Tải bản đầy đủ (.doc) (181 trang)

Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.06 KB, 181 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

<b>HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI</b>

<b>LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC</b>

<b>Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Trần Minh Đức2. TS. Dương Quỳnh Hoa</b>

<b>HÀ NỘI, 2024</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CAM ĐOAN</b>

Nghiên cứu sinh xin cam đoan tất cả các thơng tin được trích dẫn trong luận án này là các thơng tin có nguồn gốc tin cậy. Nghiên cứu sinh cam kết các kết quả nghiên cứu trong luận án này là của riêng nghiên cứu sinh.

<b>Tác giả luận án</b>

<b>Trần Minh Trường</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>MỞ ĐẦU ... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNGVẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ... 9 </b>

1.1.Tổng quan về tình hình nghiên cứu ... 9 1.2.Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Nguyên ... 27 1.3.Cơ sở lý thuyết và câu hỏi nghiên cứu ... 31

<b>Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÀNHCHÍNH TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI ... 33</b>

2.1.Khái niệm, đặc điểm và vai trị của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại ... 33 2.2.Nội dung trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại ... 55 2.3.Nguyên tắc và phạm vi áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực <b>TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI TẠI CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN 87 </b>

3.1.Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại ... 87 3.2.Tình hình áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại tại các tỉnh Tây Nguyên ... 97

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

3.3.Đánh giá chung về trách nhiệm hành chính trong thương mại tại các tỉnh Tây

Nguyên ... 105

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ... 123

<b>Chương 4. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TRÁCHNHIỆM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI TỪTHỰC TIỄN CÁC TỈNH TÂY NGUYÊN ... 125</b>

4.1.Phương hướng hồn thiện trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Nguyên ... 125

4.2.Giải pháp hoàn thiện trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Nguyên ... 132

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ... 160

<b>KẾT LUẬN ... 161 </b>

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 163 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài</b>

Mặc dù chỉ là biện pháp cuối cùng được áp dụng, khi các biện pháp tác động khác không đạt được hiệu quả mong muốn, trách nhiệm pháp lý đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc bảo đảm tuân thủ pháp luật, củng cố trật tự pháp luật. Trong quản lý hành chính nhà nước nói chung, quản lý hành chính về thương mại nói riêng, thơng qua việc áp dụng các chế tài hành chính , trách nhiệm hành chính thực hiện chức năng xử lý các hành vi vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, củng cố trật tự quản lý, góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích của các nhà sản xuất và người tiêu dùng, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.

Hiện nay, trách nhiệm hành chính được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Trên cơ sở Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Chính phủ đã ban hành, sửa đổi, bổ sung các Nghị định liên quan đến trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại (Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 185/2013/NĐ-CP)). Mặc dù, có nhiều điểm tiến bộ nhưng các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành vẫn bộc lộ những tồn tại làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Ví dụ, các quy định pháp luật hiện hành vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, các chế tài hành chính lạc hậu, khơng theo kịp sự phát triển không ngừng của nền kinh tế.

Trong những năm qua, đặc biệt khi nước ta mở cửa hội nhập kinh tế với các nước trên thế giới và trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, tình hình vi phạm pháp luật hành chính nói chung, các vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại nói riêng đã và đang diễn ra hết sức phức

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

tạp. Nạn buôn lậu, sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng hóa kém chất lượng, các vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm, vi phạm sở hữa trí tuệ.. có chiều hướng gia tăng. Phải chăng các biện pháp phòng, chống vi phạm hành chính, trong đó có trách nhiệm hành áp dụng đối các hành vi vi phạm này hiệu quả cịn thấp, chưa đủ tính răn đe đối với các đối tượng vi phạm. Qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng trách nhiệm hành chính trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, nghiên cứu sinh nhận thấy bên cạnh những kết quả đạt được rất đáng khích lệ, vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Tiêu biểu là tình trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở Tây Nguyên ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất và thủ đoạn. Các vụ việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Nguyên nhân của những hạn chế trên bao gồm nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan và các vướng mắc, tồn tại của pháp luật.

