Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

tính tự sự trong tập lục bát mỗi ngày của đặng vương hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.56 KB, 91 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC </b></i>

<i>--- </i>

<b>NGUYỄN THỊ THU HIỀN </b>

<i><b>TÍNH TỰ SỰ TRONG TẬP “LỤC BÁT MỖI NGÀY” CỦA ĐẶNG VƯƠNG HƯNG </b></i>

<i><b>Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 80 22 01 21 </b></i>

<b>LUẬN VĂN THẠC SĨ </b>

<b>NGƠN NGỮ, VĂN HĨA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM </b>

<b>Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Ngân </b>

<b>Thái Nguyên, năm 2023</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i><b>LỜI CAM ĐOAN </b></i>

Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<i><b>LỜI CẢM ƠN </b></i>

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới TS. Lê Thị Ngân, người thầy khoa học đã nhiệt tình,tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện và hồn thành luận văn này !

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cơ giáo trong Khoa Ngữ văn, Phịng đào tạo, Phòng Quản lý khoa học, Thư viện Trường Đại học khoa họcĐại học Thái Nguyên đã luôn tạo điều kiện, giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cơ giáo cùng gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian qua!

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỤC LỤC </b>

MỞ ĐẦU ... 1

1. Lý do chọn đề tài ... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ... 2

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ... 8

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ... 8

5. Phạm vi nghiên cứu ... 9

6. Đóng góp của luận văn ... 9

7. Cấu trúc của luận văn ... 9

NỘI DUNG ... 10

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ... 10

1.1. Tự sự trong thơ ... 10

1.1.1. Khái niệm tự sự ... 10

1.1.2. Hiện tượng giao thoa giữa thể loại trữ tình và sự sự ... 11

1.2. Hành trình thơ Đặng Vương Hưng ... 15

1.2.1. Cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác của Đặng Vương Hưng .. 15

1.2.2. Con đường thơ lục bát Đặng Vương Hưng ... 19

1.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Đặng Vương Hưng ... 20

CHƯƠNG 2: CÁC KIỂU TỰ SỰ TRONG TẬP THƠ LỤC BÁT MỖI NGÀY 23 <i>2.1. Với “Lục bát mỗi ngày”, mỗi bài thơ là một câu chuyện ... 23 </i>

3.2. Giọng điệu trần thuật ... 67

3.3. Không gian nghệ thuật ... 72

KẾT LUẬN ... 82

TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 84

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỞ ĐẦU </b>

<i><b>1. Lý do chọn đề tài </b></i>

1.1. Bàn về thơ, Biêlinxki khẳng định: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó

<i>mới là nghệ thuật” [49, tr 5]. Thật vậy, cánh diều nghệ thuật dù bay cao, bay xa </i>

tới đâu cũng phải nối với cuộc đời bằng một sợi dây. Thơ được bật lên từ những rung động của trái tim và là tiếng nói của cảm xúc. Những rung cảm ấy được sinh ra từ cõi lòng đầy tâm sự của người nghệ sỹ trước hiện thực cuộc sống. Mỗi khi có điều muốn giãi bày hay nói hộ nỗi lịng của người khác, các thi nhân sẽ tìm đến thơ như một cứu cánh. Không đặt trọng tâm vào việc kể câu chuyện gắn

<i>với nhân vật, địa điểm, sự kiện như truyện, ưu tiên hàng đầu của thơ là thể hiện </i>

cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình. Song, từ cổ chí kim thơ ln ẩn chứa cả yếu tố tự sự, thậm chí trong sáng tạo nghệ thuật của một số cây bút yếu tố này rất đậm nét. Khi đến với một thi phẩm có tính tự sự, người đọc sẽ nhận ra bóng dáng một câu chuyện, lúc ấy câu chuyện có tác dụng làm nền cho tiếng nói trữ tình và ln chịu sự chi phối của mạch cảm xúc mà tác giả triển khai. Tuy nhiên, các câu chuyện cũng chỉ được kể ở mức vừa đủ để cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ trọn vẹn. Nghiên cứu tính tự sự trong thơ giúp chúng ta có thêm cách tiếp cận đời sống xã hội, thời đại mà bài thơ ra đời; hiểu rõ tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của thi nhân cùng thông điệp mà tác giả muốn nhắn nhủ.

1.2. Đặng Vương Hưng là một trong những nhà thơ ấn tượng của nền văn học đương đại Việt Nam. Kể từ khi “chắp bút để viết nên trang” đến nay, anh đã có tuổi nghề hơn 40 năm với rất nhiều đề tài (chiến tranh, thanh niên, tình u đơi lứa, tình yêu quê hương đất nước...) và thể loại (truyện ngắn, thơ, viết báo...). Ở đề tài, thể loại nào anh cũng khẳng định được bản lĩnh của một nhà văn – chiến sĩ và tạo được dấu ấn của riêng mình.

Riêng về mảng thơ, khởi đầu Đặng Vương Hưng đã thử bút và trải nghiệm nhiều thể loại nhưng lục bát là thể thơ thành công nhất của anh. Các bài thơ lục bát của Đặng Vương Hưng có cấu trúc ngắn, hầu hết thường nằm trong một

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

trang giấy. Thơ anh chuẩn vần, câu chữ giản dị, chân thực nhưng sâu sắc. Đọc thơ Đặng Vương Hưng, độc giả thấy gần gũi vơ cùng, thấy bóng dáng của mình, của người thân trong đó. Anh thực sự là một cây bút gắn bó sâu sắc với hiện thực cuộc sống; từ đó khám phá, tái hiện cuộc sống và tìm đến những giá trị chân, thiện, mỹ của cuộc đời qua thể thơ đậm đà tính dân tộc. Đặng Vương Hưng tự nhận xét bản thân là một trong những người đã may mắn sống nhiều. Và trên hành trình “Sống nhiều” ấy, Đặng Vương Hưng đã gửi biết bao tâm sự buồn - vui, những câu chuyện cần giãi bày vào thơ, trong đó có “Lục bát mỗi ngày”.

1.3. Trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn – chiến sĩ, “Lục bát mỗi ngày” không chỉ là một tuyển tập thơ 40 năm (1980 - 2020) – một dấu mốc quan trọng

<i><b>trong cuộc đời một con người mà còn là một cuốn “Nhật ký cuộc đời” của tác </b></i>

giả. Qua con mắt của nhà thơ, mọi sự vật hiện tượng, mọi trạng thái buồn vui, yêu ghét, quên nhớ, ghen tuông… đều thành lục bát.

1.4. Tác phẩm của Đặng Vương Hưng ghi dấu ấn mạnh mẽ với bạn đọc đương thời. Vì vậy, việc tìm hiểu “Lục bát mỗi ngày” - một tác phẩm đạt kỷ lục quốc gia năm 2022, tác phẩm khơng chỉ giúp ích cho biết bao thế hệ bạn đọc có một cái nhìn tồn diện hơn về cơng trình sáng tác của tác giả mà cịn giúp ích trong việc cung cấp những nguồn tư liệu để phục vụ cho việc giảng dạy, học tập thơ lục bát và bồi đắp tâm hồn qua những trang thơ.

<b>Từ những lí do nói trên, chúng tơi đã chọn đề tài: Tính tự sự trong tập “Lục bát mỡi ngày” của Đặng Vương Hưng. Đây chính là hành trình trở về </b>

với văn học, văn hóa truyền thống; đồng thời mở rộng cánh cửa văn chương trong thời kỳ hội nhập, thời đại công nghệ 4.0.

<i><b>2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề </b></i>

<i><b>2.1. Những cơng trình nghiên cứu về Đặng Vương Hưng và thơ lục bát của anh </b></i>

Đặng Vương Hưng là một nghệ sỹ có thâm niên trong nghề viết. Đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về anh ở các góc độ, nội dung khác nhau, đặc biệt là thơ lục bát.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i><b>Trong bài viết “Thơ Đặng Vương Hưng chạm tới trái tim người lính”, nhà </b></i>

văn Quốc Toản đã viết: “Đặng Vương Hưng trong 40 năm qua đã sáng tác ra hàng nghìn bài thơ lục bát, tơi thích nhất những bài thơ viết về người lính vì khi đọc tơi cảm thấy nó sâu nặng, nó ám ảnh day dứt về người lính” [7, tr 998]. Lời bình tuy ngắn gọn nhưng giúp độc giả hiểu rằng những trang viết của Vương Hưng về người lính chân thật, sinh động. Bất cứ ai chạm vào câu chữ của anh cũng khơng thể qn được hình ảnh những con người luôn coi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là sinh mệnh.

Đỗ Anh Vũ - trong bài báo “Thi sĩ Đặng Vương Hưng: Lục bát như là hơi

<i>thở”, nhấn mạnh: “Đọc thơ của anh giống như vào một khu rừng mênh mông </i>

không bờ bến. Với hơn một ngàn bài thơ, với hàng loạt các đề tài, các nhân vật, các không gian khác nhau của biết bao câu chuyện trong một kiếp nhân sinh, đó là những câu chuyện sinh hoạt đời thường và những sự suy tưởng của các bậc hiền triết trút cả cuộc đời của mình gửi gắm vào lục bát” [7, tr 1002]. Đánh giá đầy xác đáng của nhà báo Anh Vũ làm nổi bật đặc trưng trong thơ Đặng Vương Hưng: giàu tình cảm; mang tư tưởng - triết lý nhân sinh sâu sắc.

<i>Bài viết trên Báo Phát triển với tiêu đề “Nhà văn Đặng Vương Hưng và </i>

những tác phẩm tiêu biểu trong lĩnh vực sáng tạo khoa học xã hội và nhân văn” đã nhận xét rằng: “Để phát huy tính ưu việt của cơng nghệ thơng tin trong tiến trình quảng bá lưu giữ thể thơ lục bát truyền thống cùng với việc bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá của dân tộc, nhà thơ Đặng Vương Hưng đã lập nên trang web mang tên lucbat.com với mục tiêu vì cộng đồng và phi lợi nhuận. Trang web từ khi thành lập đã nhận được sự hưởng ứng và đón nhận của các bạn đọc, của báo chí và của những người yêu thơ, do đó mà trang web phát triển rất nhanh chóng” [7, tr 960]. Đặng Vương Hưng khơng chỉ có tài mà còn rất tâm huyết với văn hoá truyền thống. Con người ấy hội nhập nhanh chóng với thời đại khi sử dụng công nghệ 4.0 giúp những sáng tạo của bản thân cũng như văn hoá dân tộc được lan toả mạnh mẽ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Phạm Văn Việt trong bài “Đôi điều về Học quên để nhớ và người giữ hồn

<i><b>thơ Việt” đăng trên Văn hóa- xã hội đã bộc bạch rằng: “Đọc thơ lục bát của anh </b></i>

Hưng, tôi thấy được nỗi buồn man mác. Mặc dù có những bài thơ mang đậm niềm vui hay dười ngòi bút của mình tác giả cố tình tếu táo nhưng vẫn có một cái gì đó rất hiền và buồn. Nguyên nhân là do thể thơ lục bát vốn dĩ đã là một thể thơ hiền mang đậm những đặc trưng của dân tộc ta, và lí do thứ hai là bản thân con người của Đặng Vương Hưng cũng hiền như thế” [7, tr 20]. Thì ra, thơ và người hoà quyện làm một: người hiền – thơ hiền, người buồn – thơ có vui đâu bao giờ?

