưa ra những đề xuất, giải pháp cải thiện tình trạng cán cân thương mại giữa hai nước trong thời gian tới.

<b>3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

<i><b>3.1 Đối tượng nghiên cứu: Đề án nghiên cứu hệ thống các lý luận và và thực tiễnđiển hình của cán cân thương mại hàng hóa Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn 2020-2023.</b></i>

<i><b>3.2 Phạm vi nghiên cứu: </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>* Phạm vi nội dung: Nghiên cứu cán cân thương mại song phương giữa Việt</i>

Nam và Hoa Kỳ

<i>* Phạm vị không gian: Nghiên cứu thực tiễn điển hình cán cân thương mại giữa</i>

Việt Nam và Hoa Kỳ

<i>* Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng từ năm 2020-2023 và kiến nghị</i>

đến 2025.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>

Đề án sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

<i>* Phương pháp chung: Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng</i>

<i>* Phương pháp cụ thể: Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề án này là</i>

phương pháp phân tích, tổng hợp những thông tin, số liệu thứ cấp được tổng hợp lại từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó chủ yếu là Trung tâm tương mại Quốc tế (Trademap.org, ITC); Tổng cục thống kê, Tổng cục Hải quan Việt Nam, Tổng cục dân số Hoa Kỳ.

Nghiên cứu qua các tài liệu thứ cấp khác nhau như các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài đăng tạp chí, các nghiên cứu của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước nhằm thu nhập cơ sở lý luận và thực tiễn về cán cân thương mại các cụ thể.

<b>5. Nội dung nghiên cứu</b>

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Đề án được kết cấu thành 2 chương như sau:

Chương 1. Lý luận chung về cán cân thương mại.

Chương 2. Thực trạng cán cân thương mại giữa việt nam và hoa kỳ giai đoạn 2020-2023 và khuyến nghị đến 2025.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THƯƠNG MẠI</b>

<b>1.1. Tổng quan về cán cân thương mại</b>

<i><b>1.1.1. Khái niệm và phương pháp xác định cán cân thương mạiKhái niệm cán cân thương mại</b></i>

Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế bao gồm tập hợp nhiều hạng mục/ tài khoản nhỏ khác nhau. Mỗi hạng mục ghi cùng một loại các giao dịch với nước ngoài. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một năm.

Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia là tổng của cán cân thương mại hữu hình và cán cân thương mại vơ hình.

Cán cân thương mại (cịn được gọi là cán cân hữu hình) đo lường chênh lệch giữa doanh thu xuất khẩu và chi tiêu nhập khẩu hàng hóa (những hàng hóa này thường được vận chuyển qua biên giới quốc gia) Trong cán cân thanh toán, doanh thu xuất khẩu được ghi có và chi tiêu nhập khẩu được ghi nợ. Cán cân thương mại thặng dư nghĩa là quốc gia đó thu nhập từ xuất khẩu nhiều hơn chi tiêu cho nhập khẩu.

Trong hoạt động thương mại, giữ vững được cán cân thcanh toán quốc tế và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần chủ yếu củng cố nền độc lập dân tộc và tăng trưởng kinh tế. Nếu qua cán cân thanh toán quốc tế ta thấy được thực trạng về kinh tế - tài chính của một đất nước thì qua cán cân thương mại ta sẽ thấy rõ thực trạng về ngoại thương của một nước. Thứ nhất, cán cân thương mại cung cấp những thông tin liên quan đến cung và cầu tiền tệ của một quốc gia. Thứ hai, dữ liệu trên cán cân thương mại có thể được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một nước. Thứ ba, thâm hụt hay thặng dư cán cân thương mại có thể làm tăng khoản nợ nước ngồi hoặc gia tăng mức dự trữ ngoại tệ, tức là thể hiện mức độ an toàn hoặc bất ổn của nền kinh tế. Thứ tư, thâm hụt hay thặng dư cán cân thương mại phản ánh hành vi tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng của nền kinh tế.

Thông thường, các nước đang phát triển đều là những nước ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thanh tốn quốc tế và nhập siêu. Nếu kim ngạch xuất khẩu nhỏ hơn 80% kim ngạch nhập khẩu và kéo dài thì nước đó tình hình kinh tế trở nên nghiêm trọng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>Phương pháp xác định cán cân thương mại </b></i>

Cơng thức tính cán cân thương mại được tính bằng tổng giá trị hàng xuất khẩu trừ tổng giá trị hàng nhập khẩu.

<b>NX = X – M</b>

Trong đó: NX: cán cân thương mại X: tổng kim ngạch xuất khẩu M: tổng kim ngạch nhập khẩu

Trong mơ hình tổng cầu của Keynes cho một nền kinh tế mở, tổng sản lượng của một nền kinh tế (GDP), Y, được xác định trên cơ sở lấy tổng tiêu dùng trong nước (C), cộng với chi đầu tư (I), cộng chi tiêu của Chính phủ (G), cộng xuất khẩu rịng, được đo bằng xuất khẩu (X) trừ đi nhập khẩu (M).

<b>Y = GDP = C + I + G + NX</b>

 <b>NX = GDP – (C + I + G)</b>

Trong đó:

(C + I + G): tổng chi tiêu trong nước

Tiêu dùng được xác định bằng khuynh hướng tiêu dùng nhân với thu nhập khả dụng của khu vực tư nhân, được xác định trên cơ sở lấy tổng thu nhập của khu vực tư nhân trừ đi thuế nộp cho chính phủ với thuế suất t: C = cY(1-t)

Tiết kiệm của khu vực tư nhân được xác định bằng hiệu số giữa thu nhập khả dụng và chi tiêu: S = Y(1-t) - C;

Tiền thuế được xác định bằng tổng thu nhập nhân với thuế suất, trên thực tế có thể được xác định bằng phần trăm thu ngân sách so với GDP nhân với GDP, T = Yt. Hiệu số giữa T và G là phần thâm hụt ngân sách của chính phủ.

Biến đổi cơng thức tổng cầu ta có:

Y=cY(1-t) + I + G + X – M

Y(1-t) + T =cY(1-t) + I + G + X – M Y(1-t) - cY(1-t) – I + T – G = X – M

<b>S – I + T – G = X – M </b>

Như vậy, chúng ta có tổng thặng dư giữa tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư nhân và thặng dư giữa thu và chi của chính phủ ln cân bằng với thặng dư giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Hoặc ngược lại, tổng thâm hụt giữa tiết kiệm và đầu tư của khu vực tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

nhân và thâm hụt giữa thu và chi của chính phủ ln cân bằng với thâm hụt giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Nói một cách khác, thặng dư tiết kiệm trong nước bao gồm cả tiết kiệm của chính phủ và tiết kiệm của tư nhân sẽ được đo bằng xuất khẩu ròng, là phần dự trữ của một nước để tiêu dùng trong tương lai hoặc để thanh toán nợ trong quá khứ. Thâm hụt giữa tiết kiệm và đầu tư, và thâm hụt ngân sách chính phủ sẽ buộc phải được bù đắp bằng nhập khẩu rịng từ nước ngồi, là khoản một nước chi dùng trước của cải do nước khác tạo ra. Khoản này sẽ được thanh toán bằng số tiền tiết kiệm trong quá khứ hay sẽ phải sản xuất nhiều hơn để trả nợ trong tương lai.

Cán cân thương mại là một bộ phận quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội, có mối quan hệ mật thiết với các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản và ảnh hưởng trực tiếp tới tăng trưởng kinh tế của một nước. Ở những thời điểm khác nhau, cán cân thương mại có những thay đổi khác nhau dẫn đến sự thay đổi của toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy, cán cân thương mại là một trong các chỉ số mà Chính phủ dựa vào đó để tiến hành điều chỉnh các chiến lược kinh tế, mơ hình kinh tế, tư duy phát triển, con đường phát triển của đất nước, trong cả ngắn hạn và dài hạn.

<i><b>1.1.2. Trạng thái của cán cân thương mại</b></i>

Trạng thái của cán cân thương mại luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu bởi tình trạng của cán cân thương mại (thâm hụt hay thặng dư) thể hiện trạng thái của nền kinh tế.

Với khái niệm về cán cân thương mại hàng hóa như trên có thể thấy rằng trạng thái của cán cân thương mại hàng hóa của một quốc gia phụ thuộc vào độ chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa của nền kinh tế đó trong từng giai đoạn, và từ đó chúng ta có các trạng thái của cán cân thương mại hàng hóa, cụ thể gồm:

- Cân bằng thương mại hàng hóa là trạng thái mà khi đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bằng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong thời kỳ xem xét.

- Thâm hụt thương mại hàng hóa là trạng thái mà khi đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nhỏ hơn kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong thời kỳ xem xét.

- Thặng dư thương mại hàng hóa là trạng thái mà khi đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa lớn hơn kim ngạch nhập khẩu hàng hóa trong thời kỳ xem xét.

Có thể thấy rằng các trạng thái của cán cân thương mại hàng hóa sẽ tác động một cách trực tiếp, gián tiếp đến các biến số kinh tế vĩ mô nói chung của một quốc gia hay một nền kinh tế. Về mặt lý thuyết thì mỗi quốc gia hay nền kinh tế đều hướng đến một cán cân thương mại hàng hóa cân bằng hoặc thặng dư, vì điều này sẽ góp phần làm ổn định cán cân thanh tốn, dự trữ ngoại tệ của một quốc gia góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, ngày nay nền kinh tế thế giới đã có nhiều thay đổi trong xu hướng tồn

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cầu hóa mỗi quốc gia, mỗi nền kinh tế đang dần trở thành một mắt xích trong chuỗi giá trị tồn cầu. Mỗi quốc gia ngày nay dựa vào lợi thế cạnh tranh của mình để tham gia vào chuỗi giá trị tồn cầu đó, nơi mà các quốc gia hay các nền kinh tế phụ thuộc vào nhau, nơi mà khái niệm xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia chỉ cịn mang tính chất tương đối. Tuy nhiên khơng thể phủ định vai trò quan trọng của cán cân thương mại hàng hóa đối với nền kinh tế, để làm sáng tỏ những nhận định trên chúng ta hãy tiếp tục nghiên cứu về cán cân thương mại hàng hóa.