Về nguyên nhân khách quan, địa bàn các tỉnh Tây Nguyên rộng, với nhiều rừng núi hiểm trở, gây khó khăn trong việc triển khai cơng tác đấu tranh phịng, chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Bên cạnh đó, ý thức pháp luật và nhận thức của một bộ phận không nhỏ người dân trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên cũng góp phần gây khó khăn, hạn chế cho công tác đấu tranh đấu tranh phịng, chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Về nguyên nhân chủ quan, cũng không thể phủ nhận rằng vẫn cịn một bộ phận khơng nhỏ những cán bộ, công chức trong lực lượng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại có năng lực chuyên môn hạn chế. Đây cũng là nguyên nhân góp phần làm giảm hiệu quả áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.

Về những vướng mắc, hạn chế của pháp luật, thực tiễn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên cho thấy các biện pháp chế tài vẫn chưa đủ sức răn đe (hình thức phạt cảnh cáo chưa thực chất và chưa hiệu quả, hình thức phạt tiền quá nhẹ…); còn thiếu các chế tài đối với các hành vi phạm trên không gian mạng; việc phân định thẩm quyền chưa hợp lý dẫn đến thực trạng cán bộ trực tiếp xử lý khơng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong khi đó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh phải trực tiếp xử phạt vi phạm hành chính dẫn đến cơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

việc quá tải; còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật dẫn đến khó khăn, lúng túng trong áp dụng;

Như vậy, rất cần những nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại, trên cơ sở đó tìm ra những giải pháp nhằm hồn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại cũng như đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Ngun.

<i><b>Với các lý do đã trình bày trên tơi chọn đề tài “Trách nhiệm hành chínhtrong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Nguyên” để làm đề tài</b></i>

luận án tiến sĩ luật học.

<b>2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu</b>

<i><b>4.1. Về đối tượng nghiên cứu</b></i>

Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm

- Các quan điểm khoa học về vi phạm hành chính, trách nhiệm hành chính nói chung và trong lĩnh vực thương mại nói riêng.

- Các chủ trương, chính sách, pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở Việt Nam.

- Pháp luật luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở một số nước trên thế giới.

- Tình hình áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên.

<i><b>4.2. Về phạm vi nghiên cứu</b></i>

Đề tài tập trung nghiên cứu trách nhiệm hành chính và chế tài hành chính áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Đề tài tập trung nghiên cứu những nguyên tắc, tiêu chuẩn chi phối việc thiết lập và thực hiện thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

Trong phạm vi của luận án, khái niệm lĩnh vực thương mại cũng được tiếp cận theo nghĩa hẹp. Khái niệm lĩnh vực thương mại sẽ được nghiên cứu sinh làm sáng tỏ trong nội dung chính của luận án.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Về khơng gian, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn 05 tỉnh khu vực Tây Nguyên.

Thời gian nghiên cứu: từ năm 2010 đến năm 2023.

<b>3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể</b>

<i><b>3.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài</b></i>

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính và thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại tại các tỉnh Tây Nguyên, luận án đề xuất các giải pháp về hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Nguyên.

<i><b>3.2. Nhiệm vụ cụ thể của luận án</b></i>

Để đạt được mục tiêu trên, luận án phải giải quyết được các nhiệm vụ sau đây:

<b>Thứ nhất, luận án phải giải quyết được những vấn đề lý luận: Trên cơ sở</b>

kế thừa những vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính Luận án phải đưa ra được những nội dung sau: khái niệm và đặc điểm của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại; khái niệm, đặc điểm và vai trò của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; nội dung của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; nguyên tắc và phạm vi áp dụng của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; hình thức và trình tự, thủ tục áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

<b>Thứ hai, luận án phải giải quyết được những vấn đề về thực trạng áp</b>

dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên. Qua đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên luận án làm nổi bật được vấn đề sau: (1) Những vướng mắc, bất cập của các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; (2) Những khó khăn về khách quan cũng như chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>Thứ ba, luận án phải đề xuất được một số giải pháp nhằm hoàn thiện các</b>

quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.

<b>4. Phương pháp nghiên cứu</b>

Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về thương mại và xử lý vi phạm hành chính về hoạt động gian lận thương mại.