Đỗ Xuân Sơn trong “Lục bát Đặng Vương Hưng vừa rất quê lại vừa rất lính” lại nhận định rằng: “Thể thơ lục bát vừa mang tính truyền thống dân dã, vừa mang tính hiện đại. Với câu thơ 6/8 cùng với cách gieo vần nhẹ nhàng qua những sáng tác của con người Việt Nam trở nên mộc mạc, thân thương. Đặng Vương Hưng đã sử dụng nhuần nhuyễn nhưng có sự kế thừa, phát huy những giá trị hiện đại và truyền thống của thể thơ này. Thơ của Đặng Vương Hưng chất dân gian và chất hiện đại có sự song hành: chất dân gian ở chỗ mang âm hưởng của dân ca nhưng chủ đề và cách nói hiện đại” [7, tr 997]. Văn chương ln tính kế thừa. Tuy nhiên, khi kế thừa thể thơ truyền thống của dân tộc, Vương Hưng đã sáng tạo mang “dấu triện” của riêng mình. Đây là một yêu cầu tất yếu trong lĩnh vực nghệ thuật. Trong suốt hành trình chinh phục trái tim độc giả, Đặng Vương Hưng lao động không ngừng nghỉ, sáng tạo nghệ thuật một cách nghiêm túc để có một phong cách nghệ thuật riêng.

Ngồi ra, còn nhiều bài nghiên cứu phê bình, luận văn viết về Đặng Vương Hưng và thơ lục bát khác đã giúp người đọc có thêm tri thức về một nhà văn – chiến sĩ tài hoa.

<i><b>2.2. Những cơng trình nghiên cứu về “Lục bát mỗi ngày” của Đặng Vương Hưng “Lục bát mỗi ngày” của Đặng Vương Hưng là một tập thơ hay, có giá trị khơng chỉ về văn hố mà cịn có giá trị văn chương. “Lục bát mỗi ngày” vừa đạt </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

kỷ lục Quốc gia nên được đề cập đến rất nhiều. Chúng ta có thể kể một số cơng trình sau:

<i><b>Thơng Đặng ở bài viết “Đặng Vương Hưng: Đại tiệc Lục bát mỗi ngày” </b></i>

<i>đánh giá: “Thơ của Đặng Vương Hưng thể hiện chính con người của anh, là </i>

nhà thơ xuất thân từ vùng Bắc Bộ nên những bài thơ của anh đậm chất dân gian. Chủ đề về làng quê như cổng làng, đồng làng, chùa làng, sư làng và đặc biệt xuất sắc là những bài về cái “ù ơ í a” đầy tính nhân văn của Phèo, Nở, Mầu, Đốp, cũng như những bài về các trai làng gái làng hẹn hò, hứa hẹn, ỡm ờ, ao ước nhau” [7, tr 1003]. Con người và văn hoá vùng miền có mối quan hệ biện chứng: văn hoá tạo cho con người những nét đặc sắc và con người tác động trở lại để hình thành văn hoá. Vương Hưng sinh ra tại Bắc Bộ nên thơ anh mang bản sắc của miền đất ấy.

<i><b>Trong “Lục bát Đặng Vương Hưng vừa rất quê lại vừa rất lính”, Đỗ Xn </b></i>

<i>Sơn bình luận: “Thơ của Đặng Vương Hưng không chỉ mang chất hiện đại, chất </i>

dân gian mà có nhiều bài mang tính ẩn dụ sâu sắc. Những nhân vật của văn học cũ như Chí Phèo, Thị Nở, mẹ Đốp hay Thị Mầu…qua thơ anh hiện lên chân thật, họ luôn khao khát tình yêu thương, tình người và cũng đáng được bình đẳng, tơn trọng. Đấy chính là tính nhân văn trong thơ của Đặng Vương Hưng” [7, tr 1009]. Một tác phẩm nghệ thuật đích thực phải là tác phẩm “vị nhân sinh” - mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đặng Vương Hưng thấm thía quy luật ấy nên nỗ lực tạo ra những hình tượng nghệ thuật đậm vị đời, đi sâu khám phá thế giới bên trong con người.

<i>Nhận xét về đồng nghiệp, Đồng Xuân Thụ bày tỏ cảm xúc: “Chúng tôi tự </i>

hào vì đều là “Trai Cầu Vồng Yên Thế, cùng sinh ra và lớn lên tại vùng đất địa linh nhân kiệt - nơi dựng cờ dấy binh khởi nghĩa của các thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Hoa Thám chống Pháp, nơi có Đồi văn hoá kháng chiến, gắn liền với nhiều tên tuổi văn nghệ sĩ, trí thức nổi tiếng Việt Nam: Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Kim Lân, Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình, Trần

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Huy Liệu, Tú Mỡ, Trần Đăng, Phạm Duy...Với “Lục bát mỗi ngày”, nhà thơ Đặng Vương Hưng đã góp phần làm cháy sáng hơn ngọn lửa văn hoá truyền

<i>thống của quê hương Bắc Giang” [7, tr.560]. Đặng Vương Hưng sinh ra ở một </i>

vùng quê giàu truyền thống cách mạng, văn hoá, văn học. Anh đã tiếp nối truyền thống ấy và đã trở thành niềm tự hào của quê hương.

Phạm Việt đánh giá: “Cựu chiến binh, Đại tá Đặng Vương Hưng thể hiện tình yêu đất nước bằng con đường binh nghiệp và con đường thơ! Cả hai con đường đều vẻ vang và mang đậm tính cách Đặng Vương Hưng – hết sức quyết

<i>liệt nhưng không ồn ào, mà lặng thầm cống hiến” [7, tr.570]. Mỗi con người </i>

được sinh ra từ một Tổ quốc, họ thể hiện tình yêu với đất nước mình theo những cách không giống nhau. Đặng Vương Hưng để tình yêu đất nước thăng hoa cùng với thơ ca - binh nghiệp. Rõ ràng, tình yêu Tổ quốc vừa thiêng liêng lại vừa gần

<i>gũi, chân thực! </i>

Lê Xuân đã viết trong “Biết bao bài thơ trên thị trường”: “Giữa những ồn ào trăn trở trong cuộc sống, đọc thơ lục bát của Đặng Vương Hưng người đọc như được tắm một trận mưa giữa mùa hè oi ả. Điều cao quý và đặc biệt trong thơ của anh chính là vẫn ln giữ được nụ cười lạc quan của sự tếu táo, khiêm những và tự trào” [7, tr 56]. Cuộc sống là hành trình đầy thăng trầm, đưa con người tới các cung bậc hỉ, nộ, ái, ố… Trên hành trình ấy, mỗi chúng ta sẽ có cách giải toả của riêng mình và lựa chọn đọc thơ lục bát của Vương Hưng là một lựa chọn khôn ngoan, giúp cảm xúc cân bằng, tâm hồn thư thái, luôn hướng tới suy nghĩ và hành động tích cực.

<i>Uyên Võ & Tuấn Anh (VietKings) ở bài báo “Tập thơ Lục bát mỗi ngày </i>

với gần 1000 bài thơ Lục bát của Nhà thơ Đặng Vương Hưng xác lập Kỷ lục Việt Nam” nhận xét: “Thơ lục bát không chỉ là một thể thơ truyền thống của Việt Nam, mà cịn là hồn q, là văn hóa cội nguồn và tâm linh của người Việt. Đó vừa là di sản vô giá, vừa là tài sản của cha ông truyền lại cho con cháu muôn đời. Bởi lục bát là một thể loại ca từ xương sống, có mặt trong tất cả các làn điệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

dân ca, ca dao Bắc - Trung - Nam. Tác phẩm “Lục bát mỗi ngày” của nhà thơ, Đại tá Đặng Vương Hưng với gần 1000 bài thơ theo thể lục bát và độ dày 1.248 trang, được tổng hợp trong chặng đường 40 năm sáng tác (từ năm 1980 – 2020)

<i>cũng được công nhận Kỷ lục Việt Nam trong sự kiện này” [7, tr.105]. Lục bát là </i>

thể thơ mang điệu hồn quê hương, dân tộc và giờ đây dưới ngòi bút cần mẫn, tinh tế của Vương Hưng lục bát đã đã trở thành tập thơ để độc giả thưởng thức

<i>mỗi ngày. </i>

<i><b>Trần Ninh Hồ ở bài viết “Bản du ca sáu tám và nghệ sỹ hát rong” đánh </b></i>

giá: “Đọc Lục bát mỗi ngày của Đặng Vương Hưng, tôi cứ liên tưởng đến những nghệ nhân Xẩm chợ, Xẩm tàu điện ngày xưa – những nghệ sĩ vĩ đại của nhân dân. Xét về góc độ nào đó, Đặng Vương Hưng cũng là một nghệ sĩ hát rong như thế. Do lợi thế của nghề làm báo, anh có điều kiện đi khắp Đông - Tây - Nam - Bắc. Và kỳ lạ là, đến đâu anh cũng có thơ lục bát! Những bản du ca sáu tám của Đặng Vương Hưng cứ thế ngân vang, cứ lặng lẽ đi vào đời sống như ca dao, dân ca, như lời ăn tiếng nói của người dân, bất chấp khen chê và cả sự thị phi này

<i>nọ...” [7, tr.28]. Những trải nghiệm của Đặng Vương Hưng trong cuộc sống </i>

cũng như nghề nghiệp, giúp anh có mặt ở mọi nơi trên dải đất hình chữa S thân yêu. Nơi đâu có dấu chân anh, nơi ấy có thơ lục bát. Lục bát và Đặng Vương

<i>Hưng thực sự có duyên nợ. </i>

Lê Thị Bích Hồng trong “Nhà thơ Đặng Vương Hưng và nhật ký thơ lục

<i><b>bát” bày tỏ: “Đọc cả ngàn bài thơ, tôi nhận thấy nội lực rất đáng nể của một nhà </b></i>

thơ chọn thể thơ lục bát - thể thơ dân tộc thể hiện những cung bậc cảm xúc của mình. Điều dễ nhận thấy trong cả tập thơ là bầu khí quyển làng quê đậm đặc, vây bọc đến mức dẫu đã trở thành công dân Thủ đô cũng không làm vơi tình quê đậm đà” [7, tr. 35]. Đặng Vương Hưng hiểu rằng hồn quê, văn hoá làng là những giá trị cao đẹp cần phải gìn giữ. Sử dụng thơ lục bát trong sáng tác thơ ca là cách anh bảo tồn các giá trị ấy.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<i><b>Có thể thấy, các nhà nghiên cứu đều đánh giá “Lục bát mỗi ngày” thành </b></i>

công về cả nội dung và nghệ thuật khi nó diễn tả chân thực, xúc động tâm tư, tình cảm của người cầm bút; hướng độc giả tới những bài học, thông điệp đầy

<i><b>nhân văn. Những đánh giá trên cũng khẳng định “Lục bát mỗi ngày” thực sự </b></i>

đánh dấu bước chuyển mình rõ nét của Đặng Vương Hưng trên hành trình sáng tạo nghệ thuật cùng dự cảm sẽ có sức lan tỏa rộng rãi đến với độc giả, từ đó hình thành ở họ ý thức giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc.