Thâm hụt hoặc thặng dư thương mại khơng phải lúc nào cũng tốt hay xấu. Nó phụ thuộc vào các nguyên tắc cơ bản về kinh tế và lý do đằng sau chúng, chẳng hạn như các quyết định về chính sách thương mại, thời gian tích cực hay tiêu cực của chúng, tăng trưởng kinh tế và quy mô của sự mất cân bằng thương mại.

Một số nhà kinh tế thích thặng dư thương mại vì chúng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kích thích tạo việc làm và thu nhập. Thặng dư thương mại xảy ra do đất nước dựa vào tăng trưởng xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tiêu dùng trong nước còn thấp và kém phát triển. Tình trạng này rất nguy hiểm nếu nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái, có thể làm rung chuyển xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế. Tiêu dùng trong nước không thể tăng trưởng với tốc độ có thể bù đắp cho sự sụt giảm trong xuất khẩu.

Sự thâm hụt tạo ra hiệu ứng ngược lại. Tuy nhiên, thâm hụt thương mại có thể cho thấy nền kinh tế đang tăng trưởng. Nhu cầu nhập khẩu cao như vậy là do tổng cầu vượt quá tổng cung (chênh lệch lạm phát). Nói cách khác, nhu cầu trong nước vượt q những gì có thể được cung cấp từ sản xuất trong nước. Điều đó thúc đẩy nhu cầu cao đối với các sản phẩm nhập khẩu, có thể dẫn đến thâm hụt thương mại.

Tuy nhiên, thặng dư hay thâm hụt cán cân thương mại trong ngắn hạn sẽ chưa phản ánh chính xác về trạng thái thực của kinh tế mà cần phải cân nhắc thêm các khía cạnh như tỷ giá, lạm phát, mức độ dự trữ ngoại tệ... Vấn đề là cán cân thương mại thâm hụt ở mức có thể bảo đảm sức chịu đựng của cán cân tài khoản vãng lai và nợ nước ngồi.

<i><b>1.1.3. Vai trị của cán cân thương mại</b></i>

Một là, cán cân thương mại giúp xác định nhu cầu tiền tệ của quốc gia.

Nếu cán cân thương mại dương, xuất khẩu hàng hóa lớn, dịng tiền ngoại tệ chảy vào quốc gia nhiều sẽ làm cho nhu cầu chuyển đổi tiền nội địa tăng lên. Bởi các giao dịch với nhà cung cấp và tiền lương của nhân viên khơng thể được thanh tốn bằng đồng ngoại tệ. Lúc này cầu đồng nội tệ tăng lên, làm tăng tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng nội tệ trên thị trường quốc tế. Ngược lại, nếu cán cân thương mại âm, nhập khẩu hàng hóa lớn hơn xuất khẩu, dòng tiền ngoại tệ cần để giao dịch lớn, sẽ làm nhu cầu

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

đồng nội tệ giảm, dẫn đến tỷ giá hối đoái giảm. Chính phủ sẽ dựa trên những số liệu cụ thể này để đưa ra các chính sách điều chỉnh phù hợp, nhằm khắc phục những điểm yếu, phát huy ưu điểm, đưa quốc gia phát triển bền vững và cạnh tranh với các nước khác trên thế giới. Như vậy, cán cân thương mại hay còn gọi là xuất khẩu ròng, liên quan trực tiếp đến vòng xoay tiền tệ của một quốc gia.

Hai là, cán cân thương mại là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế vĩ mô của một quốc gia.

Nếu cán cân thương mại dương cho thấy toàn bộ nền kinh tế đang trên đà phát triển, thu hút FDI lớn, giúp quốc gia tăng vị thế trên thị trường quốc tế. Còn nếu quốc gia đó đang gặp tình trạng thâm hụt thương mại hay cán cân thương mại âm cho thấy trình độ sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp cần được cải thiện, để có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và các tiêu chuẩn xuất khẩu.

Ba là, cán cân thương mại là số liệu thể hiện mức đầu tư, thu nhập và tiết kiệm của một quốc gia.

Nếu cán cân thương mại dương hay quốc gia đang thặng dư thương mại là tín hiệu cho thấy mức độ đầu tư chiếm tỷ lệ lớn hơn so với tỷ lệ tiết kiệm. Đồng thời thu nhập của người lao động tăng lên cho thấy mức sống của người dân tại quốc gia đó đang ngày càng được cải thiện và nâng cao. Ngược lại, nếu cán cân thương mại âm hay thâm hụt thương mại, cho thấy tỷ lệ tiết kiệm của quốc gia đó đang lớn, nhu cầu mua sắm hàng hóa đang có xu hướng giảm, mọi người dân tỏ ra vô cùng thận trọng.

<b>1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại </b>

Cán cân thương mại là một chỉ tiêu đo lường của nền kinh tế, do vậy, cán cân thương mại chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố và cũng tác động ngược trở lại các yếu tố khác của nền kinh tế.

<i><b>1.2.1. Tình trạng nền kinh tế</b></i>

Về tình trạng nền kinh tế, chúng ta sẽ đi sâu phân tích vào 3 trụ cột là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), cơ cấu sản xuất và năng lực cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu.

Một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định tình hình kinh tế của một quốc gia tại bất kỳ thời điểm nào là GDP, nó thể hiện quy mơ và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Khả năng nhập khẩu của quốc gia tăng lên cùng với sự thịnh vượng của quốc gia.

Về nhập khẩu, khi GDP tăng thì nhập khẩu có xu hướng tăng và thậm chí nó cịn tăng nhanh hơn. Nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ sẽ thúc đẩy sự phát triển và mở

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

rộng của các doanh nghiệp, tạo ra thêm nhiều việc làm, nâng cao mức sống, thu nhập của người dân trong một quốc gia, dẫn đến tăng cầu tiêu dùng và đầu tư. Khi cầu tiêu dùng tăng thêm, giả sử tỷ trọng tiêu dùng hàng nhập khẩu và hàng trong nước là không đổi, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng lên hay nói cách khác sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ), MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0.2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0.2 đồng cho nhập khẩu.

Ngược lại, khi nền kinh tế kém tăng trưởng, không tạo ra nhiều việc làm, xảy ra tình trạng thất nghiệp hoặc việc làm không ổn định ảnh hưởng đến thu nhập của người dân dẫn đến nhu cầu tiêu dùng có xu hướng giảm đi tập trung chủ yếu vào các mặt hàng thiết yếu, ít có nhu cầu cho hàng hóa nhập khẩu. Nền kinh tế kém phát triển có thể có lợi thế về chi phí sản xuất, khiến cho hàng hóa của họ có giá cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này có thể thúc đẩy xuất khẩu. Do nhu cầu nhập khẩu thấp mà xuất khẩu có thể tăng, nên xuất khẩu rịng sẽ có xu hướng tăng lên.

Về xuất khẩu, ở nhiều nước đang phát triển, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có mối tương quan chặt chẽ với tăng trưởng xuất khẩu, đặc biệt là tăng trưởng hàm lượng nội địa trong xuất khẩu.

Xuất khẩu tăng, giảm theo nhu cầu toàn cầu, mức độ cải thiện năng lực quản lý, công nghệ trong nước và những thay đổi về giá cả. Ở hầu hết các quốc gia, nhu cầu trong nước khơng đủ để hình thành các khu chế xuất, nơi tập trung các doanh nghiệp, nhà máy hoạt động cùng một ngành hoặc một phân khúc ngành. Một quốc gia đẩy mạnh việc nâng cao năng lực quản lý và gia tăng đầu tư vào công nghệ sẽ giúp hoạt động xuất khẩu hiệu quả hơn, từ việc lựa chọn thị trường xuất khẩu, xây dựng chiến lược kinh doanh, đến việc quản lý chuỗi cung ứng và quan hệ với đối tác đồng thời nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Và từ đó tận dụng được lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Lợi thế kinh tế nhờ quy mơ đóng vai trị chính trong tăng trưởng năng suất, và khả năng cạnh tranh xuất khẩu. Ví dụ, trong tất cả các lĩnh vực, việc tăng quy mô sản xuất tạo ra cơ hội “vừa học vừa làm” hoặc tăng lợi nhuận hiệu quả. Dù với quy mô nào, doanh nghiệp đều được hưởng lợi từ lợi thế kinh tế nhờ quy mô ngoại sinh, chẳng hạn như cải thiện cơ sở hạ tầng hậu cần và giao thơng, kiến thức và kỹ năng tích lũy được trong các doanh nghiệp và trường đại học tại địa phương.

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại, hầu hết các nước đều theo đuổi chiến lược mở cửa, hướng về xuất khẩu ở một mức độ nào đó. Do đó, mối quan hệ giữa sản xuất trong nước và xuất khẩu ngày càng trở nên chặt chẽ. Sản xuất với cơ cấu hợp lý sẽ đem lại khả năng xuất khẩu có hiệu quả cao. Hợp lý ở đây là

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

xác định được ngành hàng nào có thế mạnh, kim ngạch lớn, tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm để tập trung đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất đẩy mạnh xuất khẩu.