Để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận án là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh, đánh giá và làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu đặt ra từ đề tài.

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được diễn giải như sau:

(1)- Phương pháp phân tích tổng hợp: Nghiên cứu sinh thu thập thông tin, dữ liệu và phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá để đưa ra kết quả nghiên cứu. Phương pháp phân tích tổng hợp được nghiên cứu sinh sử dụng xuyên suốt từ chương 1 đến chương 4 của luận án.

(2)- Phương pháp so sánh luật học: Nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp so sánh luật học để nghiên cứu, so sánh pháp luật của Việt Nam về trách nhiệm hành chính nói chung, trong lĩnh vực thương mại nói riêng với pháp luật của một số nước về trách nhiệm hành chính nói chung, trong lĩnh vực thương mại nói riêng. Phương pháp so sánh chủ yếu được sử dụng tại chương 2 và 3 của luận án.

(3) – Phương pháp lịch sử: Nhiều vấn đề trong luận án, như sự hình thành và phát triển của trách nhiệm hành chính, chế tài hành chính được phân tích dưới khía cạnh lịch sử để làm rõ các yếu tố xã hội, lịch sử chi phối hệ thống chế tài hành chính. Để từ đó làm sáng tỏ những giá trị lịch sử của những chế tài nhất định, cũng như đánh giá tính phù hợp của những chế tài đó trong thời đại ngày nay. Phương pháp lịch sử được sử dụng tại chương 2, chương 3 và chương 4.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

(4)- Sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, đa ngành và liên ngành khoa học xã hội và nhân văn để làm sáng tỏ những vấn đề như cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của chế tài hành chính, mơ hình xử lý vi phạm hành chính, tính hiệu quả của từng loại chế tài hành chính. Phương pháp này được sử dụng để giải quyết các vấn đề tại chương 2, 3 và 4 của luận án.

(5) – Phương pháp thống kê, tổng hợp: Bằng phương pháp này, nghiên cứu sinh thu thập số liệu thống kê về tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở các tỉnh Tây Nguyên, tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn ở các tỉnh Tây Nguyên, từ đó, nghiên cứu sinh có cái nhìn đầy đủ và bao qt về thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở các tỉnh Tây Nguyên.

(6) – Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Bằng phương pháp này, nghiên cứu sinh đánh giá những điểm tiến bộ, những mặt cịn tồn tại cần phải được tiếp tục hồn thiện của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại thơng qua phân tích các tình huống thực tế.

Cách tiếp cận

<i>Tiếp cận hệ thống : phân tích trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực</i>

thương mại trong mối quan hệ mật thiết với vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại, điều kiện – kinh tế xã hội của Việt Nam, đặc điểm, văn hoá kinh doanh của người Việt Nam và các yếu tố khác.

<i>Tiếp cận liên ngành : có sự phối hợp của nhiều ngành khoa học xã hội nhân</i>

văn như khoa học lịch sử, xã hội học, chính trị học, luật học so sánh v.v...

<i>Tiếp cận lịch sử. Quan điểm lịch sử cụ thể được quán triệt trong quá trình</i>

nghiên cứu, đặc biệt việc xem xét mối quan hệ này qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Đồng thời khi phân tích đánh giá từng mặt của mối quan hệ này được quán triệt trong những bối cảnh lịch sử và những điều kiện cụ thể nhìn nhận dưới góc độ logic phát triển.

<b>5. Đóng góp và kết quả nghiên cứu</b>

<i><b>5.1. Những đóng góp mới của luận án</b></i>

Luận án có một số đóng góp sau:

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Trên cơ sở nhận thức chung về trách nhiệm hành chính, luận án góp phần hoàn chỉnh và lảm rõ nhận thức lý luận về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại, luận án đã đưa ra được một số vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại: khái niệm và đặc điểm của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại; khái niệm, đặc điểm và vai trò của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; nội dung của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; nguyên tắc và phạm vi áp dụng của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; hình thức và trình tự, thủ tục áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

Về mặt thực tiễn, luận án đã chỉ ra được những vướng mắc, hạn chế của các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Đồng thời, luận án cũng đã chỉ ra những khó khăn về mặt khách quan và chủ quan làm hạn chế tính hiệu quả trong cơng tác áp dụng các quy định pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Từ đó, luận án đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu pháp luật về trách nhiệm hành chính nói chung và trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại nói riêng. Luận án cũng có thể được các nhà làm luật tham khảo trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật.