Bên cạnh ấy, cịn nhiều bài viết tuy khơng trực tiếp hay hoàn toàn viết về

<i><b>“Lục bát mỗi ngày” của Đặng Vương Hưng, nhưng khi nhắc tới thơ lục bát trong cuộc sống hiện đại đều ít nhiều đề cập tới cái tên “Lục bát mỗi ngày”. </b></i>

<i><b>Như vậy, có thể thấy rằng “Lục bát mỗi ngày” là một tác phẩm xứng đáng </b></i>

để nghiên cứu, khảo sát và tìm tịi. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có một

<i><b>cơng trình nào nghiên cứu “Lục bát mỗi ngày” về tính tự sự. Vì lẽ đó, chúng tơi nghiên cứu tính tự sự trong tập “Lục bát mỗi ngày” của Đặng Vương Hưng trên </b></i>

cơ sở kế thừa, phát huy những nghiên cứu trước.

<i><b>3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu </b></i>

Luận văn tập trung nghiên cứu và việc tìm hiểu những yếu tố tự sự trong

<i><b>tác phẩm “Lục bát mỗi ngày” của Đặng Vương Hưng. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu </b></i>

<b>Tìm hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống về Tính tự sự trong tập “Lục bát mỡi ngày” - những câu chuyện về cuộc sống mang hơi thở thời đại, qua đó </b>

<i><b>thể hiện tính triết lý trong thơ Đặng Vương Hưng. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu </b></i>

<i><b>4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu </b></i>

<b>Nghiên cứu đề tài: Tính tự sự trong tập “Lục bát mỡi ngày” của Đặng Vương Hưng chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau: </b>

- Chỉ ra vị trí của thơ lục bát trong sáng tác của nhà thơ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

- Làm rõ những yếu tố tự sự trong “Lục bát mỗi ngày” của Đặng Vương Hưng. - Chỉ ra những đặc sắc nghệ thuật thể hiện tính tự sự trong “Lục bát mỗi ngày”.

<i><b>4.2. Phương pháp nghiên cứu </b></i>

- Phương pháp khảo sát, thống kê: Khảo sát các hệ thống trong “Lục bát mỗi ngày”.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích những yếu tố tự sự và nghệ thuật biểu hiện trong “Lục bát mỗi ngày”.

- Phương pháp đối chiếu, so sánh: So sánh những yếu tố tự sự được thể

<i><b>hiện trong “Lục bát mỗi ngày” với một số tập thơ khác của Đặng Vương Hưng, của một số nhà thơ đương đại. </b></i>

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Những kiến thức về lịch sử, văn hóa… có ảnh hưởng đến cuộc đời, quan điểm sống, quan điểm nghệ thuật của

<i><b>tác giả. </b></i>

<i><b>5. Phạm vi nghiên cứu </b></i>

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập “Lục bát mỗi ngày” (2022), Nhà

<i><b>xuất bản Hà Nội. </b></i>

<i><b>6. Đóng góp của luận văn </b></i>

Luận văn đã góp phần thúc đẩy ý thức gìn giữ văn hố dân tộc trong bối cảnh giao lưu văn hoá và hội nhập hiện nay.

Thông qua những kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đóng góp một góc nhìn về nhà thơ Đặng Vương Hưng.

Luận văn cũng chính là tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy lục bát trong nhà trường và bồi đắp tâm hồn cho các thế hệ độc giả.

<i><b>7. Cấu trúc của luận văn </b></i>

<i><b>Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai thành 3 chương: </b></i>

<b>Chương 1. Những vấn đề chung </b>

<i><b>Chương 2. Các kiểu tự sự trong tập thơ “Lục bát mỗi ngày” </b></i>

<i><b>Chương 3. Nghệ thuật thể hiện tính tự sự trong “Lục bát mỗi ngày” </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>NỘI DUNG </b>

<i><b>CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Tự sự trong thơ </b></i>

<i><b>1.1.1. Khái niệm tự sự </b></i>

Quan điểm của Bal, Mieke về tự sự: “Tự sự hay kể chuyện là bất kì tường thuật nào để kết nối các sự kiện, trình bày cho người đọc hoặc người nghe bằng

<i><b>một chuỗi câu viết hoặc câu nói hoặc một chuỗi hình ảnh [ 33, tr.15] </b></i>

Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “Tự sự là phương thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn với cốt truyện là hệ thống các nhân vật được khắc hoạ đầy đủ nhiều

<i><b>mặt hơn so với các nhân vật trong thơ trữ tình và nhân vật kịch. [30, tr.385] </b></i>

G. Genette định nghĩa tự sự như sau: “Tự sự là trình bày một sự kiện hay một chuỗi các sự kiện có thực hay hư cấu bằng phương tiện ngôn ngữ đặc biệt là

<i><b>ngôn ngữ tự sự. [35, tr.41] </b></i>

Trần Đình Sử lại cho rằng “Tự sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực tiếp hiện thực khách quan như có một cái gì tác biệt ở bên ngoài đối với tác giả thành một câu chuyện có diễn biến của sự việc, của hồn cảnh có sự phát triển của tâm trạng, của tính cách và hành động con người. Đó là thể loại văn học tái hiện lại hiện thực đời sống một cách khách quan bằng cách kể lại sự việc, sự kiện, miêu tả tính cách của nhân vật có đầu có đi thơng qua cốt truyện tương

<i><b>đối hoàn chỉnh và được kể lại bằng một người kể chuyện nào đó. [24, tr.250] </b></i>

Cuốn “Từ điển Tiếng Việt” cũng định nghĩa “Tự sự là thể loại văn học trong đó nhà văn phản ánh thế giới bên ngoài bằng cách kể lại sự việc, miêu tả

<i><b>tính cách thơng qua một cốt truyện tường đối hồn chỉnh. [30, tr.1332] </b></i>

Tự sự có thể xuất hiện ở nhiều thể loại khác nhau, từ tự truyện đến nhật

<i><b>ký và tiểu thuyết. Tự sự cũng được xét trên hai bình diện: người kể chuyện với điểm nhìn , giọng điệu và người tiếp nhận do sự đối thoại của người kể chuyện. </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Có thể thấy, một văn bản tự sự có ba đặc điểm chính: người kể chuyện, hành động tự sự và sự kiện được kể chuyện. Trong 3 đặc điểm trên thì sự kiện

<i><b>được kể là nền tảng của văn bản tự sự. </b></i>

Vậy là, một tác phẩm trữ tình có tính tự sự khơng chỉ thiên về tả cảnh, tả tình hay diễn tả cảm xúc mà cịn diễn tả trong đó là một câu chuyện diễn tả ngọn nguồn của cảm xúc. Việc nghiên cứu, tìm hiểu tính tự sự trong một tác phẩm trữ tình chính là việc đi tìm hiểu phương thức, tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm điều gì đó thơng qua những câu chuyện được kể lại trong tác phẩm.

<i><b>1.1.2. Hiện tượng giao thoa giữa thể loại trữ tình và sự sự </b></i>

Giao thoa thể loại là một trong những điểm hấp dẫn của văn học. Mỗi giai đoạn, mỗi thời kì văn học sự giao thoa thể loại văn học lại có những biểu hiện khác nhau.

Sự giao thoa giữa thể loại trữ tình và tự sự chính là yếu tố tự sự xâm nhập vào thơ trữ tình và ngược lại. Nếu như với tác phẩm trữ tình, những dòng tư tưởng, những quan điểm của tác giả được thể hiện trực tiếp thì ở trong tác phẩm tự sự những dòng tư tưởng, quan điểm đó lại được thể hiện qua các sự kiện của đời sống. Các tác phẩm tự sự của Thạch Lam, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc… được các tác giả khai thác triệt để yếu tố trữ tình nên mỗi truyện ngắn đều được mang đậm chất thơ với những yếu tố nội tâm phong phú, đa dạng tinh tế. Tuy nhiên, yếu tố trữ tình chỉ là chất xúc tác trong các tác phẩm tự sự. Yếu tố quan trọng của các tác phẩm tự sự là hệ thống các nhân vật, sự kiện và cốt

<i><b>truyện mà tác giả gửi gắm cho người đọc. </b></i>

Trong “Truyện Kiều”, đại thi Nguyễn Du đã gửi vào đó rất nhiều yếu tố trữ tình. Chẳng hạn như khi kể Thuý Kiều bị Tú Bà đánh, đại thi hào thốt lên :

<i><b> “Thịt da ai cũng là người </b></i>

<b> Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau” </b>

Tác giả bộc lộ trực tiếp nỗi xót xa khi nhân vật chính bị hành hạ. Con người vốn là xương là thịt, sao có thể chịu đựng nổi những tác động vật lý mạnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

từ bên ngồi? Nguyễn Du xót thương, thấu hiểu, đồng cảm với nỗi đau của con người. Thơ Nguyễn Du là thế, mỗi chữ viết ra như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua tờ giấy, ln “dậy sóng” khi chứng kiến những trái ngang

<i><b>của cuộc đời! </b></i>

Có thể thấy, các thể loại ngày càng có xu thế thốt ra khỏi phạm vi của nó và tràn sang những thể loại khác. Sự giao thoa này có nguyên nhân từ sự phát triển tất yếu của thời đại, cùng những cố gắng học hỏi của các nghệ sỹ khi họ không ngừng sáng tạo trong nghệ thuật, biết tiếp nhận những đặc trưng của các thể loại khác để tạo ra các hình thức thể loại mới mang tính chất lai ghép. Nhờ thế, họ đã góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú cho các thể loại. Bởi bên cạnh những điểm mạnh vốn có, thể loại đó sẽ nhận và giao thoa những ưu điểm của thể loại khác giúp cho việc truyền tải ý đồ của nhà văn nhanh hơn, hoàn hảo hơn. Quá trình giao thoa giữa các thể loại đã phá vỡ những nguyên tắc cứng nhắc, rập khuôn, một màu trong các thể loại, giúp các thể loại gần nhau hơn. Khi khai thác, khám phá yếu tố tự sự ở trong thơ, độc giả sẽ thấy rất rõ giá trị của sự giao thoa này.