Cuối cùng, nếu hàng hóa sản xuất trong nước của một quốc gia có năng lực cạnh tranh cao, có lợi thế so sánh trên thị trường quốc tế thì sẽ chiếm lĩnh được thị trường trong nước và quốc tế, khuyến khích xuất khẩu và đánh bại hàng hóa nhập khẩu. Khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường nước ngồi có ảnh hưởng lớn tới khối lượng xuất khẩu hàng hóa. Khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu tại thị trường nước ngồi phụ thuộc vào 3 nhóm yếu tố sau:

- Chất lượng sản phẩm, nhân tố cơ bản, tạo ra sức mạnh bền vững cho năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Nếu một quốc gia có nền kinh tế mạnh mẽ, họ thường đầu tư vào nghiên cứu, dây chuyền sản xuất, công nghệ để cho ra những sản phẩm có chất lượng cao.

- Tính đa dạng của hàng hóa đó tại thị trường nước ngồi: Nếu thị trường nước ngồi có các hàng hóa tương tự hoặc có giá trị thay thế tương đương thì nhu cầu đối với hàng hóa xuất khẩu sẽ bị ảnh hưởng do sự cạnh tranh giữa các mặt hàng cũng loại hay có khả năng thay thế.

- Các nhân tố liên quan đến giá cả gồm chi phí đầu vào sản xuất hàng xuất khẩu, năng suất lao động trong ngành sản xuất hàng xuất khẩu và tỷ giá hối đối: Nếu chi phí cho xuất khẩu lớn, nhất là thu gom hàng hoá, vận tải, tiêu cực phí ở khâu vận tải và thủ tục hải quan thì sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường quốc tế.

<i><b>1.2.2. Quan hệ quốc tế</b></i>

Quan hệ quốc tế hay cụ thể hơn là quan hệ thương mại hàng hóa đóng vai trị quan trọng trong việc định hình cán cân thương mại. Quốc gia có mối quan hệ tốt đẹp với các quốc gia, tổ chức khác sẽ thúc đẩy hợp tác thương mại, tạo điều kiện cho thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa và dịch vụ, từ đó góp phần cải thiện cán cân thương mại. Mối quan hệ giữa các quốc gia được thể hiện bằng việc các quốc gia kí kết vào hiệp định thương mại song phương và đa phương nghĩa là các bên tham gia nỗ lực thực hiện các biện pháp, chính sách nhằm gia tăng quy mô và tốc độ xuất nhập khẩu hàng hóa, như tăng số lượng, khối lượng mặt hàng, giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, tăng về số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu, tăng về cường độ hay tần suất xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai bên... Đồng thời, chính phủ và doanh nghiệp các bên nỗ lực thực hiện các biện pháp, chính sách nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất nhập khẩu của hai bên, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai bên theo hướng cơng nghiệp

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

hóa, hiện đại hóa, củng cố các yếu tố cho phát triển xuất nhập khẩu bền vững, cải thiện và nâng cao chất lượng thể chế xuất nhập khẩu của mỗi bên và khung thể chế xuất nhập khẩu chung nhằm đạt được mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu bền vững của từng bên và giữa hai bên.

Chúng có ảnh hưởng trực tiếp lên cán cân thương mại thông qua việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, theo đó, kim ngạch xuất nhập khẩu sang các nước đối tác sẽ tăng, củng cố thị trường truyền thống, khơi thông nhiều thị trường tiềm năng trên cơ sở thúc đẩy quan hệ với các đối tác chiến lược kinh tế quan trọng. Cụ thể:

Thứ nhất, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu: Tự do hóa thương mại nói chung và các FTA thế hệ mới nói riêng có tác động thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Những quy định trong các FTA này buộc nền kinh tế thành viên phải tái cấu trúc, mở ra những thị trường mới và tạo sức hút về hàng hóa.

Thứ hai, đối với sản xuất trong nước: Việc tham gia kí kết các hiệp ước thương mại quốc tế sẽ khiến cho nhiều mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước có giá thấp hơn, do đó, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp được cắt giảm, từ đó, giá cả hàng hóa sẽ cạnh tranh hơn so với hàng nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước để xuất khẩu. Việc cắt giảm thuế quan sẽ khiến hàng hóa nhập khẩu vào nước nhiều hơn do giá thành rẻ, mẫu mã phong phú và đa dạng, tác động tích cực đến sản xuất trong nước.

Thứ ba, thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Trong các hiệp định đều có các cam kết đối xử cơng bằng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong việc thành lập, mua lại, mở rộng, điều hành, triển khai, vận hành, kinh doanh. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thị trường trong nước nhanh hơn. Các doanh nghiệp có cơ hội nâng cao năng lực sản xuất, cải thiện chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, từ đó thúc đẩy xuất khẩu.

Tuy vậy, tác động của các hiệp ước thương mại làm thặng dư hay thâm hụt cán cân thương mại sẽ khác nhau giữa các quốc gia. Nó phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia, khả năng sản xuất của quốc gia đó với các nguồn lực trong nước bao gồm tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu đầu vào, trình độ khoa học kỹ thuật và nhân cơng của quốc gia đó. Điều này cũng có nghĩa là sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nguồn tài nguyên thiên nhiên, yếu tố con người và năng suất lao động... sẽ góp phần vơ cùng quan trọng trong việc cải thiện cán cân thương mại của một quốc gia.

Bằng việc tham gia vào các tổ chức quốc tế như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có thể đặt ra các quy tắc thương mại quốc tế, tạo mơi trường thương mại bình đẳng và minh bạch, góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế và tác động đến cán cân

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

thương mại của các quốc gia. Ví dụ, quy tắc của WTO về chống bán phá giá giúp bảo vệ ngành cơng nghiệp nội địa của các quốc gia, góp phần cải thiện cán cân thương mại.

Quan hệ chính trị giữa các quốc gia ảnh hưởng đến cán cân thương mại của một quốc gia. Quan hệ chính trị tốt đẹp giữa các quốc gia có thể thúc đẩy hợp tác thương mại, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp đa quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hóa và dịch vụ, từ đó góp phần cải thiện cán cân thương mại. Ngược lại, căng thẳng chính trị có thể dẫn đến áp đặt thuế quan trừng phạt, hạn chế thương mại, gây ảnh hưởng tiêu cực đến cán cân thương mại. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung là một điển hình.

<i><b>1.2.3. Chính sách thương mại quốc tế</b></i>

Một nền kinh tế mở là nền kinh tế có mức độ tham gia cao trong thị trường quốc tế. Nền kinh tế mở thường có các chính sách thương mại và đầu tư hướng ra ngoài, cho phép tự do giao thương hàng hóa, dịch vụ và vốn với các quốc gia khác một cách tự do hoặc dưới các điều kiện cụ thể: Tăng cường xuất khẩu, không ngừng đa dạng hóa hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu và tìm kiếm thị trường mới tiếp tục đóng vai trị sống cịn trong việc xây dựng khả năng phục hồi của đất nước. Xuất khẩu vẫn là trọng tâm của chiến lược phát triển dù một số ý kiến cho rằng tốc độ tồn cầu hóa đang chững lại hoặc tâm lý bảo hộ gia tăng ở các nước thu nhập cao đã làm giảm khả năng tăng trưởng dựa vào xuất khẩu.

Việc thiết kế chính sách thương mại quốc tế, cơ chế vận hành, cơ chế truyền tải, chế độ báo cáo… có ảnh hưởng khơng nhỏ tới hoạt động thương mại quốc tế. Tuy mỗi quốc gia có một khung chính sách khác nhau, mục tiêu là khơng giống nhau theo chiến lược phát triển kinh tế từng thời kỳ, nhưng đều dựa trên cơ sở các cam kết của quốc gia đó theo các hiệp định thương mại song phương và đa phương.

Chính sách thương mại quốc tế là tập hợp các quy tắc, công cụ điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia theo các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và phù hợp với điều kiện kinh tế nước mình phục vụ lợi ích thương mại.

Như vậy, chính sách thương mại quốc tế bản chất là một chính sách kinh tế vĩ mơ, trong bộ khung như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách tỷ giá, hệ thống giám sát vĩ mơ thận trọng mà Chính phủ có thể sử dụng để điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Cụ thể, đối tượng điều chỉnh của chính sách thương mại quốc tế là hoạt động thương mại quốc tế, với hai trụ cột chính là thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và các lĩnh vực có liên quan tới hai trụ cột này (quyền sở hữu trí tuệ, đầu

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

tư trực tiếp nước ngoài, hệ thống tiêu chuẩn, hệ thống giấy phép, thuế áp dụng trong nước).

Chính sách thương mại quốc tế nhìn chung có các mục tiêu như sau:

- Đảm bảo hoạt động thương mại quốc tế diễn ra thuận lợi dựa trên cơ sở các nguyên tắc: Chính sách thương mại quốc tế thường gắn với các cam kết mang tính pháp lý từ các hiệp định thương mại, đầu tư song phương và đa phương, tạo ra cơ hội mở rộng thị trường, cho phép nền kinh tế có lợi thế kinh tế nhờ quy mơ, giảm chi phí và gia tăng áp lực cạnh tranh. Bên cạnh đó việc bảo hộ sẽ giảm đi theo hướng tự do hóa thương mại. Chính sách thương mại quốc tế phải tạo ra môi trường hoạt động lành mạnh, tạo điều kiện cho chủ thể trong nền kinh tế có cơ hội tiếp cận thị trường, xúc tiến thương mại, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thương mại quốc tế liên quan tới nhiều thủ tục, quy trình, tập quán, quy định ở cả nước xuất khẩu và nhập khẩu. Các bên tham gia thương mại quốc tế cũng đối mặt với nhiều rủi ro. Do vậy, chính sách thương mại quốc tế cũng đóng vai trị như là chiếc đệm, hạn chế rủi ro. Chính sách thương mại quốc tế càng trở nên quan trọng trong thời kỳ khủng hoảng. Thực tế cũng cho thấy, trong thời kỳ khủng hoảng, các quốc gia cũng sử dụng nhiều biện pháp phi thương mại, quy định nhiều rào cản, hoặc có chính sách hỗ trợ thương mại quốc tế, bảo hộ nền sản xuất trong nước. Điều này có thể châm ngịi cho các chính sách trả đũa, kéo theo nhiều nước cùng tham gia cuộc chiến thương mại, với hậu quả không mong muốn là ngừng trệ thương mại. Vai trị của chính sách thương mại quốc tế càng trở nên quan trọng hơn, bởi việc lựa chọn chính sách thích hợp sẽ giúp hoạt động thương mại quốc tế diễn ra thuận lợi đảm bảo quyền lợi cho các bên.