<b>5. Kết quả của luận án</b>

Về mặt nội dung, luận án đạt được những kết quả sau:

<b>Thứ nhất, về góc độ lý luận, luận án làm sáng tỏ được khái niệm và đặc</b>

điểm của hành vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại; khái niệm, đặc điểm, vai trị của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; nội dung của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; nguyên tắc và phạm vi áp dụng của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; hình thức và trình tự, thủ tục áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Đặc biệt về mặt lý luận, luận án đưa ra được các chế tài hành chính phù hợp với thời đại 4.0, luận án đưa ra các tiêu chí đánh giá một hệ thống chế tài

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

chuẩn. Luận án cũng luận giải về mặt lý luận về ngun tắc suy đốn khơng có lỗi trong xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

<b>Thứ hai, dưới góc độ thực tiễn, luận án đạt được kết quả sau:</b>

Luận án chỉ ra và phân tích được những vướng mắc, bất cập của các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại; (2) Những khó khăn về khách quan cũng như chủ quan ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên.

Luận án đưa ra được những một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.

Về mặt hình thức, luận án là một cơng trình khoa học có độ dày 150 trang A4 với cấu trúc như sau:

Lời nói đầu

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề nghiên cứu liên quan đến luận án

Chương 2: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại

Chương 3: Thực trạng áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại tại các tỉnh Tây Nguyên

Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Nguyên

Kết luận

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>Chương 1</b>

<b>TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀNGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN</b>

<b>1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu</b>

<i><b>1.1.1. Tình hình nghiên cứu về khái niệm lĩnh vực thương mại</b></i>

Cho đến nay, khái niệm lĩnh vực thương mại đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, giải quyết. Có thể kể tên một số cơng trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại như: Trần Minh Trường (2016), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, Học viện Khoa học xã hội là một luận văn thạc sĩ luật học; Nguyễn Thị Dung (2006), Tự do hoá thương mại và vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động xúc tiến thương mại, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2006; Nguyễn Thị Hồng Hải (2017), Ngăn chặn gian lận thương mại quốc tế sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ hàng hố, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 255 (4/2017); PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch (2007), Phát triển thương mại Việt Nam sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 133/2007; TS. Nguyễn Hoàng Anh & CN Bùi Ngọc Toàn (2007), Hài hoà pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 133/2007; PGS.TSKH. Trần Nguyễn Tuyên (2007), Kinh tế Việt Nam trong bối cảnh gia nhập tổ chức thương mại thế giới, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 133/2007; TS. Nguyễn Văn Trung & Phương Xuân Thịnh (2008), Tác động của cải cách hành chính đến phát triển kinh tế - xã hội ở Trung Quốc, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 152 (9-2008); Ths. Hồ Trung Thành (2006), Phát triển thương mại và những vấn đề môi trường sinh thái ở nước ta, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 131/2006; TS. Nguyễn Thế Tràm (2006), Để doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển có hiệu quả trong q trình hội nhập thương mại quốc tế, Tạp chí quản lý nhà nước, số 128/2006; Phan Thảo Nguyên (2007), Vai trò quản lý nhà nước đối với thương mại dịch vụ trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2007; Phạm Chí Cường (2007), Quản lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

nhà nước đối với doanh nghiệp tư nhân khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, Tạp chí Kiểm sát, số 9 (5-2007); Trần Quỳnh Anh (2014), Thực trạng quản lý nhà nước về quảng cáo thương mại với mục tiêu hạn chế hành vi cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ người tiêu dùng, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Số 1/2014 và nhiều cơng trình khoa học khác.

Trong bài viết của Nguyễn Thị Dung (2006), Tự do hoá thương mại và vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động xúc tiến thương mại, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2006 đã khẳng định: “Tự do hoá thương mại là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động loại bỏ các cản trở hiện hành đối với thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ.” [15, 37]. Với cách tiếp cận này, tác giả Nguyễn Thị Dung cho rằng thương mại bao gồm cả thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ.