Bản chất của văn chương là phản ánh cuộc sống, mà cuộc sống thì ln ẩn chứa những câu chuyện, những sự kiện. Bởi thế, yếu tố tự sự cũng không chịu

<i>đứng yên mà nó mạnh mẽ xâm nhập vào các bài thơ. Người nghệ sỹ chỉ cần đưa </i>

vào thi phẩm những chi tiết của cuộc sống hàng ngày thì những tác phẩm trữ tình sẽ vượt ra khỏi ranh giới của nó. Thơ sẽ tiến gần hơn đến với cuộc sống của con người, giàu chất hiện thực, người đọc cũng dễ dàng hơn trong việc tiếp nhận những thông tin của sự việc do tác phẩm đem lại.

Yếu tố tự sự xuất hiện trong các tác phẩm trữ tình làm cho các tác phẩm trữ tình khơng chỉ gói gọn trong những đề tài, những cung bậc bị bó hẹp mà còn được xem xét ở nhiều phương diện hơn, cách nhìn con người và cuộc đời cũng

<i><b>rộng mở, rõ nét hơn. </b></i>

<i>“Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm là một trong </i>

những tác phẩm kinh điển phá vỡ ranh giới giữa tự sự và trữ tình. Khúc ngâm ra

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

đời vào thể kỉ thứ XVIII, nó bứt mình ra khỏi sự khuôn phép của văn học trung đại bởi bên cạnh việc kể chuyện còn phơi trải những cảm xúc xuất phát từ tận tâm can.

Nổi tiếng trong dịng thơ trữ tình - tự sự của văn học trung đại Việt Nam là Cao Bá Quát. Ở các tác phẩm của ông, tự sự kết hợp với trữ tình tạo nên sự độc đáo, đặc sắc. Bài “Đằng Tiên Ca” được tác giả viết sau khi chịu những trận đánh đập dã mãn trong nhà tù, ông miêu tả tỉ mỉ, cụ thể việc tra tấn, xét hỏi, tâm trạng của người tù khi phải chịu đòn roi. Bài thơ vừa mang những đặc sắc của thể loại tự sự, vừa mang những nét tiêu biểu của nghệ thuật trữ tình. Về thời gian, khơng gian của bài thơ được tác giả mô tả khá rành rọt, cụ thể đó là một ngày sau rằm tháng chín, tiết trời dịu mát nhưng u ám do khơng có mặt trời. Bài thơ khơng chỉ là lời kể mà còn thể hiện được nỗi uất ức của tử tù khi bị oan. Qua đó, nhà thơ đã vạch trần tội ác, sự bất công của những nhà tù dưới thời Nguyễn khiến cho những người vơ tội trở thành người có tội!

Kết hợp giữa giữa nghệ thuật trữ tình với nghệ thuật tự sự chính là một trong những phương thức sáng tác mà được rất nhiều những nhà thơ sử dụng. Nghệ thuật tự sự giúp cho những sự việc được nói đến trở nên rõ ràng, cụ thể và nảy sinh những tâm trạng, cảm xúc để nghệ thuật trữ tính được bộc lộ. Sự kết hợp này tạo tính hàm súc, tính hấp dẫn cho tác phẩm thơ.

<i>Trong “Độc Tiểu Thanh kí” nhà thơ Nguyễn Du đã viết: </i>

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư, Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu, Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn, Phong vận kì oan ngã tự cư...”

Vùng đất hoang tàn ở Tây Hồ bây giờ đã trở nên hoang vu, đổ nát nhưng qua lời kể ngắn gọn, súc tích lại chứa đựng những tâm trạng xót xa, đầy tiếc

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

nuối của nhân vật trữ tình. Ở đoạn thơ, nghệ thuật tự sự kết hợp với trữ tình không chỉ cho người đọc thấy được thực tế nghiệt ngã của sự vật, hiện tượng, mà còn thể hiện được cảm xúc xót xa cùng tiếng thở dài nuối tiếc, những suy nghĩ thầm kín của Nguyễn Du. Như vậy, kết hợp giữa tự sự và trữ tình trong thơ là nét nghệ thuật tiêu biểu, góp phần làm nên phong cách của các nhà thơ lớn trong văn học trung đại Việt Nam, trong đó có Nguyễn Du và Cao Bá Quát.

Đọc thơ của Đặng Vương Hưng, người đọc dễ dàng nhận thấy có sự kế thừa hiện tượng giao thoa giữa thể loại trữ tình - tự sự.

<i>Trong bài “Những ngày ốm”, tác giả đã kể về khoảng thời gian rất nhỏ, </i>

những “lát cắt” của một đời người:

“Thuốc thang không đủ tiền mời Cơm canh lạnh nhạt, lệch đơi đũa mịn

Và em chẳng hát ru con Thờ ơ ánh mắt héo hon nụ cười

Niềm vui trốn chạy đâu rồi?

Nỗi buồn hớn hở dạo chơi đầy nhà...” [7, tr.540].

Câu chuyện về những ngày ốm tưởng chỉ là kể đơn thuần nhưng bài thơ vẫn chứa chan tình cảm đậm sâu, là nỗi niềm thương vợ của người chồng đang đối mặt với bệnh tật. Bình thường cuộc sống đã hạn hẹp, nay có người trong nhà đổ bệnh nên khó khăn càng chồng chất. Câu chuyện kinh tế thiếu thốn mà chưa có cách giải quyết kịp thời khiến khơng khí gia đình u ám, căng thẳng của Vương Hưng làm độc giả cũng thổn thức, sầu não cùng nhân vật trữ tình.

Tóm lại, trong thơ trữ tình, yếu tố tự sự có vai trị khá đặc biệt. Nó làm cho thơ trữ tình bớt thống thiết, giàu chất hiện thực, đề tài phong phú hơn. Trong thơ của Đặng Vương Hưng, những yếu tố tự sự kết hợp với trữ tình giúp cho nhà thơ bộc bạch được nhiều hơn những tâm trạng của mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>1.2. Hành trình thơ Đặng Vương Hưng </b>

<i><b>1.2.1. Cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác của Đặng Vương Hưng </b></i>

Sinh ngày 15 tháng 02 năm 1958, quê gốc tại tỉnh Hưng Yên nhưng Đặng Vương Hưng lại lớn lên tại huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang, từng học Đại học Báo chí Tuyên huấn (khóa VI), Đại học Viết văn Nguyễn Du (Khố III), tốt nghiệp chuyên ngành Luật tổng hợp, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Anh xuất thân trong gia đình giàu truyền thống yêu nước. Ông nội của nhà thơ là một nhà nho đã từng tham gia phong trào n Thế, du kích Bắc Sơn, có cơng lao to lớn trong việc cưu mang và nuôi giấu nhiều cán bộ du kích. Cha Đặng Vương Hưng là cụ Đặng Văn Chấn (1920-2003) - đội viên của đội du kích Bắc Sơn năm xưa, nhà cách mạng của vùng đất thiêng n Thế. Chính những điều đó tạo truyền tình yêu, sự giác ngộ cách mạng cho tác giả.

Xuất thân trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng tại vùng quê đồi núi trung du Bắc Bộ nên Đặng Vương Hưng tự nhận mình là “người nhà quê” và những sáng tạo nghệ thuật của thi nhân đậm “chất quê”, “chất lính”.

Đặng Vương Hưng tự kể về quê hương, về đồng đội, về bản thân trong các thi phẩm: “Màu tranh quê”, “Lời tự ngắm mình”, “Nghe chim gáy trên trận địa pháo cao xạ”, “Tự thấy”, “Mãi mãi tuổi 20”, “Thời gian”, “Viết cho em từ biên giới”, “Thu quê”, “Đi tìm”, “Cơm quê”, “Gọi chiều rơm rạ”, “Về quê”, “Tạ ơn quê nghèo”, “Về quê tìm lại”, “Váy đụp áo nâu”, “Trở về”, “Về quê nhặt cỏ hái rau”, “Thắp nến tri ân”... Qua những tác phẩm ấy, người đọc sẽ thấy một vùng quê nghèo nhưng đậm nghĩa tình, đang trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sau chiến tranh.

Sáng tác từ khi rất trẻ cùng với tài năng thiên phú nên Đặng Vương Hưng đạt được những thành tựu từ sớm. Ngay khi vừa mới nhập ngũ (1976), anh đã có

<i>truyện ngắn và tác phẩm thơ đầu tay được đăng trên Tạp chí sáng tác Hà Bắc. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<i>Tiếp đó, tác giả đều đặn cho ra đời những “đứa con tinh thần” in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. </i>

Năm 1982, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Đoàn, Đặng Vương Hưng đã gửi một chùm thơ tới cuộc vận động sáng tác “Văn -Thơ và ca khúc cho thanh niên”, bất ngờ đạt giải A của cuộc thi đó.

Cũng trong năm 1982, nhà thơ về làm trợ lí phịng Tuyên huấn Cục Chính trị Quân Khu I, đây là cơ hội để anh trở thành một nhà báo chuyên nghiệp, được kết nạp vào Hội viên Nhà báo Việt Nam.

Năm 1990, anh chuyển sang công tác tại lực lượng công an tại Hà Nội, xuất bản sách và làm những bài báo về công an. Năm 2012, Đặng Vương Hưng đã được vinh danh là nhà văn Việt Nam đầu tiên tổ chức sưu tầm, biên soạn, xuất bản bộ sách “Những lá thư và Nhật kí thời chiến Việt Nam” từ tổ chức Kỷ lục Việt Nam.

Đặng Vương Hưng còn là người đưa ra ý tưởng, khởi xướng, tổ chức thành công nhiều tác phẩm “Sưu tầm và Giới thiệu” độc đáo. Những tác phầm này có giá trị to lớn trong việc cổ vũ, phục vụ cho công cuộc xây dựng Tổ quốc và phát triển nhận thức xã hội bởi những lời thơ tích cực, gần gũi với đời sống con người.