- Góp phần tăng trưởng kinh tế thơng qua khai thác được lợi thế cạnh tranh của quốc gia trong q trình tự do hóa: Các lý thuyết nền tảng cho thương mại quốc tế ủng hộ quan điểm các quốc gia đều có lợi khi phát huy được lợi thế cạnh tranh của nước mình, qua đó góp phần tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thương mại. Chính sách thương mại quốc tế theo đường lối đúng đắn sẽ tối đa hóa lợi ích hoạt động của nước mình. Q trình tự do hóa thương mại đang diễn ra ở các mức độ khác nhau trên toàn thế giới, các quốc gia càng mong muốn tận dụng cơ hội này để phát triển kinh tế, thể hiện qua việc tích cực đàm phán, thực hiện các hiệp định ưu đãi thương mại và đầu tư ở quy mơ rộng hơn với tốc độ tự do hóa nhanh hơn. Nhưng q trình tự do hóa khơng phải lúc nào cũng là cơ hội, mà còn là thách thức đi kèm với rủi ro tụt hậu và khủng hoảng. Với một số nước, đặc biệt là nước kém phát triển, năng lực hạn chế về thể chế, nguồn lực hoạch định chính sách sẽ trì hỗn khả năng đàm phán, thực thi, kiến tạo cơ hội từ việc tham gia vào q trình tự do hóa. Trong nhiều trường hợp, Chính phủ có thể sử dụng các cơng cụ như thuế quan và trợ cấp thúc đẩy thương mại quốc tế ở một

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

số ngành công nghiệp mũi nhọn. Điều này phải được tiến hành hết sức cẩn trọng để đảm bảo các biện pháp này không gây phản ứng nhiễu loạn thông tin trong việc phân bố nguồn lực và phá hủy môi trường kinh doanh nói chung. Các ngành cơng nghiệp được ưu tiên, cụ thể là những ngành công nghiệp trong nước được hưởng nhiều ưu đãi hơn so với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài khác, nhưng thực tế năng suất lao động lại giảm. Nếu đầu ra của các ngành công nghiệp được ưu tiên lại là đầu vào cho các ngành khác, khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng trên thị trường thế giới sẽ bị tổn hại, làm giảm lợi nhuận và ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư trong khu vực sản xuất hướng vào xuất khẩu, triệt tiêu nhu cầu cải cách.

- Góp phần khắc phục khuyết tật thị trường: Chính sách thương mại quốc tế ln theo đuổi mục đích bảo vệ lợi ích của cơng chúng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế, bất kỳ chính sách nào đưa ra cũng nên đảm bảo tính hiệu quả cũng như sự cơng bằng. Cụ thể, chính sách thương mại quốc tế thường khắc phục thất bại trên thị trường như là hiện tượng thông tin bất cân xứng, bảo vệ môi trường, bảo hộ nền sản xuất non trẻ trong nước và hạn chế cạnh tranh không lành mạnh.

- Hỗ trợ các hoạt động khác của nền kinh tế như chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Xu hướng tự do hóa thương mại và tài chính đang trở thành xu thế cốt lõi của nền kinh tế thế giới. Hoạt động sản xuất trên thế giới cũng phát triển dựa vào phân công lao đông sâu sắc. Các hoạt động thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư trực tiếp quốc tế khó có thể tách rời trong một chu trình khép kín có sự tham gia mạnh mẽ của các chủ thể, các hãng, người tiêu dùng từ các quốc gia với trình độ phát triển khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là, bất cứ sự thay đổi, điều chỉnh nào trong lĩnh vực thương mại hàng hóa cũng sẽ có tác động dây chuyền tới thương mại dịch vụ và dòng vốn đầu tư trực tiếp. Ngược lại, thương mại dịch vụ, hoạt động đầu tư trực tiếp cũng có tác động tới thương mại dịch vụ. Do vậy, chính sách thương mại quốc tế không chỉ đơn thuần chỉ điều chỉnh mỗi hoạt động thương mại hàng hóa, mà cịn phải đảm bảo sự tương thích với thương mại dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một thể thống nhất, vì mục tiêu phục vụ lợi ích tối đa của cơng chúng.

Các cơng cụ của chính sách thương mại quốc tế:

- Nhóm cơng cụ khuyến khích xuất khẩu: (i) Trợ cấp xuất khẩu: là khoản tiền mà Chính phủ của một nước trợ cấp cho nhà sản xuất hàng hóa và dịch vụ nhất định. Thơng thường trợ cấp xuất khẩu áp dụng cho các mặt hàng nông sản, ngành cơng nghiệp non trẻ. (ii) Phá giá hàng hóa: là hiện tượng khi một loại hàng hóa được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với mức giá thấp hơn giá bán của hàng hóa đó tại thị trường nội địa nước xuất khẩu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

- Nhóm cơng cụ hạn chế nhập khẩu: (i) Thuế quan: Thuế quan là một loại thuế đánh vào hàng hóa khi nó vận chuyển xuyên qua biên giới giữa các quốc gia. Tùy theo tiêu chí, thuế quan được phân loại thành: Căn cứ theo mục đích đánh thuế: thuế quan tài chính và thuế quan bảo hộ; căn cứ theo đối tượng đánh thuế: thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế quá cảnh; căn cứ theo phương pháp tính thuế: thuế quan tính theo số lượng, thuế quan tính theo giá trị, thuế quan hỗn hợp. (ii) Hạn ngạch nhập khẩu: là các hạn chế và giới hạn trần do nước nhập khẩu đặt ra cho tổng giá trị hoặc tổng khối lượng của một số sản phẩm nhất định được mang từ nước ngoài vào. Nhiều khi hạn ngạch nhập khẩu còn được gọi là hạn chế xuất khẩu tự nguyện, một hạn ngạch trong thương mại được áp đặt từ bên nước xuất khẩu thay vì nước nhập khẩu. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện nói chung được áp đặt theo yêu cầu của nước nhập khẩu và được nước xuất khẩu chấp nhận nhằm chặn trước những hạn chế mậu dịch khác. (iii) Hạn ngạch thuế quan bao gồm một hạn ngạch nhất định cho một khối lượng hàng nhập khẩu, trong đó được hưởng mức thuế quan ưu đãi. Bất kỳ lượng nhập khẩu nào vượt quá mức hạn ngạch phải chịu mức thuế quan ngoài hạn ngạch cao hơn. (iv) Hàng rào kỹ thuật, biện pháp tự vệ,…

- Nhóm cơng cụ cấm xuất, nhập khẩu: Cấm xuất khẩu, nhập khẩu là biện pháp bảo hộ cao nhất, gây ra hạn chế lớn nhất đối với thương mại quốc tế. Tùy từng trường hợp, việc cấm xuất khẩu, nhập khẩu có thể cấm hồn toàn, cấm theo mùa, cấm tạm thời, cấm vận, cấm sản phẩm nhạy cảm, tạm dừng giấy phép nhập khẩu. Tuy mục tiêu của WTO là tự do hóa thương mại, nhưng các quốc gia thành viên có thể thi hành các biện pháp cấm xuất khẩu, nhập khẩu trong một số trường hợp ngoại lệ: Cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia; cần thiết để bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ con người, động thực vật, bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm; được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác, cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy định để phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm trong thương mại quốc tế

<i><b>1.2.4. Một số yếu tố cơ bản khác (lạm phát, tỷ giá hối đoái…)</b></i>

<b>Lạm phát</b>

Lạm phát tác động trực tiếp đến kim ngạch xuất khẩu thông qua việc làm tăng hay giảm giá trị đồng tiền của một quốc gia. Theo Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách thuộc Bộ công thương, một số nghiên cứu cho rằng lạm phát và kim ngạch xuất khẩu có mối quan hệ phi tuyến tính. Điều này có nghĩa là khi tỷ lệ lạm phát thấp, ảnh hưởng của lạm phát đến kim ngạch xuất khẩu là không rõ rệt, nhưng khi tỷ lệ lạm phát tăng lên đặc biệt là khi lạm phát cao thì nó có tác động tiêu cực đến kim ngạch xuất khẩu. Một số quốc gia đã trải qua tỷ lệ lạm phát dưới 10%, thì lạm phát khơng có tác

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

động tiêu cực rõ rệt nào đến kim ngạch xuất khẩu. Khi phân tích số liệu trong suốt 40 năm của 140 quốc gia, cũng đã chỉ ra mối quan hệ phi tuyến tính giữa lạm phát và kim ngạch xuất khẩu. Tỷ lệ lạm phát được phân tích trong nghiên cứu là 1-3% đối với các nước công nghiệp và dưới 10% đối với các nước đang phát triển.

