Lời mở đầu
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ tịch hồ chí
minh; dân tộc Việt Nam đã làm nên những chiến công hiển hách và những
thắng lợi có ý nghĩa lịch sử cũng như thời đại, từ thắng lợi của cách mạn
tháng tám năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tới
chiến thắng Điện biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động đại cầu, tới chiên
thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước; Đảng Cộng sản Việt Nam chính là nhân tố tất yếu trong mọi chiến
thắng của dân tộc ta. Ngày nay, khi dân tộc ta đang từng bước tiến hành sự
nghiệp đổi mới đất nước một cách toàn diện, vai trò của Đảng càng trở nên
quan trọng hơn; điều đó đã được minh chứng qua nhứng biến đổi kì diệu
của đất nước ta trong 20 năm đổi mới vừa qua. Đảng Cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo đất nước ta bước ra khỏi thời kì lạc hậu kém phát triển, đưa
nước ta bước vào một thời kì phát triển mới, tiến những bước dài trong thời
kì quá độ đi lên Chủ nghĩa Xã hội. Đó chính là điều mà chúng em sẽ trình
bày qua bài tiểu luận này.
1
Từ giữa năm 1975, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, cả nước độc lập và thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước
vào thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tính tới năm 1986, bước chuyển biến mang tính lịch sử ấy đã diễn ra
được một thập kỷ, bên canh những thành tựu to lớn cũng đã để lại rất nhiều
những khó khăn cần phải giải quyết; bên cạnh đó là những biến động hết
sức to lớn của lịch sử, ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình đi lên của cách mạng
Việt Nam.
Vượt qua những khó khăn của thời kì đầu mới giành được độc lập,
trong thời kì này nhân dân ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn là:
Đã nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, đẫ thiết lập được
một hệ thống chế độ mới trong cả nước và đã áp dụng thành công một loạt
những chính sách nhằm thúc đẩy quá trình phát triển về mọi mặt của nhà
nước, tạo nên cuộc sống hòa hợp dân tộc làm cho lực lượng cách mạng
nước ta lớn hơn bao giờ hết, phất huy có hiệu quả trong công cuộc hàn gắn
những vết thương chiến tranh, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đã anh dũng chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh quy mô lớn ở
biên giới Tây Nam và phía Bắc, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam Xã hội
Chủ nghĩa đồng thời cũng làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân
Campuchia và nhân dân Lào, góp phần tích cực bảo vệ độc lập và hòa bình
trên bán đảo Đông Dương.
Trên mặt trận kinh tế cũng như văn hóa, đã đạt được một số thành
tựu, đáng chú ý là đã cơ bản hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế, hàn
gắn vết thương chiến tranh, bước đầu ổn định sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên bên cạnh nhữn thành tựu đó, còn tồn tại rất nhiều những
vấn đề to lớn, đặc biệt là các vấn đề kinh tế xã hội. Những thành tựu kinh tế
mà chúng ta đạt được còn thấp so với yêu cầu đề ra, với công sức chúng ta
bỏ ra, thu nhập quốc dân chưa đảm bảo được tiêu dùng xã hội, chưa tạo
được tích lũy bên trong. Các mật hàng tiêu dùng thường nhật, thiết yếu như
lương thực, vải mặc đều thiếu. TÌnh hình cung ứng năng lượng, giao thông
vận tải, vật tư cơ bản đều rất căng thẳng. Tình hình lạm phát ngày càng
nghiêm trọng; hiện tượng mất cân đối trong vấn đề tiền lương, hiện tượng
giá cả không ổn định mất cân đối xảy ra một cách trầm trọng. Những hiện
2
tượng tiêu cực của xã hội còn kéo dài trên một số mặt. Tất cả nhưng tồn tại
ấy đã làm lộ ra những khiếm khuyết trong mô hinh Xã hội Chủ nghĩa nghĩa
rập khuôn theo Liên Xô, quan liêu bao cấp.
Nguyên nhân khãch quan của những khó khăn đó đã được chỉ ra
trong văn kiên Đại hội lần thứ V của Đảng; đó là:
Nền kinh tế của nước ta nhìn chung vẫn là một nền kinh tế nhỏ lẻ,
kém tập trung. Lao động chủ yếu là trong ngành nông nghiệp, tuy nhiên
nền nông nghiệp lại là một nền nông nghiệp lạc hậu, kém hiệu quả. Bên
cạnh đó còn phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh
lâu dài và của sự bóc lột của thực dân, đế quốc. Thêm vào đó là thiên tai
lớn dồn dập xảy ra, kẻ địch lại không ngừng phá hoại nước ta về nhiều mặt.