Một số cơng trình tiêu biểu trong 10 năm gần đây của ông:

Trước hết là cơng trình tổ chức cuộc vận động sưu tầm, biên soạn, xuất bản bộ sách “Những lá thư và nhật ký thời chiến Việt Nam”. Vào tháng 12 năm 2004 nhân dịp kỉ niệm 60 năm ngày truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12, Đặng Vương Hưng đã thay mặt một nhóm nhà văn cựu chiến binh phát động cuộc vận động sưu tầm, xuất bản bộ sách có tên là “Những lá thư và nhật ký thời chiến Việt Nam”. Ban đầu, cuộc vận động mang tính cá nhân tự phát song do ý nghĩa cao cả cũng như nội dung hấp dẫn phù hợp với nhu cầu của cộng đồng xã hội nên nó đã nhanh chóng được các đồng nghiệp và toàn xã hội

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

ủng hộ, tạo nên một hiệu ứng vô cùng rộng rãi. Đây là nguyên nhân quan trọng để gần một trăm tác phẩm thuộc “Tủ sách Mãi mãi tuổi 20” ra đời, được bạn đọc đánh giá cao như: “Những lá thư thời chiến Việt Nam” (nhiều tác giả), “Trở về trong giấc mơ” (Nhật ký của Liệt sĩ Trần Minh Tiến); “Tài hoa ra trận” (Nhật ký của Liệt sĩ Hoàng Thượng Lân); “Trời xanh không biên giới” (Nhật ký của Thương binh Đặng Sỹ Ngọc); “Nhật ký Vũ Xuân”; “Sống để yêu thương và dâng hiến” (Tập thư của Liệt sĩ Hoàng Kim Giao); “Gửi lại mai sau” (Nhật ký của Liệt sĩ Nguyễn Hải Trường); “Tây Tiến viễn chinh” (Nhật ký của Liệt sĩ Trần Duy Chiến)… trong đó “Mãi mãi tuổi 20”, “Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm” đã được phát hiện, trở thành một hiện tượng của cả nước trong lĩnh vực đời sống chính trị năm 2005. Cũng năm này, anh được Bộ Trưởng Bộ Văn hóa - Thơng tin tặng Bằng khen. Năm 2012, Đặng Vương Hưng là nhà văn đầu tiên của Việt Nam được xác nhận là kỉ lục gia trong việc đã tổ chức cuộc vận động sưu tầm, xuất bản bộ sách “Những lá thư và nhật ký thời chiến Việt Nam”.

Tiếp đó là tủ sách “Chuyện đời tơi” – một cơng trình do Vương Hưng sáng lập cùng với việc tổ chức cuộc thi viết tự truyện cho đối tượng là phạm nhân trên cả nước. Tủ sách ấy đã được công bố, khởi xướng, thực hiện vào giữa năm 2007. Ngay từ ban đầu, việc thực hiện đã được một số báo nổi tiếng như:

<i>Báo Thể thao & Văn hóa, Báo Người cao tuổi và Nhà xuất bản Cơng an nhân dân hỗ trợ tích cực, thành cơng ngoài dự kiến. Chỉ sau một thời gian ngắn, đã có </i>

hàng loạt tác phẩm thuộc tủ sách này ra đời: “Chuyện đời tôi, “Không thể lãng quên, “Quà tặng mai sau”… với nhân vật chính là các nhà giáo, các cựu chiến binh. Điều đặc biệt trong tập thơ đó chính là có sự tham gia của những bạn trẻ có hồn cảnh khó khăn, khuyết tật về sức khoẻ song ý chí lại mạnh mẽ, nỗ lực vượt lên số phận để khẳng định giá trị bản thân. Họ nhận được sự giúp đỡ của Đặng Vương Hưng và sáng tác của họ đã đến gần với bạn đọc. Quan trọng nhất vẫn là tinh thần nhân văn cao cả ẩn chứa trong các tác phẩm khiến trái tim của hàng nghìn độc giả rung lên, thổn thức. Có thể kể đến: “Nụ cười ở lại” ; “Khát

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

vọng sống để yêu”; “Những ngọn đèn trước gió”; “Ở trọ trần gian”; “Khơng là cơn gió thoảng qua”; “Xin đừng khóc nữa mẹ ơi”; “Vẫn tin ở ngày mai”; “Cổ tích tình u…”.

Dựa những kinh nghiệm đã có trong việc tổ chức Tủ sách “Chuyện đời tôi”, Đặng Vương Hưng tiếp tục làm cố vấn, ban giám khảo, tổ chức cuộc thi viết tự truyện với tên gọi là “Sự hối hận và niềm tin hướng thiện” do Bộ Công an tổ chức. Đối tượng tham gia cuộc thi là những phạm nhân đang thi hành án. Cuộc thi đã được phát động trong các trại giam, trại tạm giam trên cả nước. Cuộc thi có ý nghĩa to lớn trong việc hướng tới những điều tích cực để các phạm nhân có thể cải tạo hồn lương, chuẩn bị tái hoà nhập cộng đồng. Nhà xuất bản Công an nhân dân đã ấn hành tác phẩm “Sự hồi sinh từ trong tuyệt vọng”. Đặng Vương Hưng viết bài tựa gây xúc động người đọc và dư luận báo giới; cuốn sách mở ra một hướng tiếp cận mới, một triển vọng trong công cuộc cải tạo, giáo dục những phạm nhân cũng như trong công cuộc đấu tranh chống các loại tội phạm. Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập 2 kỉ lục quốc gia cho cuộc thì này là: cuộc thi viết tự truyện có số lượng trại viên và phạm nhân tham gia nhiều nhất, cuốn sách được xuất bản là cuốn sách tập hợp nhiều bài viết tự truyện nhất của các tù nhân, trại viên trên khắp cả nước.

Trong số những đóng góp của Đặng Vương Hưng không thể khơng kể đến cơng trình “Sưu tầm và giới thiệu những kỷ vật kháng chiến (2008 - 2010)”. Kết quả của cuộc vân động đã tiếp nhận hơn 11 nghìn kỉ vật, 3 cuộc giao lưu, 4 cuộc triển lãm, và 11 cuộc gặp mặt những nhân chứng lịch sử nhân dịp những ngày kỷ niệm lớn của nước ta trong giai đoạn từ năm 2008 đến 2010.

Ngồi những cơng trình, tác phẩm tiêu biểu trong lĩnh vực sáng tạo khoa học xã hội nêu trên, Đặng Vương Hưng còn cho xuất bản hơn 50 cuốn sách ở nhiều thể loại khác nhau. Hơn 40 năm cầm bút tác giả đã có giải thưởng như sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

1- Với chùm thơ viết về lính chốt trên biên giới Lạng Sơn, Đặng Vương Hưng đã đạt giải A cuộc thi do Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp tổ chức (1981 - 1983) trong cuộc vận động sáng tác cho Thanh niên.

2 - Ở cuộc thi viết “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ” được tổ chức bởi Ban Tổ chức cuộc vận động sưu tầm và tuyên truyền kỷ vật lịch sử Công an nhân dân và Báo Công an nhân dân phối hợp tổ chức (2012 - 2016), anh tiếp tục đạt giải nhất.

<i><b>3 - Giải “Tôn vinh đặc biệt” trong cuộc xét chọn các tác phẩm văn học </b></i>

viết về đề tài “Thương binh Liệt sĩ và Người có cơng” 70 năm qua, do Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ LĐ-TB&XH thực hiện, nhân kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh Liệt sĩ (1947 - 2017).

4 – Ngày 26/8/2022, Hà Nội diễn ra lễ công bố “Kỷ lục quốc gia và tôn vinh các tác giả thơ lục bát”. Tại buổi lễ, tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã công bố và trao chứng nhận “Kỷ lục quốc gia” cho cơng trình “Lục Bát mỗi ngày” của Đặng Vương Hưng - tác phẩm thơ lục bát được Giải thưởng Văn học có số trang

<i>nhiều nhất Việt Nam. </i>

Có thể thấy, cuộc đời, con người, sự nghiệp sáng tác của Đặng Vương Hưng gắn liền với cách mạng Việt Nam.

<i><b>1.2.2. Con đường thơ lục bát Đặng Vương Hưng </b></i>

Nhà thơ Đặng Vương Hưng là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hội viên Hội nhà báo Việt Nam từ rất sớm. Trong hơn 40 năm cầm bút, tác giả đã xuất

<i>bản và đứng tên hơn 50 cuốn sách các loại, trong đó có các tập thơ: “Đang yêu” </i>

(1988), “Dâng hiến” (1993), “Thời tơi mang áo lính” (1994), “Lửa thức” (1996), “Gửi người trong mơ” (1997), “Học quên để nhớ", “Phố quê” (2019).

“Lục bát mỗi ngày” là tập thơ thứ 8 mà tác giả đã viết trong chục năm qua, đánh dấu một giai đoạn sáng tác trong cuộc đời của nhà thơ áo lính.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Đặng Vương Hưng còn được xem như người sáng lập ra cộng động lục bát Việt Nam với việc thành lập từ năm 2008 website www.lucbat.com, tổ chức lễ hội lục bát Việt Nam liên tục từ năm 2009-2019 với mục đích vơ cùng cao cả, nhân văn: cùng chung tay để tôn vinh lục bát là Quốc thi, tiến tới đưa lục bát trở thành di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.

Đặc biệt hơn năm 2019, nhà thơ là người kết nối thực hiện thành công hội thảo khoa học “Thơ lục bát với di sản văn hoá dân tộc”, thu hút hàng trăm tham luận đến từ các nhà nghiên cứu, các học giả, các nhà thơ, nhà văn trong và ngồi nước.

Đóng góp lớn của Đặng Vương Hưng trong đời sống văn học đương đại là cơng trình sáng lập trang web cộng động lục bát Việt Nam (thể thơ truyền thống của Việt Nam, là biểu tượng của hồn quê Việt Nam, là di sản quý báu, tài sản vô giá của người Việt) và tổ chức lễ hội lục bát hàng năm.

<i><b>1.2.3. Quan niệm nghệ thuật của Đặng Vương Hưng </b></i>

Quan điểm sáng tác được hình thành từ thế giới quan, nhân sinh quan, chiều sâu tâm hồn của tác giả. Để cụ thể hóa ý tưởng xây dựng tác phẩm cũng như hình tượng nghệ thuật, tác giả buộc phải lựa chọn nội dung, cách trình bày hay bất kì một cái gì đấy mới mẻ để tạo nên chất riêng, cá tính riêng.

Là cây bút có hành trình sáng tác hơn 40 năm, Đặng Vương Hưng cũng có quan niệm nghệ thuật của riêng mình.

Khi tìm hiểu về “Đời” và “Thơ” của Đặng Vương Hưng, độc giả nhận thấy đối với Đặng Vương Hưng “Đời” và “Thơ” gắn liền với nhau, có thể coi là một. Cuộc đời phản ánh trong thơ và thơ phản ánh đời sống vật chất với những sinh hoạt đời thường, đặc biệt phản ánh đời sống tinh thần, tình cảm nội tâm của tác giả. Rõ ràng, văn học và cuộc đời là vịng trịn đồng tâm, tâm điểm chính là con người. Quan niệm nghệ thuật đậm “vị nhân sinh”.