Nhà kinh tế đoạt giải Nobel James Tobin nhận định rằng lạm phát vừa phải sẽ có lợi cho hoạt động xuất khẩu và làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Mức lạm phát vừa phải có nghĩa là cung tiền tăng khơng quá nhanh và phù hợp với nhu cầu của thị trường, do đó làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế, thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đầu tư mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, theo học thuyết của Fisher khi lạm phát ở mức độ vừa phải, cung tiền tăng làm cho lãi suất danh nghĩa sẽ giảm, chi phí đi vay của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sẽ giảm đi cùng với chi phí thực tế mà các doanh nghiệp phải chịu để mua đầu vào lao động giảm đi. Trong khi đó, lạm phát tăng vừa phải cũng cho phép các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu tăng giá sản phẩm ở mức độ hợp lý để thu được lợi nhuận cao hơn. Đó là những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu gia tăng sản lượng, và kết quả tất yếu là kim ngạch xuất khẩu tăng.

Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, lạm phát vừa phải thì tính dự báo được nâng cao. Điều đó giúp các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có thể xây dựng được các phương án đầu tư hiệu quả, tập trung đầu tư vào chất lượng sản phẩm, lựa chọn được các thị trường xuất khẩu tối ưu… Đối với các nhà nhập khẩu nước ngoài, khi tỷ lệ lạm phát của nước bạn hàng vừa phải, tức là giá trị đồng tiền và giá cả sản xuất của nước bạn hàng sẽ ổn định tương đối, họ sẽ yên tâm hơn, họ không phải lo cân nhắc các mặt hàng khác để thay thế do giá tăng. Chính vì vậy, nhu cầu nhập khẩu thị trường nước ngồi có thể được gia tăng. Tất cả điều đó đã góp phần thúc làm tăng kim ngạch xuất khẩu. Điều này đã được kiểm chứng với trường hợp của Hàn Quốc và Hồng Kông chỉ ra rằng lạm phát vừa phải (9% và 7%/năm trung bình trong giai đoạn 1985-1994) đã có tác động tích cực làm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu tăng.

Đầu tiên khi phân tích ảnh hưởng của lạm phát cao đến kim ngạch xuất khẩu phải nói rằng, lạm phát cao có quan hệ trái chiều với tỷ giá hối đoái thực cũng như tỷ giá hối đoái danh nghĩa không điều chỉnh ngay lập tức theo mức tăng giá. Chính bởi vậy, lạm phát cao làm cho đồng nội tệ lên giá thực tế so với đồng ngoại tệ, và qua đó khơng khuyến khích xuất khẩu

Ví dụ: Giả sử tỷ giá hối đối thực R vào đầu năn là 100, và tỷ lệ lạm phát là 10%/ năm, vì vậy vào cuối năm tỷ giá hối đối thực giảm xuống là 100/1.1=90.9. Ngồi ra, giả sử tỷ giá danh nghĩa được điều chỉnh hoàn toàn theo mức tăng của giá cả với độ trễ là một năm để có thể duy trì tỷ giá hối đoái thực R ở 100 vào đầu năm tiếp theo. Điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

này có nghĩa là giá trị trung bình của R trong năm là (100 + 90.9)/2 = 95,45. Bây giờ giả định lạm phát tăng 20%, do đó R giảm xuống cịn 100/1.2 = 83,3 vào cuối năm, và giá trị R trung bình trong năm là (100 + 83.3)/2 = 91,67, hay đồng tiền nội tệ lên giá thực tế 8,93% so với ngoại tệ. Qua đó chúng ta thấy rằng tỷ giá hối đối thực có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ lạm phát cũng như tỷ giá hối đối danh nghĩa khơng thể điều chỉnh ngay lập tức với sự tăng giá.

Chúng ta biết rằng tỷ giá hối đoái thực yếu hơn để thúc đẩy tăng trưởng (đi kèm với đó là tỷ giá lạm phát cao), điều này sẽ thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu ròng (cán cân thương mại). Nói cách khác, khu vực sản xuất hàng xuất khẩu nhận được sự trợ cấp ngầm từ những chi phí mà các ngành kinh tế khác phải gánh chịu.

Tỷ giá hối đối thực yếu có xu hướng làm tỷ lệ lạm phát tăng lên do giá cả của những mặt hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng lên và tiền lương của người lao động vì thế cũng phải tăng lên. Tuy nhiên, quan điểm phổ biến nhất đó là đồng tiền yếu sẽ hỗ trợ xuất khẩu bởi vì giá cả của các mặt hàng xuất khẩu khi tính bằng đồng ngoại tệ sẽ rẻ hơn, do đó làm tăng khối lượng xuất khẩu.

Theo quan điểm đó khi nội tệ giảm giá, hay khi tỷ giá hối đoái danh nghĩa tăng, sẽ làm tăng khối lượng xuất khẩu và hạn chế khối lượng nhập khẩu. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu không nhất thiết là sẽ tăng, có nghĩa là khi lạm phát tăng đồng nội tệ mất giá nhưng kim ngạch xuất khẩu chưa chắc đã tăng.

Nguyên nhân của điều này là do khi tỷ giá thay đổi sẽ tạo ra hai hiệu ứng là hiệu ứng khối lượng và hiệu ứng giá.

<i>*Hiệu ứng giá:</i>

Khi lạm phát tăng, tỷ giá hối đoái cũng tăng lên hay đồng nội tệ giảm giá, hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn khi tính bằng ngoại tệ và hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn khi tính bằng nội tệ. Đối với nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển hàng nhập khẩu đã trở thành nguyên liệu đầu vào chủ chốt của các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Thế nên rõ ràng, hiệu ứng giá là nhân tố làm tình trạng xuất khẩu xấu đi.

<i>*Hiệu ứng khối lượng:</i>

Dưới tác động của lạm phát tăng cao, đồng nội tệ sẽ giảm giá, hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn, khi tính bằng ngoại tệ, khuyến khích nước ngồi nhập khẩu nhiều hơn (khối lượng xuất khẩu tăng), hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn khi tính bằng nội tệ đã hạn chế nhu cầu nhập khẩu (khối lượng nhập khẩu giảm). Như vậy, hiệu ứng khối lượng là nhân tố làm tình trạng xuất khẩu được cải thiện.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Tình trạng xuất khẩu được cải thiện hay xấu đi khi tỷ giá thay đổi phụ thuộc vào việc hiệu ứng giá hay hiệu ứng khối lượng trội hơn. Đến lượt nó, tính trội của hiệu ứng giá hay hiệu ứng khối lượng lại phụ thuộc vào độ co giãn của xuất khẩu và nhập khẩu đối với sự thay đổi của tỷ giá., hay gián tiếp là dưới sự ảnh hưởng của lạm phát tăng.

Độ co giãn của xuất khẩu và nhập khẩu được nghiên cứu qua phương pháp tiếp cận hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu- Điều kiện Marshall-Lerner. Phương pháp này được xây dựng trên cơ sở 2 giả định như sau:

- Cung hàng hoá xuất khẩu là co giãn hoàn hảo (đường cung nằm ngang), ứng với mọi mức giá nhu cầu về hàng hoá xuất khẩu ln được thoả mãn.

- Cung hàng hố nhập khẩu cũng co giãn hoàn hảo, tức là với mọi mức giá nhu cầu hàng hố nhập khẩu cũng ln được thoả mãn.

Từ 2 giả định trên có thể rút ra giả thiết là giá cả hàng hoá nội địa và hàng hố nước ngồi là khơng thay đổi trước những biến động về cung-cầu hàng hoá xuất nhập khẩu. Do đó, khi lạm phát tăng tác động làm tỷ giá thay đổi, do đó sẽ làm thay đổi tương quan giá cả giữa hàng hoá - dịch vụ trong nước so với nước ngồi, từ đó làm thay đổi khối lượng xuất nhập khẩu.

Chúng ta đã biết kim ngạch xuất nhập khẩu phản ánh giá trị chứ không phản ánh khối lượng nên với giả thiết các yếu tố khác khơng đổi thì lạm phát tăng làm tỷ giá danh nghĩa tăng mà tỷ giá danh nghĩa tăng làm tỷ giá thực tăng, nghĩa là sức cạnh tranh thương mại quốc tế của hàng hoá xuất khẩu được cải thiện do giá của hàng hoá xuất khẩu quy ngoại tệ giảm. Đồng thời, với việc giá hàng xuất khẩu giảm là giá cả hàng hoá nhập khẩu tăng khi quy về đồng nội tệ. Điều này làm tăng khối lượng xuất khẩu, giảm khối lượng nhập khẩu.

Trong ngắn hạn, khi lạm phát tăng không nhất thiết làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng được cải thiện, song về dài hạn chắc chắn kim ngạch xuất khẩu được cải thiện. Trên thực tế kim ngạch xuất khẩu chỉ được cải thiện dưới tác động của lạm phát khi hiệu ứng khối lượng trội hơn hiệu ứng giá cả, tức là điều kiện Marshall-Lerner được thoả mãn:

<i><b>N<small>X </small>+ N<small>M </small>> 1</b></i>

Trong đó:

N<small>X </small>: hệ số co giãn xuất khẩu (hệ số biểu diễn phần trăm thay đổi của giá trị xuất khẩu khi tỷ giá thay đổi 1%)

N<small>M</small> : hệ số co giãn nhập khẩu (hệ số biểu diễn phần trăm thay đổi của giá trị nhập khẩu khi tỷ giá thay đổi 1%)

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Qua nhiều cơng trình nghiên cứu, hầu hết các nhà kinh tế đều thống nhất cho rằng: các hệ số co giãn trong ngắn hạn là thấp hơn trong dài hạn, do đó, điều kiện Marshall-Lerner chỉ có thể duy trì trong dài hạn: các hệ số co giãn trong dài hạn (dài hơn 2 năm) có giá trị gần gấp đôi so với hệ số co giãn trong ngắn hạn (0-6 tháng). Ngoài ra, tổng các hệ số co giãn trong ngắn hạn có xu hướng gần tới 1 và tổng các hệ số co giãn trong dài hạn luôn lớn hơn 1. Nó được giải thích như sau:

- Trong ngắn hạn, khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu ít thay đổi (ít co giãn). Do đó, hiệu ứng giá có tính trội hơn so với hiệu ứng khối lượng và điều này dẫn đến thực tế là: khi lạm phát tăng, đồng nội tệ mất giá, tình trạng xuất khẩu xấu đi trong ngắn hạn.