Các nhà kinh tế học thì quan niệm thương mại theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Trong bài viết: Nguyễn Thanh Nga (2008), Nhìn lại những bước cải cách hành chính trong lĩnh vực thương , Tạp chí Cộng sản, số 783 (tháng 01/2008), tác giả Nguyễn Thanh Nga đã tiếp cận khái niệm lĩnh vực thương mại theo nghĩa rộng bao gồm các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước, kinh doanh ngoại thương, hoạt động ngoại hối và các hoạt động khác.

Trong khi đó, tác giả Chu Thanh Hải trong bài viết Phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại tỉnh Phú Thọ, Tạp chí Kinh tế và quản lý, số 17 (1-2016) lại tiếp cận lĩnh vực thương mại theo nghĩa hẹp. Theo đó lĩnh vực thương mại được đề cập trong bài viết của tác giả chỉ bao gồm hoạt động mua bán hàng hoá (bán lẻ, xuất nhập khẩu), cung ứng dịch vụ tiêu dùng xã hội.

Như vậy, cho đến nay khái niệm “lĩnh vực thương mại” vẫn chưa được thống nhất. Liên quan đến xử lý vi phạm hành chính, vấn đề làm sáng tỏ khái niệm “lĩnh vực thương mại” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, cũng như thiết kế hệ thống cơ quan và người có thẩm quyền trong xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i><b>1.1.2. Tình hình nghiên cứu về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vựcthương mại</b></i>

<i>1.1.2.1. Các nghiên cứu lý luận về trách nhiệm hành chính</i>

<i>a) Nghiên cứu về vi phạm hành chính. Vi phạm hành chính được nhiều</i>

nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu và lý giải. Về cơ bản, các nhà khoa học đã làm rõ được khái niệm vi phạm hành chính, các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính. Giáo trình: Đại học học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật hành chính, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân, Hà Nội và Giáo trình: Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội đặt những nền tảng lý luận về hành vi vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, đã có nhiều cơng trình khoa nghiên cứu về hành vi vi phạm hành chính, như Trần Minh Trường (2016), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, Học viện Khoa học xã hội; Trần Thế Vinh (2012), Bình luận Luật xử lý vi phạm hành chính và chỉ dẫn áp dụng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong mọi lĩnh vực, Nhà xuất bản Lao động và nhiều cơng trình khác. Cuốn sách: PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, tập 1, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, khẳng định: “Để được coi là VPHC thì hành vi trái pháp luật về quản lý nhà nước phải có đủ yếu tố của cấu thành VPHC gồm: mặt khách quan, mặt chủ quan, khách thể vi phạm, chủ thể vi phạm qua đó xác định người thực hiện hành vi có phải chịu trách nhiệm hành chính hay không và tương ứng với quy định nào.” [35, 50]

Trong bài viết Nguyễn Cảnh Hợp (2020), Trách nhiệm hành chính: Từ lý luận đến thực tiễn lập pháp ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam số 03/2020, tác giả Nguyễn Cảnh Hợp cũng đã định nghĩa về vi phạm hành chính.

Tuy nhiên, cho đến này chưa có các cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại nhằm chỉ rõ bản chất, tính đặc trưng của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Ở phạm vi quốc tế, có một số cơng trình nghiên cứu về hành vi thương mại không lành mạnh, như: Bài viết: Damien Geradin and David Henry (2005), The EC fining policy for violations of competition law: an empirical review of the commission decisional practice and the economy courts’ judgments, European Competition journal, Vol.I, No. 2; Edward P. Belobaba (1977), Unfair trade practices legislation: symbolysim and substance in consumer protection, Osgoode Hall Law Journal, Vol. 15, No. 02; Matthew W. Sawchak & Kip D. Nelson (2012), Defining unfairness in “unfair trade practices”, North Carolina Law Review và nhiều cơng trình khác. Tuy nhiên, các cơng trình này chưa chỉ rõ được liệu rằng hành vi thương mại khơng lành mạnh có phải là hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại khơng? Hành vi hành chính trong lĩnh vực thương mại có những đặc trưng gì?