Nền kinh tế bị đè nặng bơi những yêu cầu vừa cơ bản lại hết sức cấp bách.
Song, nguyên nhân chính lại là những nguyên nhân chủ quan, chúng đến từ
sự lãnh đạo của Đảng, bởi sự lãnh đạo của Đảng có tác động vô cùng quan
trọng và có tính chất quyết định đối với thành bại của sự nghiệp cách mạng.
Đảng và nhà nước đã tự kiểm điểm và nghiêm khắc tự phê bình và những
sai lầm và khuyết điểm đã phạm, biểu hiện trên các mặt sau đây:
Còn chủ quan trong việc đánh giá tình hình nước ta sau chiến tranh,
thiên về những thuận lợi còn bỏ qua những khó khăn. đề ra những chủ
trương, chỉ tiêu quá cao không phù hợp với tình hình thực tế. Chậm sửa đổi
gỡ bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, mô hình kinh tế thời
chiến. Chủ quan nóng vội muốn bỏ qua những bước đi mang tính thiết yếu
trong quá trình phát triển.. Buông lỏng pháp luật, buông lỏng công cụ
cuyên chính với những kẻ vi phạm pháp luật nhà nước, những kẻ phá hoại
và chống đối cách mạng.
Chính vì vậy, đổi mới trở thành một yêu cầu bức thiết đổi với Đảng
và nhà nước cũng như toàn thể dân tộc ta để có thể vững bươc tiến lên
trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
3
Chương I:
NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG (1986)
Trước những khó khăn, sai lầm đã nêu trên, đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đã khai mạc tại thủ đô Hà Nội từ ngày 15 tới
ngày 18/12/1986. Tham gia đại hội có 1129 đại biểu đại diện cho gần 1,9
triệu Đảng viên trong cả nước và có 32 đoàn đại biểu quốc tế tham dự.
Đánh giá việc thực hiện nghị quyết đại hội V; báo cáo chính trị tại đại hội
đã nêu rõ: “thái độ của Đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật”. Cùng với việc đánh giá những thành tích đã đạt
được, ở đại hội này chúng ta chú trọng kiểm điểm những mặt yếu kém,
phân tích sâu săc những sai lầm và khuyết điểm, vạch rõ nguyên nhân và
nêu ra biện pháp khắc phục, xác định nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu trong
những năm còn lại của chặng đường đầu tiên của thời kì quá độ.
Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật và nói rõ sự thật, Đại hội đã
nhận định 5 năm vừa qua là một chặng đường đầy thử thách với Đảng và
nhân dân ta. Chúng ta đã đạt được không ít thành tựu nhưng bên cạnh đó
lại nảy sinh rất nhiều những khó khăn phức tạp. Trong những năm từ 1981-
1985, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đã chăn được đà giảm sút (giai
đoạn 1979-1980) và từ năm 1981 đã đạt được chuyển biến đáng kể; nông
nghiệp tăng bình quân 4,9% một năm (giai đoạn 1976-1980 là 1,9%), sản
lượng lương thực bình quân hàng năm đạt 17 triệu tấn, sản xuất công
nghiệp tăng bình quân 9,5%một năm (giai đoạn 1976-1980 là 0,6%), thu
nhập bình quân tăng hàng năm là 6,4 % (giai đoạn 1976-1980 là 0,4%). Về
xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật Xã hội Chủ nghĩa, trong giai đoạn này,
hàng trăm công trình lớn, hàng ngàn công trình vừa và nhỏ đã hoàn thành
và đưa vào khai thác, sử dụng có hiệu quả. Công cuộc cải tạo Xã hội Chủ
nghĩa đã tiến thêm một bước. Cuộc sống của nhân dân trong thời kì kinh tế
còn yếu kém đã được Đảng chú trọng chăm lo hơn; cuộc chiến đấu bảo vệ
thành quả cách mạng đảm bảo an ninh chính trị và thực hiện nghĩa vụ quốc
tế đã giành được nhiều thắng lợi to lớn.