- Sau một thời gian nhất định (từ 6 tháng trở lên): Dưới tác động tăng lạm phát, đồng nội tệ bị mất giá, khối lượng xuất khẩu bắt đầu tăng và khối lượng nhập khẩu bắt đầu giảm, hiệu ứng khối lượng dần trội hơn hiệu ứng giá và tình trạng xuất khẩu được cải thiện.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hiện tượng khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu ít co giãn trong ngắn hạn nhưng co giãn trong dài hạn:

- Phản ứng của người sản xuất và người tiêu dùng diễn ra chậm, tức là người sản xuất cần có thời gian nhất định để mở rộng sản xuất, đáp ứng mọi nhu cầu xuất khẩu và người tiêu dùng cũng phải có thời gian để điều chỉnh cơ cấu tiêu dùng.

- Thị trường quốc tế cạnh tranh không hoàn hảo đã làm giảm ảnh hưởng của những thay đổi về tỷ giá như việc các tập đoàn độc quyền có thể hạ giá để giữ vững thị trường và cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

- Nhiều hàng hoá nhập khẩu đóng vai trị là đầu vào cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu do vậy khi giá nguyên vật liệu tính bằng nội tệ tăng làm tăng chi phí sản xuất hàng hố xuất khẩu và vì vậy làm giảm ưu thế cạnh tranh của hàng xuất khẩu khi lạm phát tăng.

Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng tỷ giá hối đối khơng phải là yếu tố duy nhất kết nối lạm phát với kim ngạch xuất khẩu. Tỷ lệ lạm phát cao có thể bóp méo tình trạng sản xuất do đã tách rời thu nhập thực tế với nguồn vốn tài chính. Hơn nữa, lạm phát có thể làm giảm tiết kiệm và chất lượng đầu tư do đã tác động làm giảm lãi suất thực tế, thơng thường xuống thấp hơn mức 0%. Ngồi ta, lạm phát cao cũng có thể là biểu hiện của sự quản lý kinh tế chưa chuẩn tắc (ví dụ, cán cân ngân sách thâm hụt kéo dài), các tổ chức khơng hồn hảo (như hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính dễ đổ vỡ), và các nhân tố khác (như nền chính trị rối loạn và xung đột trong xã hội) tất cả đã làm cho hoạt động xuất khẩu giảm sút. Lạm phát gia tăng đã làm đình trệ xuất khẩu thơng qua một hoặc tất cả các kênh đó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<b>Tỷ giá hối đoái</b>

Tỷ giá hối đoái là một nhân tố quan trọng tác động đến cán cân thương mại hàng hóa. Về mặt nguyên tắc, khi tỷ giá tăng, có nghĩa là đồng nội tệ giảm giá so với đồng ngoại tệ, hàng hóa nước ngồi sẽ đắt hơn tương đối so với hàng hóa trong nước, như vậy tác động làm cho nhập khẩu có xu hướng giảm, xuất khẩu có xu hướng tăng, cán cân thương mại hàng hóa sẽ có xu hướng được cải thiện. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, đồng nghĩa với việc đồng nội tệ tăng giá so với ngoại tệ, hàng hóa nước ngồi sẽ rẻ hơn tương đối so với hàng hóa trong nước và như vậy sẽ tác động làm cho nhập khẩu có xu hướng tăng, xuất khẩu có xu hướng giảm, cán cân thương mại sẽ có xu hướng thâm hụt.

Tỷ giá được chính phủ các quốc gia thường xuyên sử dụng như một công cụ hữu hiệu để tác động lên cán cân thương mại hàng hóa, nhưng việc lựa chọn và sử dụng như thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất cho một nền kinh tế. Trên thực tế, khơng phải chỉ có một loại tỷ giá duy nhất, với mỗi vấn đề cụ thể cần phân tích khác nhau chúng ta sẽ sử dụng một loại chỉ số tỷ giá cụ thể nhất định.

<i><b>Tỷ giá hối đoái danh nghĩa:</b></i>

Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương (Bilateral Nominal Exchange Rate -NER): Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa tiền của các quốc gia hay nền kinh tế. Ví dụ như 24.945,00 VNĐ/ 1 USD, điều này có nghĩa là 1USD có giá là 24.945 VNĐ. Tỷ giá này được gọi là tỷ giá danh nghĩa, bởi vì nó chưa đề cập đến sức mua (yếu tố thực) giữa USD và VNĐ. Cụ thể ở đây, qua tỷ giá này chúng ta chưa biết được 1 USD mua được bao nhiêu hàng hóa ở Hoa Kỳ và 24.945 VNĐ mua được bao nhiêu hàng hóa ở Việt Nam. Có thể 1 USD ở Hoa Kỳ mua được lượng hàng hóa bằng 24.945 VNĐ tại Việt Nam, hoặc ít hơn hoặc nhiều hơn.

- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương, hay còn gọi là tỷ giả danh nghĩa trung bình (Nominal Effective Exchange Rate - NEER): vì mỗi đồng tiền đều có tỷ giá với đồng tiền khác. Thông thường người ta dùng phương pháp tỉnh tỷ giá danh nghĩa trung bình, cũng giống như phương pháp tính chỉ số giá tiêu dùng CPI, để biết được từ thời điểm này sang thời điểm khác, một đồng tiền là lên giá hay giảm giá so với tất cả những đồng tiền còn lại. Như vậy về ý nghĩa cũng như phương pháp tính NEER và CPI là giống nhau, chỉ khác nhau ở điểm duy nhất là CPI áp dụng cho hàng hóa thơng thường cịn NEER áp dụng cho hàng hóa đặc biệt là ngoại tê.

<i><b>Tỷ giá hối đoái thực tế:</b></i>

- Tỷ giá hối đoái thực tế song phương (Bilateral Real Exchange Rate - RER): Tỷ giá hối đoái thực tế song phương là tỷ giá hối đoái danh nghĩa đã được điều chỉnh theo

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

lạm phát tương đối giữa trong nước và nước ngồi. Do đó, nó là chỉ số phản ánh mối tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ. Về bản chất, tỷ giá thực là một chỉ số thể hiện sự so sánh mức giá hàng hóa ở trong nước và ở nước ngoài khi cả hai đều tính bằng nội tệ. Chúng ta có thể tính tỷ giá hối đối thực tế theo cơng thức sau:

E = <i><sup>Tỷ giáhối đối danh nghĩ giá nướcngồi</sup><sub>Giá trong nước</sub></i>

- Tỷ giá hối đoái thực tế đa phương (Real Effective Exchange Rate - REER): REER chỉnh bằng tỷ giá hối đoái danh nghĩa đa phương đã được điều chỉnh bởi tỷ lệ lạm phát ở trong nước với tất cả các nước cịn lại, vì vậy nó phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ với tất cả các đồng tiền cịn lại. REER có nghĩa nghĩa tương tự như RER. Tuy nhiên, REER có ý nghĩa nhiều hơn, nó là thước do tổng hợp vị thế cạnh tranh thương mại của một nước so với những nước còn lại. Do có ý nghĩa như vậy nên hiện nay hầu hết các nước đều tính tốn và cơng bố chỉ tiêu này.

Do giá cả hàng hóa khơng co giãn trong ngắn hạn nên phá giá tiền tệ làm cho tỷ giá thực tăng; tỷ giá thực tăng kích thích tăng khối lượng xuất khẩu hàng hóa, và hạn chế khối lượng nhập khẩu hàng hóa, cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế. Tuy nhiên xét về mặt giá trị, cán cân thương mại không chắc chắn được cải thiện. Chúng ta có thể sử dụng phương pháp phân tích và tiếp cận của Marshall Lerner đã trình bày ngắn gọn trước đó ở phần lạm phát:

Phá giá nội tệ sẽ tạo ra hiệu ứng tăng khối lượng xuất khẩu và hạn chế khối lượng nhập khẩu, song xét về mặt giá trị thì cán cân thương mại không nhất thiết được cải thiện. Điều này xảy ra vì phá giá tiền tệ tạo ta hiệu ứng lên giá cả và hiệu ứng khối lượng như sau:

- Đối với cán cân thương mại hàng hóa tính bằng đồng nội tệ: hiệu ứng khối lượng thể hiện ở chỗ phá giá làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, khối lượng nhập khẩu giảm, khiến cho cán cân thương mại tính bằng đồng nội tệ được cải thiện. Hiệu ứng giá cả thể hiện ở chỗ phá giá làm cho giá cả hàng hóa nhập khẩu tỉnh bằng đồng nội tệ tăng, làm cho cán cân thương mại tỉnh bằng đồng nội tệ xấu đi.

- Đối với cán cân thương mại tỉnh bằng USD: hiệu ứng khối lượng cũng giống như đối với cán cân thương mại tỉnh bằng nội tệ. Hiệu ứng giá cả thể hiện ở chỗ phá giá làm cho giá cả hàng hóa xuất khẩu tỉnh bằng ngoại tệ giảm, làm cho cán cân thương mại hàng hóa tính bằng ngoại tệ giảm.