<i>b) Nghiên cứu về chế tài hành chính. Trước tiên, cơ sở khoa học và cơ sở</i>

hiến pháp của chế tài hành chính đã được các tác giả nước ngoài nỗ lực lý giải. Tác phẩm: Comino, V, 'Civil or Criminal Penalties for Corporate Misconduct: Which Way Ahead?' (2006) 34 (6) Australian Business Law Review 428-446, đã phân tích cơ sở khoa học của sự tồn tại của chế tài hành chính: Thủ tục tố tụng hình sự phức tạp, rườm rà, mất nhiều thời gian, đối với các vi phạm hành chính có liên quan đến nhiều chủ thể, nhiều hành vi vi phạm cùng xảy ra,…thì việc xử lý bằng con đường hình sự trở nên khó khăn, phức tạp và kém hiệu quả. [125, 4] Bài viết Vicky Comino (2014), James Hardie and the Problems of the Australian Civil Penalties Regime, UNSW Law Journal, Volume 37(1) đã nghiên cứu lịch sử hình thành hình thức phạt hành chính (civil penalties) ở Úc. Cơ sở của việc hình thành hình thức phạt hành chính là do việc tn thủ sẽ hiệu quả nếu hệ thống chế tài được thiết kế theo hình chóp, tính nghiêm khắc của các biện pháp chế tài sẽ được xác định trên cơ sở tính nghiêm trọng của hành vi vi phạm, chế tài nghiêm khắc nhất ở trên chóp, theo đó chế tài hình sự chỉ nên áp dụng đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng hoặc có tính thường xuyên. Hơn nữa thủ tục áp dụng chế tài hành chính ít phức tạp và mất ít thời gian hơn tố tụng hình sự. Vì vậy, chế tài hành chính được đề xuất đưa vào pháp luật của Úc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

P. Cacaud, M. Kuruc & M. Spreij (2003), Administrative Sanctions in Fisheries Law, Food and Agriculture Organization of the United States, Rome 2003, http://www fao.org/docrep/006/Y5063E/y5063e00.htm#Contents nghiên cứu thực tiễn ở Hoa Kỳ và Pháp để tìm ra cơ sở hiến pháp của việc áp dụng chế tài hành chính bởi cơ quan hành chính. Theo đó, Tồ án tối cao liên bang Hoa Kỳ thừa nhận cơ quan hành chính có quyền lực bán lập pháp và quyền lực bán tư pháp để thực hiện chức năng hành pháp. Ở Pháp, vào năm 1989, Hội đồng Hiến pháp xem xét việc cơ quan hành chính có quyền áp dụng chế tài hành chính. Hội đồng Hiến pháp đánh giá rằng việc cơ quan hành chính áp dụng chế tài hành chính đối với người vi phạm không trái nguyên tắc phân quyền nếu như là cơ quan hành chính độc lập và thực hiện trong phạm vi thẩm quyền. Sau đó, Hội đồng Hiến pháp mở rộng phạm vi trao một phần quyền tư pháp cho cơ quan hành chính trong việc duy trì trật tự hành chính với hai giới hạn: Một là, cơ quan hành chính khơng được phép áp dụng chế tài tước quyền tự do (giam giữ). Hai là, việc áp dụng chế tài hành chính khơng được dẫn đến xâm phạm hoặc hạn chế quyền và tự do mang tính hiến định.

<b>Về các loại chế tài hành chính: Các loại chế tài hành chính cụ thể được</b>

rất nhiều cơng trình khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. Ở nước ngồi, có thể kể một số cơng trình như: Herwig C. H. Hofmann, Gerard C. Rowe, Alexander H. Türk (2011), Administrative Law and Policy of the European Union, Oxford University Press đề cập đến các chế tài hành chính mà các thành viên của EU sử dụng; Office of the Secretary (2005), An Introduction to Administrative Proectective Order Practice in Import injury Investigation, Publication No. 3755, United States International Trade Commision nghiên cứu về các chế tài hành chính đối với hành vi phạm lệnh hành chính nhằm bảo vệ thông tin mật trong quá trình điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp.