4
Đại hội đã khẳng định những thành tựu đã đạt được đồng thời cũng
không hề phủ nhận mà thẳng thắn chỉ ra tình hình kinh tế xã hội đất nước ta
đang tồn tại nhiều vấn đề bất cập, khó khăn. Sản xuất tăng chậm không phù
hợp với thời gian, tiền bạc và công sức bỏ ra, chưa đáp ứng được nhu cầu
nhanh chóng ổn đinh đời sống của nhân dân. Nhiều chỉ tiêu của kế hoạch 5
năm (1981-1985) không đạt đã ảnh hưởng tới toàn bộ các hoạt động kinh tế
và đời sống nhân dân…Tóm lại, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu mà
đại hội 5 đã vạch ra, dó là ổn định vè cơ bản tình hình kinh tế xã hội và đời
sống nhân dân. Về nguyên nhân của những vấn đề trên, Đại hội đã nhấn
mạnh: “Chúng ta không đánh giá thấp những khó khăn khách quan, những
khó khăn đó là rất lớn. Song việc quan trọng hơn là phân tích sâu săc
những nguyên nhân chủ quan, nêu ra những sai lầm khuyết điểm trong hoạt
động của Đảng và nhà nước. Trong nhiều năm qua, Đảng đã mắc sai lầm về
“xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo
Xã hội Chủ nghĩa và quản lý kinh tế.”
Từ thực tiến cách mạng, Đảng đã nêu ra những bài học kinh nghiêm
quan trọng:
- Một là trong toàn bộ các hoạt động của minh, Đảng phải quán
triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
- Hai là đang phải xuất phát từ thực tế; phải tôn trọng và hành động
theo các quy luật khách quan; năng lực nhận thức và hành động
theo các quy luật khách quan chính là điều kiện đảm bảo sự lãnh
đạo đúng đăn của Đảng.
- Ba là phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong điều kiện mới.
- Bốn là: Phải xây dựng cơ cấu Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị
là một Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách
mạng Xã hội Chủ nghĩa.
Nhận thức được những bài học kinh nghiêm trên, Đảng đã mạnh dạn
vạch ra một đường lối đổi mới một cách toàn diện, mà bắt đầu là đổi mới
cơ cấu kinh tế.
5
I. Những đinh hướng đổi mới cơ cấu kinh tế
Trong đại hội VI, Đảng ta chỉ rõ: “muốn đưa nền kinh tế thoát khỏi
tình trạng rối ren mất cân đối, cần phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế
quốc dân theo cơ cấu hợp lý, trong đó các ngành, các vùng, các thành phần
kinh tế và các loại sản xuất có quy mô và trình độ khác nhau cần phải được
bố trí cân đối, liên kết với nhau phù hợp với điều kiện thực tế bảo đảm cho
nền kinh tế ổn định.”
Trong cơ cấu sản xuất ngành trước hết là các ngành sản xuất công
nghiệp và nông nghiệp có ý nghĩa dặc biêt quan trọng, có khả năng chi phối
những mối quan hệ cân đối khác trong tổng thể nền kinh tế.
Đây là hai ngành sản xuất vật chất cơ bản của nền kinh tế quốc dân,
do vậy mà cần bố trí sao cho giữa công nghiệp và nông nghiệp có sự kết
hợp chặt chẽ ngay từ đầu trở thành một cơ cấu thống nhất. Cơ cấu đó phải
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối và tăng trưởng ổn định.
Ở mỗi giai đoạn, mối chặng đường khác nhau thì vị trí của công
nghiệp va nông nghiệp cũng khác nhau, vì vậy mà trong giai đoạn hiện nay,
Đảng chủ trương tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến lên nền sản xuất lớn Xã
hội Chủ nghĩa. Yêu cầu đặt ra là: “tăng nhanh về khối lượng và tỉ suất hàng
nông sản kết hợp chuyên môn hóa với phát triển toàn diện nông, lâm, ngư
nghiệp”
Đối với các ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp, báo cáo
chính trị tại đại hội cũng chỉ rõ nhiệm vụ của công nghiệp nhẹ và tiểu thủ
công nghiệp là phải đáp ứng được nhu cầu của người dân về những loại
hàng cần thiết để đảm bảo yêu cầu chế biến nông lâm thủy sản và tăng
nhanh việc làm hàng gia công xuất khẩu.