Hiệu ứng rịng của cán cân thương mại được cải thiện hay trở nên xấu đi phụ thuộc vào tính trội của hiệu ứng giá cả:

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

- Khả năng thứ nhất phản ảnh tỉnh trội của hiệu ứng giá cả. Điều này có nghĩa là cho dù khối lượng xuất khẩu tăng lên và khối lượng nhập khẩu giảm cũng không đủ để bù đắp cho giảm giá trị xuất khẩu tính bằng ngoại tệ và tăng giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ. Kết quả là cán cân thương mại hàng hóa từ trạng thái cân bằng sẽ trở nên thâm

<i><b>hụt và khi đó trị số (NX + N<small>M</small>) < 1. </b></i>

- Khả năng thứ hai phản ánh tính trung hịa của hai hiệu ứng. Điều này có nghĩa là khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm vừa đủ để bù đắp cho giảm giá trị xuất khẩu tỉnh bằng ngoại tệ và tăng giá trị nhập khẩu tính bằng nội tệ. Kết quả là

<i><b>trạng thái cân bằng của cán cân thương mại được duy trì và khi đó trị số (NX + N<small>M</small>) = 1</b></i>

- Khả năng thứ ba phản ánh tỉnh trội của hiệu ứng khối lượng. Điều này có nghĩa là sau khi phá giá, khối lượng xuất khẩu tăng và lượng nhập khẩu giảm thừa để bù đắp

<i><b>cho hiệu ứng giá cả. Kết quả là cản cân thương mại được cải thiện và khi đó trị số (NX +N<small>M</small>)> 1.</b></i>

Như vậy, phá giá tiền tệ chắc chắn làm cho khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm, nhưng cán cân thương mại khơng nhất thiết vì thế mà được cải thiện. Việc cán cân thương mại được cải thiện hay trở nên xấu hơn phụ thuộc vào tính trội của hiệu ứng khối lượng hay giá cả. Trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có tác dụng lập tức ngay sau khi phá giá, trong khi đó hiệu ứng khối lượng chỉ có tác dụng sau một thời gian nhất định. Điều này xẩy ra là vì khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu không co giãn trong ngắn hạn, mà chỉ co giãn trong dài hạn. Như vậy, sau khi phả giá, hiệu ứng giá cả có tác dụng làm cho cán cân thương mại trở nên xấu đi ngay lập tức, trong khi đó hiệu ứng khối lượng xuất khẩu và nhập khẩu chi cải thiện cán cân thương mại trong dài hạn. Điều này có nghĩa là trong ngắn hạn, hiệu ứng giá cả có tính trội so với hiệu ứng khối lượng, nên làm cho cán cân thương mại trở nên xấu đi, ngược lại, trong dài hạn, hiệu ứng khối lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả, nên cán cân thương mại được cải thiện. Đặc điểm này của phá giá tiền tệ dược biểu diễn bằng hiệu ứng tuyến J.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<i><b>Hình 1.1: Hiệu ứng tuyến J về ảnh hưởng của phá giá đến cán cân thương mại</b></i>

<i>Nguồn: Giáo trình Kinh tế học tập II, Nxb Trường đại học Kinh tế Quốc dân</i>

Tuy nhiên, đối với mỗi nền kinh tế khác nhau thì thời gian kéo dài thâm hụt lại khác nhau. Đối với những nền kinh tế phát triển, là nền kinh tế đặc trưng chủ yếu là sản xuất những hàng hóa tiêu chuẩn tham gia thương mại quốc tế. Khi phá giá làm cho khối lượng xuất khẩu tăng nhanh và khối lượng nhập khẩu giảm nhanh trong ngắn hạn, do đó hiệu ứng khối lượng có tác dụng tích cực ngay trong ngắn hạn dẫn đến cán cân thương mại chỉ bị xấu đi trong ngắn hạn, sẽ được cải thiện rõ rệt trong dài hạn. Đối với những nước đang phát triển do nền kinh tế được đặc trưng chủ yếu bởi hàng hóa khơng đủ tiêu chuẩn tham gia thương mại quốc tế, nên khi phá giá làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm và khối lượng nhập khẩu giảm chậm, do đó hiệu ứng khối lượng có tác dụng mờ nhạt, dẫn đến cán cân thương mại bị xấu đi rõ rệt trong ngắn hạn.

Trên thực tế, cũng có rất nhiều các yếu tố khác có ảnh hưởng đến hiệu quả của việc phá giá đồng nội tệ trong đó nổi bật như lạm phát, sự chậm chễ trong phản ứng của người tiêu dùng, sự chậm chễ trong phản ứng của nhà sản xuất, sự cạnh tranh khơng hồn hảo là những yếu tố mà Chính phủ khó kiểm sốt. Chính vì vậy, với một nước đang phát triển như Việt Nam trước khi chọn giải pháp phá giá đồng tiền cần phải tạo ra được các điều kiện để có thể phản ứng tích cực với những lợi thế mà phá giả đem lại. Có như vậy cán cân thương mại mới được cải thiện một cách chắc chắn trong dài hạn, và hạn chế được những tác động tiêu cực của chính sách phá giá tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô.

<b>1.3. Tác động của cán cân thương mại đối với nền kinh tế</b>

<i><b>1.3.1. Tác động của cán cân thương mại đến tiết kiệm và đầu tư </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Như đã biết, cán cân thương mại phản ánh mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia, trong khi tiết kiệm và đầu tư phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường vốn.

Để nhìn rõ hơn sự liên quan giữa 3 yếu tố tiết kiệm, đầu tư và cán cân thương mại, biểu thức có thể được trình bày dưới dạng sau: NX = (GDP – C – G) – I (1). Trong đó phần biểu thức (GDP – C – G) là tổng thu nhập sau khi trừ đi phần tiêu dùng của người dân và chi tiêu Chính phủ mang tên là tiết kiệm quốc dân (Sn).

Từ (1) ta biến đổi thành: NX = Sn – I (2).

Biểu thức trình bày mối liên hệ giữa các yếu tố tiết kiệm, đầu tư với cán cân thương mại hoặc giữa luồng vốn quốc tế được dùng với mục đích tích lũy vốn (Sn – I) và hàng hóa, dịch vụ quốc tế (NX).

Phương trình trên đây hàm ý rằng số vốn ra nước ngồi rịng phải cân bằng với cán cân thương mại trong dài hạn. Theo thời gian khi nền kinh tế đang xét tiết kiệm nhiều hơn nhu cầu đầu tư cho các dự án của nó, thì phần tiết kiệm chưa được tài trợ cho các dự án trong nền kinh tế sẽ được dùng cho người nước ngoài vay. Khi các dự án của nước ngoài cần khoản vay này, các doanh nghiệp của nền kinh tế đó sẽ cung cấp cho các thương nhân nước ngoài nhiều hàng hóa và dịch hơn so với họ cung cấp cho các tác nhân bên trong nền kinh tế, tức là nền kinh tế này thặng dư thương mại.

Ngược lại khi nền kinh tế đang xem xét tiết kiệm ít hơn nhu cầu đầu tư của các dự án trong nền kinh tế thì phần chênh lệch ít hơn này phải được tài trợ bằng nguồn vốn vay nước ngoài. Những khoản nợ này dẫn tới việc nền kinh tế đó phải nhập khẩu nhiều hàng hóa và dịch vụ so với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài, tức là thâm hụt thương mại. Hay một cách đơn giản hơn, cán cân thương mại thâm hụt có nghĩa là quốc gia đang tiết kiệm ít hơn đầu tư, và ngược lại cán cân thương mại thặng dư thì quốc gia tiết kiệm nhiều hơn đầu tư.

<i><b>1.3.2. Tác động của cán cân thương mại đến GDP</b></i>

Dù có quan điểm trái chiều về nhiều vấn đề, nhưng các nhà kinh tế học đều thống nhất rằng: xuất khẩu có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế thuộc trường phái tân cổ điển lập luận rằng thương mại phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, thúc đẩy tăng trưởng năng suất. Những người theo trường phái cấu trúc coi xuất khẩu là một công cụ để xác định lợi thế kinh tế nhờ quy mô trong sản xuất và nới lỏng hạn chế ngoại hối đối với tăng trưởng. Dù theo học thuyết nào, các bằng chứng cho thấy mối liên hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế đều đáng tin cậy: các quốc gia đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bền vững sẽ tăng trưởng nhanh hơn. Dễ hiểu hơn thì xuất khẩu rịng là một thành phần của GDP nên nó tác động đến GDP.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Để hiểu rõ hơn về tác động của cán cân thương mại đến GDP, cần phải bóc tách từng yếu tố như sau:

Thứ nhất, xuất khẩu. Khi một quốc gia xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, nó tạo ra doanh thu từ nước ngoài. Xuất khẩu là một phần của tổng cầu trong nền kinh tế và góp phần trực tiếp vào GDP. Sự tăng trưởng trong xuất khẩu có thể dẫn đến việc tăng sản xuất, tạo việc làm và thu nhập, từ đó thúc đẩy GDP. Xuất khẩu có thể được coi là động lực chính thúc đẩy kinh tế tăng trưởng kể cả trực tiếp và gián tiếp vì một mặt chúng là một phần của sản xuất, mặt khác chúng thúc đẩy nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và vốn, do đó cũng du nhập những ý tưởng và tri thức mới. Việc áp dụng các hình thức quản lý hiệu quả hơn, việc cải tiến kỹ thuật sản xuất, tăng tính kinh tế theo quy mô và khả năng tạo lợi thế so sánh rõ rệt sẽ có tác động tích cực lên tồn bộ nền kinh tế. Năng lực được sử dụng lớn hơn, tính kinh tế theo quy mơ lớn hơn, động cơ phát triển công nghệ lớn hơn và áp lực cạnh tranh quốc tế lớn hơn, từ đó dẫn tới quản lý hiệu quả hơn. Những yếu tố này cũng đem lại lợi ích cho khu vực khơng xuất khẩu nói riêng hay nền kinh tế nói chung.