Đặng Vương Hưng cũng bày tỏ: “Văn học cũng là hàng hóa, một loại

<i>hàng hóa đặc biệt. Để có độc giả, nhà văn cần phải biết cách giới thiệu món </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i>hàng của mình, nhất là trong thời đại bùng nổ thơng tin, có q nhiều điều cám dỗ người ta như hiện nay. Điều tôi quan tâm không phải là lợi nhuận (bởi tôi </i>

dành hầu hết nhuận bút để mua sách tặng độc giả, làm từ thiện) mà là bạn đọc. Quan trọng nhất đối với tơi, tác phẩm của mình có độc giả và đó là những độc giả thực sự yêu sách; không phải những người tung hô, chúc tụng nhà văn trong những trận bia tràn bọt, khen ngợi tác phẩm của họ hết lời, nhưng khi ra về thì để quên sách được tặng trên bàn nhậu ngổn ngang”. Nghĩa là, khi sáng tác nghệ sỹ cũng phải nắm bắt được thị hiếu của độc giả - người quyết định số phận của tác phẩm. Nếu rời xa nhu cầu của độc giả, người viết đã tự làm khó mình và “những đứa con tinh thần” dễ bị “bỏ rơi”. Điều này cho thấy sự năng động, linh hoạt, đầy “chiến thuật” của tác giả trong hành trình đưa tác phẩm đến với người đọc. Đây là lý do vì sao mà các sáng tác của Đặng Vương Hưng lại được độc giả đón nhận nhiệt tình như thế.

Có thể nói, quan niệm nghệ thuật của Đặng Vương Hưng rất tiến bộ, nhân văn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<b>Tiểu kết chương 1 </b>

<i>Như vậy, yếu tố tự sự thâm nhập vào các tác phẩm trữ tình làm cho các </i>

tác phẩm trữ tình được xem xét ở nhiều phương diện, cách nhìn con người và

<i><b>cuộc đời cũng rộng mở, rõ nét hơn. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Bắc </b></i>

bộ, giàu truyền thống cách mạng đã tạo nên một Đặng Vương Hưng đậm chất quê, chất lính. Trong sự nghiệp cầm bút của mình, anh đã có đóng góp nhất định với nền văn học dân tộc, với báo chí và cơng tác tun truyền, hướng thiện cho những con người phạm sai lầm. Quan trọng nhất là anh đưa thể thơ lục bát đến gần hơn với người đọc, khẳng định lục bát thực sự là Quốc thi của Việt Nam.

<i>Mười năm qua, trang web cộng đồng lục bát Việt Nam đã quy tụ hàng vạn sáng </i>

tác lục bát của các tác giả và được coi là thư viện internet lưu trữ lớn về thơ lục bát mang tầm quốc gia. Thành tựu này không phải ai cũng dễ dàng đạt được nếu khơng có nhiệt huyết, sự nỗ lực, tinh thần trách nhiệm. Giữa bao nhiêu xô bồ của xã hội hiện đại, giữa lúc con người mải miết với công cuộc mưu sinh, những sáng tạo nghệ thuật của thi nhân nỗ lực đào sâu vào cái đẹp của dân tộc, của con

<i>người Việt, vì cịn nhiều vẻ, rất phong phú thật đáng quý biết bao! Rõ ràng, </i>

niềm vui của người nghệ sỹ chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ

<i><b>sở của cái Đẹp </b></i>

<i><b> </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

<i><b>CHƯƠNG 2: </b></i>

<i><b>CÁC KIỂU TỰ SỰ TRONG TẬP THƠ LỤC BÁT MỖI NGÀY 2.1. Với “Lục bát mỗi ngày”, mỗi bài thơ là một câu chuyện </b></i>

<i><b>2.1.1. Hình thức cốt truyện </b></i>

Cốt truyện là chuỗi các sự kiện được tác giả tạo ra, xây dựng trong các tác phẩm tự sự làm nên cái sườn của mỗi tác phẩm và được thể hiện qua lời trần thuật. Như vậy, cốt truyện bao gồm hai phần: một phần là chuỗi các sự kiện rất đặc trưng cho thể loại tự sự, một phần là lời kể, các yếu tố miêu tả và lời bình.

Cốt truyện có hai tính chất cơ bản đó là: các sự kiện đều có mối quan hệ nhân quả với nhau hoặc có sự mở đầu, kết thúc trong một mối quan hệ không biết đâu là mở đầu, đâu là kết thúc. Tính chất nêu trên sẽ giúp các nghệ sỹ dễ dàng nói những điều muốn nói. Tính chất thứ hai chính là cốt truyện có tính liên tục về thời gian, điều này tạo thành không gian nghệ thuật trong truyện.

Hiểu một cách chung nhất thì “Cốt truyện là một hình thức cơ bản trong các tác phẩm tự sự từ dân gian cho đến hiện đại” [22, tr 25].

Trong kho tàng ca dao - dân ca Việt Nam, nhiều bài có hình thức cốt truyện: “Đêm qua mới gọi là đêm

Ruột xót như muối dạ mềm như dưa Gọi chàng chẳng thấy chàng thưa Lần tay bẻ khoá thời vừa rạng đơng

Trách trời sao chóng rạng đơng Chẳng khuya chút nữa cho lòng thở than”

(Ca dao)

Đây là câu chuyện và cảm xúc của người phụ nữ: không ngủ được, nhớ “chàng” đến mức “ruột xót như muối”, bng lời trách ông trời không chiều lòng người. Yếu tố tự sự trong ca dao khơng có ý xác định khách thể mà chủ yếu làm cho chủ thể được rõ ràng, tạo được ấn tượng, sinh động hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Các nhà thơ cổ điển cũng học tập văn học dân gian, họ đưa chuyện vào trong thơ của mình thơng qua một câu chuyện đặc biệt nào đó. Đầu thế kỉ XX theo khảo sát của cuốn “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, Hoài Chân có đến 40% bài thơ là mang yếu tố chuyện, cách đưa chuyện của nhà thơ hiện đại độc đáo hơn so với các nhà thơ cổ điển.

Điều đặc biệt là khi kể chuyện, tác giả không những cung cấp một cách chi tiết những thông tin của một sự vật hay một người nào đó mà cịn giúp cho người đọc thấy được chính thái độ, tình cảm của họ thơng qua câu chuyện mà họ đang muốn kể. Đây chính là điều quan trọng nhất của một bài thơ trữ tình bởi nó giúp cho nhà thơ có thể đưa ra được sự hiện diện của con người vào trong thơ với bao nhiêu cách hành xử, nói năng, cảm xúc…

Hình thức kể chuyện trong thơ Đặng Vương Hưng có thể chia thành 2 nhóm: kể chuyện chính mình và kể câu chuyện của đời từ góc nhìn khách quan.

Nhóm thứ nhất trong hình thức kể chuyện của Đặng Vương Hưng có thể

<i>kể đến những bài thơ hết sức đặc sắc. Chất tự truyện nổi lên khá đậm được thể hiện thơng qua những lời tự bộc bạch về chính bản thân tác giả. </i>

<i><b>Ở “Tự hoạ”, thi nhân viết: </b></i>

<b>“Khơng cịn trẻ, cũng chưa già Người ta bảo hắn đang là...đàn ơng </b>

<b>Người hắn u đã lấy chồng Cịn người yêu hắn sống cùng có con </b>

<b>Mộng mơ ngày tháng mỏi mịn </b>

<b>Chưa vng nhà cửa, chưa trịn cơng danh... Bỏ làng xóm, ra thị thành. </b>

<b>Từ rừng về phố, vẫn anh quê mùa Kệ cho trời nắng với mưa! Hắn đâu chịu hiểu mình chưa biết gì. </b>

<b>Dù khơn hay dở...thơi thì... </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

<b>Hắn vẫn là... hắn...có gì khác đâu! Dẫu chưa bạc tóc, dài râu </b>

<b>Hắn đã tưởng tượng...kiếp sau đời mình Rằng yêu thì thật đa tình </b>

<b>Và khi giận dữ lặng thinh cửa nhà... Hắn như vậy đó em à </b>

<b>Đừng quen biết hắn mẹ cha buồn rầu...” [7, tr.23]. </b>

Sơ yếu lý lịch rõ ràng, không thể lẫn với ai: một người đàn ông đang ở độ tuổi trung niên; có gốc gác từ nơng thơn lên thành phố sinh sống, lập nghiệp nhưng vẻ quê mùa vẫn in hằn; có một gia đình nhỏ với những đứa con và người vợ u thương mình thật lịng; tính cách có vẻ khá mẫu thuẫn: khi giận dữ đến đáng sợ, lúc yêu thương mãnh liệt…Vương Hưng sử dụng danh xưng “hắn”, “hắn” ln trải lịng mình với mọi kiếp nhân sinh. Trong lời kể chuyện ẩn chứa một nụ cười tự chễ giễu, gây tò mò cho người đọc.

Đặng Vương Hưng tự bộc bạch những cảm nhận vui, buồn của chính mình, anh chọn thể thơ lục bát của dân tộc để thể hiện cảm xúc từ cõi lòng. Tác giả mượn chủ đề “Vay và trả” để nói về những ẩn dụ trong chuyện tình cảm:

“Cho anh vay một... nụ cười Mai anh xin trả em mười... cái hôn

Cho anh vay một... cái hôn Mai anh xin trả em còn gấp trăm

Nếu vay được… một đêm nằm Anh xin gán nợ... trăng rằm trả em

Không tin? Áp ngực mà xem Trái tim sẽ bảo: đang thèm được vay...

Vay hôm qua trả hôm nay

Vay sau trả trước, vay ngày trả đêm…”[7, tr.23].

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Nhà thơ mơ hồ nhận thấy tình u trong thế giới vật chất hơm nay nhiều khi chỉ là sự “Vay – Trả” đến phũ phàng, khiến trái tim nhạy cảm của anh nhói đau. Đọc bài thơ, người ta tưởng đây là lời tỏ tình dí dỏm, ranh mãnh nhưng sâu bên trong là một tiếng thở dài.

<i>Trong “Tưởng tượng”, Vương Hưng khéo léo làm cho người đọc tưởng </i>

tưởng với mình:

“Lịng ai mưa gió bời bời Cái đêm ghế đá tối trời cơng viên

Tơi thì im lặng bên em

Em ngồi như... Phật, khát thèm bên tôi Chắc gì ai đã quên rồi” [7, tr. 628]

Cả bài thơ là tâm trạng khát khao mà ngại ngùng, trong trắng và nên thơ của những người mới yêu nhau. Nhưng chính vì sự ngại ngùng đó mà họ lỡ mất tình yêu thời vụng dại, ngây thơ. Để rồi sau này khi nhớ lại, mối tình thủa ban đầu ấy cứ mãi vấn vương, vướng vít hồn người. Tình u đích thực là vậy, nhẹ nhàng mà sâu lắng. Thì ra trái tim có những lý lẽ riêng của nó mà lý trí khơng thể lý giải nổi.

Sang đến “Một mình”, người đọc tiếp tục dõi theo câu chuyện của cái tôi trữ tình:

“Đêm nay một mình giữa phố

Một mình cơng viên, một mình trăng lên... Gió thổi cho cánh hoa gày

Chẳng tặng ai, héo trên tay mình cầm Câu thơ đọc mãi sng tình

Một mình nghe, lại một mình lặng im... “[7, tr 86 ].