Đối với công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng là phải “phục vụ các
mục tiêu kinh tế, quốc phòng trong chặng đường đầu tiên; rồi dựa trên
những kinh nghiêm thực tế chuẩn bị tiền đề cho sự phát triến kinh tế trong
chặng đường tiếp theo”; cũng trên cơ sở định hướng đó, đại hội cũng khẳng
định đường lối ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp năng lượng như
dầu khí, điện đồng thời cũng phải chú trọng cải tạo màng lưới giao thông
vận tải: “ưu tiên giao thông vận tải đường thủy, tăng tỷ trọng vận tải đường
6
săt, sắp xếp hợp lý vận tải đường bộ, phát triển đường không”, bên cạnh đó
cũng cần chú trọng việc phát triển màng lưới giao thông nông thôn thông
qua việc kết hợp giữa người dân, nhà nước và các tổ chức kinh tế tập thể
khác.
Đồng thời trong báo cáo; đại hội cũng chỉ ra tầm quan trọng của các
ngành kinh tế dịch vụ. Bởi trong nền kinh tế không thể thiếu đi các ngành
kinh tế này. Tuy nhiên trong thực tế, tỷ trọng của ngành dịch vụ trong cơ
cấu kinh tế nước ta chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Đại hội đã nêu ra cần phải
đẩy mạnh việc phát triển các ngành như sản xuất hàng tiêu dùng; buôn bán
nhỏ và vừa, phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Tựu chung lại, sự đổi mới của cơ cấu kinh tế là nhằm hướng tới thực
hiện tốt kế hoạch 5 năm trong tương lai gần và ba mục tiêu – ba chương
trình trọng điểm về:
- Lương thực thực phẩm
- Sản xuất hàng tiêu dùng
- Đẩy mạnh xuất khẩu
II. Những định hướng trong việc đổi mới cơ chế quản lý
Bên cạnh công tác đổi mới cơ cấu kinh tế; Đại hội còn đưa ra quyết
định mới về cải tạo Xã hội Chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc:
Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa nhất thiết phải tuân theo những quy luật
khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất để xác định những bước đi và hình thức thích hợp;
từ đó đại hội khẳng định “ đẩy mạnh cải tạo Xã hội Chủ nghĩa là thường
xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội…”
Ngoài việc phát huy nội lực từ kinh tế trong nước Đảng ta còn chủ
trương đẩy mạnh, mở rộng hiệu quả của kinh tế đối ngoại. Nhiệm vụ ổn
định và phát triển của kinh tế trong chặng đường đầu tiên của con đường
đổi mới toàn diện này nhanh hay chậm phụ thuộc một phần quan trọng vào
việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác kinh tế đối ngoại. Đại hội
VI nêu rõ sự cần thiết “ công bố chính sách khuyến khích đầu tư vào nước
ta dưới nhiều hình thức nhất là đối với các ngành, cơ sơ đòi hòi trình độ kĩ
thuật cao, làm hàng xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật đầu tư mới cần
7
có các chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước
ngoài và việt kiều vào nước ta để kinh doanh.”
Để thiết lập cơ chế quản lý mới cần thực hiện một cuộc cải cách lớn
về bộ máy nhà nước. Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính-kinh tế với
quản lý theo đại phương và vùng lãnh thổ.
Đại hội VI của Đảng cho rằng để tăng cường sức chiến đấu của Đảng
cũng như năng lực tổ chức thực tiễn, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt, đổi
mới tư duy mà đặc biệt là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ
cán bộ, đổi mới phương cách lãnh đạo và công tác. Tuy nhiên, đổi mới
nhưng phải nắm chắc áp dụng hợp lý chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu một cách có hệ thống sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm từ thực tiễn, khắc phục những quan điểm sai lầm, lỗi thời. Đổi
mới tư duy không đồng nghĩa với việc phủ nhận sạch trơn những quan
điểm tư duy lý luận sẵn có mà nó là sự phủ nhận mang tính kế thừa; phát
huy những mặt đúng đắn trong tư duy đã có đồng thời khắc phục những
mặt còn sai lầm hoặc lệch lạc. Đó chính là nhiệm vụ lớn lao của công tác tư
tưởng trong sự nghiệp đổi mới. Đồng thời với việc đổi mới đội ngũ cán bộ,
phong cách làm việc, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng cũng có yêu
cầu tất yếu là cần đổi mới , nâng cao hiệu quả của công tác sinh hoạt tư
tưởng trong việc thống nhất tư tưởng tăng cường đoàn kết trong Đảng.