Một ví dụ điển hình cho thấy xuất khẩu là động lực tăng trưởng kinh tế. Đối với các nước thuộc OPEC, xuất khẩu dầu mỏ là động cơ chính thúc đẩy phát triển kinh tế. Arab Saudi, Kuwait, các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất (UAE) và Oman trong khoảng thời gian 1973-1993, bốn quốc gia này xuất khẩu phần lớn các sản phẩm dầu mỏ và sử dụng giá trị thu được vào mua các mặt hàng tiêu dùng, thuê nhân công, v.v... Tỷ lệ xuất khẩu/GDP của bốn quốc gia khá cao và có giá trị lần lượt là 42%, 53%, 70% và 47%. Có thể thấy xuất khẩu đóng góp vào GDP khá lớn và có một vai trị tích cực, quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của bốn nước thuộc khu vực Vịnh Arab.

Nói tóm lại, ngành xuất khẩu có thể ảnh hưởng tới các ngành phi xuất khẩu thông qua tác động bên ngồi tích cực. Hơn nữa, mở rộng xuất khẩu sẽ tăng tính hiệu quả của nền kinh tế dựa vào quy mơ. Ngồi ra, xuất khẩu có thể làm giảm khó khăn về ngoại tệ và do đó có thể giúp các nước tiếp cận với thị trường toàn cầu dễ dàng hơn. Cuối cùng, xuất khẩu có thể thúc đẩy tăng trưởng dài hạn vì sẽ thúc đẩy phát triển công nghệ và học hỏi kinh nghiệm từ các nước khác, tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu hàng hố phục vụ cho cơng nghiệp hố đất nước; đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển; tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.

Thứ hai, nhập khẩu. Nhập khẩu là việc mua hàng hóa và dịch vụ từ nước ngồi. Khi một quốc gia nhập khẩu, nó chi tiêu cho các sản phẩm không được sản xuất trong nước, điều này có thể làm giảm tổng cầu nội địa và ảnh hưởng tiêu cực đến GDP. Tuy nhiên mức độ nhập khẩu cao còn cho thấy nhu cầu trong nước mạnh mẽ, nền kinh tế

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

đang phát triển. Chẳng hạn như, khi những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc và thiết bị đáp ứng cho nhu cầu gia tăng sản xuất, điều này tạo ra thuận lợi cho quốc gia nhập khẩu vì nó giúp cải thiện năng suất của nền kinh tế trong thời gian dài.

Thứ ba, thặng dư cán cân thương mại thể hiện tình hình quốc gia đang thu hút được lượng lớn vốn FDI, làm gia tăng vị thế của quốc gia đó trên thương trường và dẫn đến nền kinh tế sẽ phát triển tốt. Bên cạnh đó, thặng dư cũng cho thấy mức độ đầu tư của quốc gia đó đang dần lớn hơn so với hoạt động tiết kiệm. Đồng nghĩa thu nhập của người lao động tăng lên, mức sống của người dân trong nước được cải thiện. Cán cân thương mại thặng dư có thể là một dấu hiệu của nền kinh tế mạnh mẽ, nơi sản xuất trong nước đủ mạnh để khơng chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa mà cịn cung cấp hàng hóa cho thị trường quốc tế. Điều này thường dẫn đến việc tăng trữ lượng ngoại hối và cải thiện vị thế tài chính quốc tế của quốc gia đó.

Mặt khác, một cán cân thương mại thâm hụt có thể phản ánh sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu, có thể do nhu cầu trong nước vượt quá khả năng sản xuất hoặc do sự cạnh tranh từ hàng hóa nước ngồi. Thâm hụt kéo dài có thể dẫn đến việc gia tăng nợ nước ngoài và áp lực đối với tỷ giá hối đoái. Và nếu một quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm lớn, khi thâm hụt thương mại diễn ra sẽ khiến cho nhu cầu mua sắm bị giảm xuống nặng nề. Thâm hụt thể hiện khả năng sản xuất kinh doanh của quốc gia đó bị kém trên thị trường. Lúc này, các doanh nghiệp cần quan tâm, khắc phục lỗ hổng và nâng cao chất lượng để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế tốt hơn.

Tiếp theo, hãy liên kết xuất khẩu, nhập khẩu và GDP. Theo cách tiếp cận chi tiêu, các nhà kinh tế tính tốn GDP như sau:

<b>Y = GDP = C + I + G + (X-M)</b>

Từ cơng thức này, bạn có thể thấy rằng xuất khẩu có mối quan hệ cùng chiều với GDP, trong khi nhập khẩu có tác động tiêu cực. Khi một quốc gia báo cáo thặng dư thương mại tăng lên, nó sẽ đẩy GDP tăng lên và kích thích tăng trưởng kinh tế.

Ngoài ra, cán cân thương mại cũng phản ánh khả năng cạnh tranh của một quốc gia trên thị trường quốc tế và khả năng của nó trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Một cán cân thương mại lành mạnh khơng chỉ góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế mà còn thúc đẩy sự ổn định kinh tế vĩ mô và tạo ra việc làm cho người dân. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc duy trì một cán cân thương mại cân đối và bền vững đối với sự phát triển kinh tế tổng thể của một quốc gia.

<i><b>1.3.3. Tác động của cán cân thương mại đến cung cầu tiền tệ </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Xuất, nhập khẩu và tỷ giá hối đoái có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau. Hoạt động xuất nhập khẩu phát sinh quan hệ cung cầu ngoại tệ làm biến động tăng giảm tỷ giá.

Hoạt động xuất khẩu mang về ngoại tệ cho quốc gia, làm gia tăng nguồn cung ngoại tệ một cách dồi dào, do đó làm giảm tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá hối đoái thấp, tức giá trị đồng nội tệ cao sẽ làm cho giá cả hàng hóa của Việt Nam ở nước ngồi tăng lên, đắt hơn so với hàng hóa của nước khác, làm giảm tính cạnh tranh, hạn chế lượng tiêu thụ, từ đó hạn chế sự phát triển của hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, khi tỷ giá hối đoái cao, tức giá trị đồng nội tệ thấp sẽ làm cho giá cả hàng hóa của Việt Nam ở nước ngồi thấp, rẻ hơn so với hàng hóa của nước khác, làm tăng tính cạnh tranh, tiêu thụ nhanh hàng hóa, từ đó tạo điều kiện để mở rộng phát triển hoạt động xuất khẩu. Đây là một trong những lý do khiến các nước phá giá đồng nội tệ để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, việc phá giá đồng nội tệ dẫn đến nhiều hệ lụy và bị ràng buộc bởi nhiều điều kiện khác nên chính phủ các nước không thể thực hiện việc phá giá đồng nội tệ một cách dễ dàng.

Hoạt động nhập khẩu là việc chi ngoại tệ ra nước ngồi để mua hàng hóa và dịch vụ về trong nước, khi gia tăng nhập khẩu sẽ làm gia tăng cầu ngoại tệ, do đó có tác động làm gia tăng tỷ giá hối đối. Khi tỷ giá hối đoái cao, làm cho giá cả hàng hóa dịch vụ nhập khẩu trong nước đắt đỏ hơn so với hàng hóa trong nước, làm giảm tính cạnh tranh, hạn chế lượng tiêu thụ, từ đó hạn chế sự phát triển của hoạt động nhập khẩu, đồng thời tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất trong nước. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái thấp, hàng hóa nhập khẩu có giá bán rẻ hơn hàng hóa trong nước, tăng khả năng cạnh tranh, có lợi cho nhà nhập khẩu, nhưng làm hạn chế phát triển sản xuất trong nước. Vì vậy, chính phủ các nước thường dùng chính sách nâng cao tỷ giá, tức phá giá đồng nội tệ để hạn chế hàng nhập khẩu nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁN CÂN THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆTNAM VÀ HOA KỲ GIAI ĐOẠN 2020-2023 VÀ KHUYẾN NGHỊ</b>

<b>2.1 Khái quát quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Hoa Kỳ</b>

<i><b>2.1.1 Giới thiệu chung về kinh tế Hoa Kỳ </b></i>

Hoa Kỳ là quốc gia rộng lớn với diện tích 9,8 triệu km² và hơn 337 triệu người (điều tra năm 2022), Hoa Kỳ là quốc gia lớn thứ ba về tổng diện tích cũng như đứng thứ ba về quy mô dân số với mật độ dân cư 87 km².

Kinh tế Hoa Kỳ có quy mơ lớn nhất thế giới. Theo Ngân hàng Thế giới, GDP năm 2019 của Hoa Kỳ đứng đầu thế giới với tổng giá trị GDP đạt 21,4 tỷ USD, chiếm 23.6% toàn thế giới trong khi đó dân số Hoa Kỳ chỉ chiếm 4.3% dân số toàn cầu. Mức tăng trưởng GDP cũng ở mức cao đạt 2.1%.

Năm 2020, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hoạt động của doanh nghiệp gián đoạn, gói cứu trợ chậm trễ của chính phủ, GDP Hoa Kỳ co lại 3,5% - tệ nhất từ năm 1946 và cũng là năm giảm đầu tiên kể từ khủng hoảng tài chính 2007 - 2009.

<i><b>Hình 2.1: Tăng trưởng GDP và mức lạm phát giai đoạn 2017-2021</b></i>

<i>Nguồn: Ngân hàng thế giới </i>

Năm 2022, kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng chậm lại do lạm phát cao và tiếp sau đó là chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát, ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng và làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. GDP nước này cả năm tăng 2,1%, thấp hơn mức 5,7% của năm 2021.

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×