Thi nhân chìm đắm với nỗi cô đơn trong một không gian vắng lặng. Chính trong khoảnh khắc ấy, anh hiểu được nỗi đau của bông hoa đã đến thời khắc tàn phai. Nhìn cảnh mà sinh tình, một câu chuyện tưởng đơn giản nhưng

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

đặt ra vấn đề nhân sinh vô cùng sâu sắc. Tác giả như được làm chủ không gian rộng lớn và sau bao cơ đơn lại tự bng mình.

Nhóm thứ hai là kể câu chuyện của đời từ góc nhìn khách quan của chính tác giả. Đó là câu chuyện về những người lính, người đồng đội một đi không trở lại đã hi sinh tại nơi biển đảo xa xôi trong bài “Lễ thả hoa ở biển Đơng”, là hình

<i>ảnh người bà đầy lam lũ cả cuộc đời hi sinh vì con, vì cháu trong “Nhớ bà”, hay hình ảnh người mẹ tần tảo, thương chồng thương con trong bài “Về với mẹ”, có khi là hình ảnh người vợ lam lũ, chịu thương chịu khó trong bài “Vợ tơi”, hoặc </i>

hình ảnh những em bé mồ côi cơ nhỡ, những đứa bé mất quyền trẻ em “Trẻ con ở xóm bụi đời” trong tập thơ “Lửa thức”.

Ngay lúc này, chúng ta cùng lắng lòng trước câu chuyện đầy xót xa của

<i>Đặng Vương Hưng khi chứng kiến những đứa trẻ bụi đời: </i>

“Chưa lớn thì đã phải già Dẫu còn cha mẹ vẫn là... mồ cơi

Trẻ con ở xóm Bụi Đời

Như cỏ dại dưới nắng trời hoang vu... Bây giờ chưa đến mùa thu Vành trăng trịn trặn hình như xa vời

Đêm đêm ở xóm Bụi Đời

Hồn nhiên chúng vẫn hát, cười như khơng Có ai ra ngõ mà trông

Mai này làm vợ, làm chồng người ta Mai này làm mẹ, làm cha Sinh con đẻ cái... làm bà, làm ông Mai này... ai có biết khơng?” “[7, tr 91].

Tác giả khơng bình luận điều gì, cũng khơng giải đáp. Nhưng tất cả những cái “không” ấy lại buộc ta phải suy nghĩ chẳng yên. Từ câu chuyện về những trẻ em xóm bụi đời, bài thơ như bài phóng sự thu nhỏ với bao thân phận hiện lên chân

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

thật, cụ thể và tội nghiệp. Thi phẩm kết thúc bằng một câu hỏi tu từ đầy nhân văn, xoáy sâu vào tâm can độc giả!

Trong “Ở trọ”, thơng qua góc nhìn khách quan tác giả gửi gắm nỗi buồn trước một thực tại đang diễn ra:

“Một mình ở trọ một đêm

Tơi nằm mường tượng phịng bên... hai người. Đã lang thang nửa cuộc đời

Giờ tôi làm khách không mời nhà em. Khách lạ cũng cố cho quen (Như là ở trọ... thường xuyên ấy mà)

Em đi ở trọ người ta

Cịn tơi thì trọ ngay... nhà mình thơi.” “[7, tr 114].

Ở trọ là một sự tạm bợ, khơng chắc chắn và nó kéo theo sự vơ trách nhiệm với chính mình và với mọi người. Thi nhân thể hiện cái nhìn về cuộc sống tạm bợ. Theo quan niệm của Phật giáo thì “sống gửi, thác về”. Sống chính là việc ở trọ dương gian vậy nên ai sinh ra cũng ở trọ là lẽ dĩ nhiên. Lẽ thường, lấy chồng thì phải theo chồng, nhưng không phải là người phụ nữ nào khi ở trọ nhà chồng cũng tìm thấy được hạnh phúc và trong cái nhìn của nhà thơ thì đó là sự “đi ở trọ người ta”. Song trọ ở nhà người ta đã khổ, trọ ở ngay nhà mình cịn đáng sợ hơn nhiều.

“Phố q nhà” là bài thơ thể hiện được rõ nhất và để lại ấn tượng trong sự chuyển giọng, chuyển dòng chảy thời gian với giọng điệu đầy táo bạo những cũng không kém phần hài hước:

“Một nhà chồng đạp xích lơ Vợ ngồi đầu ngõ ghi lô với đề

Một nhà mở quán cho thuê Những sách báo cũ mua về tính cân

Một nhà chứa trọ bình dân Tồn người túng thiếu nợ nần đẩu đâu

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Một nhà buôn bán rất giàu Vợ đi bồ bịch đánh nhau cả ngày

Một nhà chồng uống rượu say

Nửa đêm còn chửi bới “mày” với “tao” [7, tr 492 ].

Cuộc sống của một người lính trừ những lúc đối mặt với bom đạn thì chỉ có trăng, sao, cây cối làm bạn - vất vả nhưng có phần đơn giản hơn. Song khi trở về với thời bình, nhân vật trữ tình phải chứng kiến nhịp sống xơ bồ nơi thị thành, với đầy đủ những vui, buồn, ái, ố, hỉ, nộ…phức tạp, trái ngang, éo le của cuốc sống thường nhật (bồ bịch, nghiện rượu, vi phạm pháp luật…). Mỗi cặp lục bát lại ẩn dấu điều trăn trở và cả tiếng cười ra nước mắt. Khi trưởng thành, nhận thức và suy nghĩ của con người cũng trở nên sâu sắc hơn.

<i>Trong “Mùa xuân ở lại”,thi nhân mở rộng tâm hồn đón nhận cả 4 mùa xuân, </i>

hạ, thu, đông cùng nỗi buồn đậm chất hoài cổ, man mác: “Thời gian thì cứ qua mau Biết mùa xuân ở lại đâu mà tìm?

Ừ mùa hạ sắp đến rồi Đồng quê ta lại tơi bời nắng mưa

Mùa thu liệu có ai mong

Ngập trời gió thổi đầy sơng trăng vàng Rồi mùa đông chẳng bất ngờ

Liệu em còn đợi, còn chờ nữa chăng?” [7, tr 60].

Cuộc sống luôn luân chuyển theo các mùa, mỗi mùa đến và đi đều chứng kiến những đổi thay của thiên nhiên, đất trời, con người. Xuân đến mang theo sức sống mới, một sự khở đầu mới nhưng xuân cũng chỉ là “mùa xuân ba tháng” (Xn Diệu), có níu kéo cũng chẳng được nên tiếc nuối cũng phải đợi chờ. Xuân qua thì hạ tới, những áng ve đến cùng cái nắng chang chang, còn những cơn mưa rào chợt đi chợt đến không ai biết trước, đồng quê vẫn ở yên chỗ cũ chủ động đón những cơn mưa, cơn nắng ấy trong sự điềm tĩnh vốn có. Thu sang, trăng vàng hồ

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

vào tiết trời hanh khơ cùng những cơn gió heo may se sắt. Đơng về, mưa phùn gió bấc cũng theo về. Thiên nhiên có sự hồ điệu riêng, con người cũng mang theo cảm xúc và câu chuyện của riêng mình: thư thái thưởng ngoạn những bức tranh đẹp song cũng thấy tâm hồn mình đầy trăn trở trước nhịp điệu quay cuồng của cuộc sống. Nếu không tinh tế trước những biến thái tinh vi của tạo vật liệu thi nhân có đa cảm như thế không?

Rõ ràng, không phải là cứ đi sâu vào tâm trạng của nhân vật mà Đặng Vương Hưng bỏ qn cái tơi của mình. Ngược lại, cái tơi của tác giả bộc lộ rõ hơn khả năng quan sát, sự đồng cảm với những người xung quanh. Nhà thơ đã dùng kể chuyện để thể hiện cái tơi của mình ra thế giới mà chiêm nghiệm về nó. Qua đó, nhà thơ khẳng định được cái bản ngã, giúp công chúng dễ dàng tiếp nhận những sáng tạo nghệ thuật của mình. Chính thái độ của độc giả đối với thơ Đặng Vương Hưng đã chứng thực điều này.

Có thể thấy, rất nhiều bài thơ của Đặng Vương Hưng có cốt truyện và tác giả kể chuyện thật sinh động, hấp dẫn, tự nhiên.

<i><b> 2.1.2. Dòng chảy thời gian </b></i>

Trong các tác phẩm văn học mang tính tự sự, thời gian đóng góp vào sự tiến triển của các sự kiện trong câu chuyện kể. Thường thấy nhất là thời gian có tính tiếp nối hay cịn gọi là nguyên tắc kế cận. Nguyên tắc kế cận không chỉ thể hiện qua việc chương nọ tiếp chương kia, sự kiện nọ tiếp sự kiện kia mà, nó biểu hiện hay sử dụng biện pháp đồng hiện, những biến cố xảy ra sau có thể nói đến trước hoặc ngược lại.

Khác với văn bản tự sự, ở các văn bản thơ dòng chảy thời gian được tổ chức theo nguyên tắc tương đương: sự lặp lại của nhịp, vần và các yếu tố khác như ngữ pháp, từ vựng …

Trong thơ cổ, các tác giả quan niệm thời gian là sự tuần hồn của vũ trụ, nó vĩnh viễn và được tính bằng hàng vạn, hàng nghìn năm. Bởi thế, chết không phải là sự chấm hết:

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

“Đừng tưởng xuân tàn, hoa rụng hết Đêm qua xuân trước một nhành mai”

(Mãn Giác Thiền Sư)

Về mặt chủ quan, Mãn Giác Thiền Sư đã đưa ra một triết lí, một quan niệm của đạo Phật: vạn vật có sinh có mất, người tu hành đắc đạo vượt qua được vòng sinh tử luân hồi sẽ sống mãi như những nhành mai bất tử.

Sang phong trào Thơ mới, dòng chảy thời gian có sự thay đổi rõ rệt. Khác với thơ cổ đại, Xn Diệu cảm nhận dịng chảy thời gian thơng qua việc nói lên thời gian hữu hạn của đời người.

“... Lịng tơi rộng, nhưng lượng đời cứ chật Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xn vẫn tuần hồn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại....”

("Vội Vàng”)

Vũ trụ vĩnh hằng, mùa xuân của trời đất có thể tuần hoàn nhưng thanh xuân của một đời người thì sẽ khơng lặp lại lần hai.