Đại hội VI của Đảng đã hoạch định đường lối đỏi mới một cách toàn
diện và sâu sắc, triệt để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng toàn dân,
thể hiện cho tinh thần trách nhiệm cao của Đảng với dân tộc, với đât nước.
Và trên tinh thần của đại hội VI; công cuộc đổi mới đã được triển
khai một cách mạnh mẽ. Tuy vậy tình hình đát nước cũng như thế giới
trong giai đoạn 1987-1988 có nhiều biến động phức tạp, ảnh hưởng lớn tới
đất nước ta. Trong nước, lạm phát vẫn chưa thaoát khỏi tình trạng “ba con
số”: 1986-774,7%;1987 398,3%. Đời sống nhân dân khó khăn, tiền lương,
trợ cấp xã hội giảm sút mạnh. Công thương nghiệp đình đốn, nông nghiệp
không cung ứng đủ nhu cầu trong nước, nạn đói xảy ra ở nhiều nơi. Quốc
tế, sự sụp đỏ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô gây nên những
ảnh hưởng không tốt tới tình hình cách mạng đất nước ta.
8
Trước tình hình muôn ngàn khó khăn chồng chất như vậy, Đảng và
nhá nước cùng với toàn thể nhân dân càng tỏ rõ bản lĩnh vững vàng; một
mặt phân tích rõ những nguyên nhân của các khó khăn nhưchậm tổn kết
thực tiễn để đưa ra những quyết sách hợp lý; nhà nước chậm cụ thể hóa
đường lối của Đảng vào thực tiến…đồng thời giữ vững lập trường chính
trị; khắc phục khó khăn, từng bước đưa nghị quyết đại hội VI vào thực tiễn.
III. Những thành tựu ban đầu
Các hội nghị trung ương khóa VI đã tập trung bàn và quyết định
những bước đi quan trọng của sự nghiệp đổi mới. Hội nghị lần 2 ban chấp
hành trung ương (4-1987) bàn về vấn đề lưu thông phân phối; các hội nghị
tiếp theo cho tới hội nghị 6 (3-1989)đã quyết định những chủ trương chính
sách lớn nhằm đẩy mạnh quá trình đổi mới, đặc biệt là về vấn đề đổi mới
cơ cấu kinh tế. Nhờ có những quyết sách hợp lý của Đảng mà nền kinh tế
đã có những bước chuyển biến tích cực; mức lạm phát giảm xuống nhanh
chóng chỉ còn ở mức “hai con số” (67,4%-1990). Công thương nghiệp khởi
sắ trở lại; ba chương trình kinh tế trọng điểm đạt được những tiến bộ rõ rệt.
Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội được cải
thiện và phát huy; quốc phòng an ninh được giữ vững; hoạt động kinh tế
đối ngoại được mở rộng, đẩy lùi thị trường bị bao vây cô lập; công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều tiến bộ. Một số chỉ tiêu kinh tế xã hội có
tiến bộ đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu năm 1986 là 439 triệu rúp và 387
triệu USD nhưng tới năm 1990 đã tăng đáng kể lên 1019 triệu rúp và 1170
triệu USD. Đã có hai mặt hàng xuất khẩu là gạo và dầu thô. Mức tăng
trưởng hàng năm trong giai độan 1986-1990 đạt 3,9%. Đời sống tinh thần
của nhân dân được nâng cao. Hệ thông luật pháp được cải thiện mang lại
hiệu quả cao trong công tác quản lý.
Quả thực,qua thực tế đã chứng minh đường lối lãnh đạo của Đảng là
hoàn toàn đúng đắn; và Đảng đã chứng minh vai trò lãnh đạo tất yếu của
mình thông qua việc định hướng đổi mới cũng như lãnh đạo nhân dân ta
bước những bước đầu tiên trên con đường ấy. Ngay sau khi đại hội VI kêt
thúc, Bộ chính trị và ban chấp hành khóa VI đã lập ra ban soạn thảo cương
lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Để phát huy trí tuệ tập thể trong
việc chuẩn bị các văn kiện, 3-1990, 5 tiểu ban của trung ương đã được
9
thành lập nhằm lấy ý kiến rống rãi trong toàn bộ các tầng lớp nhân dân. Đó
là một quá trình chuẩn bị công phu và kĩ lưỡng dựa trên những cơ sở lý
luận đúng đắn kết hợp với những kinh nghiệm thực tiến có được trong giai
đoạn 1986-1990 tiến tới Đại hội VII.
10