Nhà thơ Nguyễn Bính cũng có những quan điểm đó nhưng ông lại cảm nhận và gửi gắm qua số phận của các nhân vật:

“...Chẳng lẽ ơm lịng chờ đợi mãi Cơ đành lỗi ước với tình quân”

<i> (“Cơ lái đị”) </i>

Tác giả kể câu chuyện của một cơ gái lái đị cất bước theo chồng, lỗi hẹn với người yêu. Cô gái trong bài thơ cảm nhận rõ sự hữu hạn của tuổi thanh xuân, của đời người. Cô không thể cứ ngu ngốc chờ đợi vào người mình u khi khơng có kết quả nên bắt buộc phải lỗi hẹn mà cất bước theo chồng. Câu hỏi tu từ vang lên “Chẳng lẽ…chờ đợi mãi?” và câu trả lời chính là cái lắc đầu cũng như tiếng thở dài đầy giằng xé: thôi đành tạo thành cái kết buồn cho một đoạn tình! Thời gian quả thật dửng dưng, vơ tình, nó chẳng chờ đợi ai!

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Dòng chảy thời gian trong thơ thi sỹ họ Đặng không chỉ là thời gian xúc cảm mà cịn là thời gian tuyến tính, ghi dấu q trình trưởng thành của nhân vật trữ tình. Ở tập “Lục bát mỗi ngày”, dòng chảy ấy cứ nối tiếp không ngừng từ quá

<i>khứ đến hiện tại và cả tương lai. Mở đầu là “Học quên để nhớ” được in năm 2001 </i>

với 46 bài thơ từ khi tác giả cịn là một người lính, đang giữ chắc cây súng thực hiện trách nhiệm với Tổ quốc. Sau đó là “Lục bát mỗi ngày” hành trình thời gian trải dài từ 2006 đến hết 2020 cùng những suy tư về thân phận con người, về những điều diễn ra trong cuộc sống thường nhật. Tiếp đến là “Dư luận tác phẩm và tác giả” từ 2020 đến 2022 với cái nhìn chủ quan, khách quan về thơ và cuộc đời của Vương Hưng. Nhờ thế, người đọc được chứng kiến sự thay đổi của thi nhân trong mỗi giai đoạn cuộc đời.

Khi đi chiến đấu, người lính trẻ bỗng “Nghe tiếng chim gáy trên địa đạo pháo cao xạ” vọng đến làm cho mọi vất vả, mọi mệt nhọc được tan biến:

“Có con cu gáy mải khoe tiếng gù Cúc cù cu cúc cù cu…

Nghe mà cứ ngỡ mùa thu đến rồi Ở đây toàn núi với đồi

Ngày đêm chỉ có gió trời thay chim Bỗng trưa nay phút lặng im

Đất trời nín thở tiếng chim vọng về…”[7, tr 51 ].

Một không gian thời gian yên tĩnh hiện lên qua việc sử dụng hình ảnh đối lập: tiếng chim gáy (báo hiệu sự thanh bình và phồn thịnh), trận địa pháo cao xạ (biểu tượng của chiến tranh). Giữa nơi chiến trường ác liệt mà lịng người lại vơ cùng n tĩnh, thanh khiết. Bài thơ đã có sự nối tiếp nhau của dịng chảy thời gian từ mùa hè “thống nghe như một lời ru giữa hè” sang mùa thu “nghe mà cứ ngỡ mùa thu đến rồi” và rồi đến mùa xuân “đất trời nín thở tiếng chim vọng về”.

“Cuối năm” 2006 khi thi nhân đang ở độ tuổi sung sức, miệt mài với khối lượng công việc chồng chất, anh cảm nhận thời gian “trôi vèo” – mọi thứ nhanh đến mức khơng tưởng, bao nhiêu thứ “chia kịp” đã khơng cịn cơ hội để thực hiện:

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

Cuối năm ngày tháng trôi vèo Thời gian như cũng rơi theo lá vàng

Trời chưa kịp đón xuân sang Người chưa mang hết bẽ bàng ra đi

Cỏ chưa kịp mọc xanh rì Sông chưa kịp chảy đợi khi mưa về

Em ngồi nhặt nắng ven đê

Cuối năm có nhớ lời thề trẻ con? …”[7, tr 158 ].

Nhưng sau đó, một vài tuổi trôi qua, Đặng Vương Hưng chững lại, sống chậm hơn, anh suy ngẫm về “Điểm tựa”, cảm nhận rõ từng bước đi của thời gian và hiểu rằng:

Tựa lưng vào những hồng hơn Tàn đêm chẳng hiểu dại khôn, bi hài

Tựa lưng vào những ban mai

Thấy mùa chầm chậm rơi ngồi sơng xa... …”[7, tr 405 ].

Thêm một vài mùa lá rụng, công đã thành và danh đã toại, Đặng Vương Hưng trở nên sâu sắc, thảnh thơi với những ngày nghỉ hưu, sum họp bên gia đình, rảnh rỗi hơn nên “Điện thoại cho bạn cũ”, cái nhìn về thời gian càng khác xưa:

Lâu rồi mình chưa gặp nhau Ơn giời, nên chẳng ốm đau bao giờ

Buồn vui vẫn muốn làm thơ Bạc đầu vẫn cứ dại khờ thế thôi...

Cửa nhà thì đã xong rồi

Hơm nào mời bạn ghé chơi uống trà Năm nay tuổi đã ông bà

Công danh, sự nghiệp... cũng qua lâu rồi! Bây giờ thanh thản nghỉ ngơi

Làm điều mình thích, tìm nơi khơng phiền

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Chẳng mơ cuộc sống thần tiên Chỉ mong cổ tích như miền ca dao...

Về q mình hẹn hơm nào

Uống vài chén rượu... chỉ tao với mày! Rồi nghêu ngao hát cho say

Rồi hồn nhiên ngủ như ngày còn thơ... …”[7, tr 498 ].

Khi “Tuổi xế chiều” sầm sập tới, thi nhân lại bỗng thấy tâm hồn mình trẻ lại cũng những khao khát, những mùa yêu. Thời gian lúc này thật chùng chình, dịu dàng hơn bao giờ hết:

Biết là đã tuổi xế chiều

Mà sao mình vẫn cịn nhiều khát khao? Vui buồn như giấc chiêm bao Mà mình vẫn muốn gửi trao cho người...

Câu thơ biết khóc biết cười Cuối thu trời vẫn còn tươi nắng vàng

Tuổi xế chiều chẳng vội vàng Nếu yêu thì có muộn màng hay khơng?

Đừng chờ đợi đến mùa đông Làm cho môi đỏ má hồng phôi phai

Cịn mong ai cịn nhớ ai?

Hồng hơn chầm chậm, ban mai nhẹ nhàng... …”[7, tr 658 ]

Sang “Mùa xuân ở lại”, dịng chảy thời gian được thể hiện thơng qua sự dịch chuyển thời gian của một năm với bốn mùa xn, hạ, thu, đơng:

“ Ngỡ ngàng kìa mấy cánh chim Đang ríu rít chợt lặng im ngang trời

Ừ mùa hạ sắp đến rồi Đồng quê ta lại bời bời nắng mưa

Thương em vất vả sớm trưa

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Thơ tôi làm tặng cũng vừa mới xong Mùa thu liệu có ai mong?

Ngập trời gió thổi đầy sơng trăng vàng Em cịn tát nước cuối làng

Để tơi kiếm cớ tìm sang chuyện trị? Rồi mùa đơng chẳng bất ngờ Liệu em còn đợi, còn chờ nữa chăng

Tôi đi đánh giặc bao năm

Lời yêu đã kịp thì thầm gì đâu!” [7, tr 760].

Mùa xuân với sự báo hiệu của các “cánh chim”, rồi đến mùa hạ với hình

<i>ảnh “bời bời nắng mưa”, mùa thu với hình ảnh “gió thổi đầy sơng trăng” và cuối </i>

cùng là mùa đơng. Dịng chảy ấy cịn nối tiếp bởi những suy tư, lo lắng của tác giả về thân phận, về kiếp người được ví như chiếc lá với những lần thay áo và cuối cùng lá sẽ rụng khi mùa đông sang giống như một kiếp người ngắn ngủi – “Lá rơi” đã ra đời từ những trăn trở ấy:

“Chỉ là một chiếc lá rơi

Sáng nay lặng lẽ giữa trời mùa đơng Gió về xao xác mênh mơng Cơn mơ lạc giữa cánh đồng đầy hoa

Vô tình ai đã bước qua Giẫm lên vỡ nát như là còn đau

Kiếp người liệu đến mai sau Có như chiếc lá đổi màu thời gian?

Xác khô mà vẫn chưa tàn

Đợi bùng ngọn lửa theo làn mây bay” [7, tr 453]

Tạo hoá ban tặng cho con người rất nhiều ân huệ, song quyền lực của con người dù lớn đến nhường nào cũng khơng thể đoạt lấy quyền của tạo hố mà níu giữ, thay đổi thời gian theo ý mình. Ở “Lá rơi”, trong phút giây lắng đọng thi

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

nhân đã băn khoăn về kiếp nhân sinh ngắn ngủi của mỗi con người. Tất cả rồi sẽ trở về với cát bụi, hoà vào vũ trụ bao la, tan theo làn mây, tìm đến chân trời mới…có tiếc xót cũng thế thơi!

Ở “Thương nhớ mùa đi”, Vương Hưng nén tiếng thở dài, tìm về với kỷ niệm và bất lực trước bước đi của thời gian:

“Bỗng nhiên giữa đám lúa xanh Cịn một quả chín trên cành cây cao

Mùa hè sót lại nơi nào

Cho đàn chim nhỏ chào mào kêu vang Phố xưa thưa thớt đường làng Ngoảnh đầu nhìn lại lá vàng đã bay

Tìm đâu nắng ấm sớm nay

Tiễn mùa hạ cũ bao ngày chưa xa” [7, tr 323]

Cuộc sống là một hành trình khơng ngừng nghỉ và không ai đủ giàu để chuộc lại quá khứ. Khi con người mải miết cuốn theo cuộc sống mưu sinh bề bộn, phút chốc ngoảnh lại tất cả chỉ còn là những ký ức. Khi ấy, con người bỗng ngưng lại để hồi tưởng, những khoảnh khắc đã qua trở về làm ta bối rối, nghĩ suy, rồi lại tiếp tục khép lại trong tâm trí. Câu chuyện Vương Hưng kể nếu nghe lướt qua, đọc thống qua ta chỉ thấy bình thường. Song nghĩ kỹ, ngẫm lâu sẽ hiểu rằng thi nhân đang thức tỉnh độc giả hãy sống trọn vẹn dù trong từng khoảnh khắc bởi cuộc đời chúng ta chỉ có một lần.

Tiếp tục chạm vào “Về q tìm lại”, độc giả lại được lắng lòng với “Thời xa lắm rồi”:

“Về quê gặp lại trò chơi Lạc vào cổ tích hỏi nơi trốn tìm

Nấp sau tượng đá ú tim Bóng cây cổ thụ lặng im sân chùa

Rạ rơm rối cả ngày mùa

</div>

×