Ở Việt Nam, cuốn sách: TS. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia chia chế tài hành chính thành chế tài phạt và chế tài khơi phục hành chính.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Nhìn chung, các cơng trình khoa học trong và ngồi nước đều đã chỉ ra được những chế tài hành chính chủ yếu như phạt tiền, tước giấy phép, cấm thực hiện một số hành vi, các biện pháp khắc phục hậu quả,...

Cho đến nay, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu tịan diện và đầy đủ về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Phần lớn các nhà khoa học chỉ nghiên cứu trách nhiệm hành chính hoặc chế tài hành chính hoặc xử lý vi phạm hành chính đối với một số hoạt động cụ thể trong lĩnh vực thương mại. Cũng đã có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, như: Trần Mạnh Hùng (2012), Trách nhiệm hành chính đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại qua thực tiễn tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sỹ học, Học viện Khoa học xã hội; Trần Minh Trường (2016), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, Học viện Khoa học xã hội. Các nghiên cứu ở cấp độ thạc sĩ luật học, mặc dù đã nỗ lực khảo cứu pháp luật thực định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, nhưng các vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại mới được nghiên cứu và giải quyết ở mức cơ bản.

Một bài viết khác của Lê Hương Giang (2014), Thực trạng quản lí nhà nước đối với hoạt động quảng cáo thương mại trên truyền hình tại Việt Nam, Tạp chí Luật học số 8/2014 cũng có những nghiên cứu về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm trong quảng cáo thương mại trên truyền hình. Đối với việc xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động quảng cáo, có sự tham gia của nhiều cơ quan quản lý. Tác giả chỉ ra: Sự chồng chéo này dẫn đến một hành vi vi phạm xảy ra trên thực tế có thể bị xử phạt theo nhiều quy định khác nhau của nhiều Nghị định. [26, 8]

Bài viết: Nguyễn Như Chính (2014), Quy định về kiểm tra, giám sát và xử lí vi phạm trong hoạt động quảng cáo thương mại – thực trạng và hướng hồn thiện, Tạp chí Luật học số 11/2014 cũng có nghiên cứu một số khía cạnh về xử phạt hành chính trong hoạt động quảng cáo thương mại. Trên thực tế, việc xử lý vi phạm hành chính đối với hoạt động quảng cáo thương mại được

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

áp dụng theo các quy định trong lĩnh vực quảng cáo. Tác giả cũng khẳng định rằng việc phân định thẩm quyền như này dẫn đến sự trùng lắp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan.

Các nhà khoa học nước ngoài cũng chỉ nghiên cứu vấn đề chế tài hành chính trong những hoạt động cụ thể trong lĩnh vực thương mại. Ví dụ, Comino, V, 'Civil or Criminal Penalties for Corporate Misconduct: Which Way Ahead?' (2006) 34 (6) Australian Business Law Review 428-446 chỉ tập trung nghiên cứu xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm của công ty. Anthony Ogus, Michael Faure & Niels Philipsen (2006), Report on the Effectiveness of Enforceability Regimes, OECD/OCDE 2006 nghiên cứu xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng. Qua nghiên cứu, các tác giả chỉ ra rằng, mức phạt tiền được xác định trên cơ sở bản chất của vi phạm và hoàn cảnh của thương nhân, là biện pháp hiệu quả nhất về chi phí. Tuy nhiên, các tác giả cũng chỉ ra rằng, trong những hoàn cảnh nhất định, khi mà phạt tiền khơng phù hợp cho mục đích phịng ngừa, thì khả năng tn thủ có thể được nâng cao bằng lệnh buộc bồi thường, lệnh bù đắp chi phí hành chính, hoặc lệnh thu hồi lợi nhuận, hoặc áp dụng hình thức phê bình (naming and shaming). [123, 19]

Trong những trường hợp nghiêm trọng thì giam giữ, cũng như đình chỉ hoặc huỷ bỏ giấy phép kinh doanh cũng là biện pháp hiệu quả về chi phí. Như vậy, các tác giả đã chỉ ra một số chế tài hành chính phù hợp với hoạt động kinh doanh thương mại có liên quan đến quyền lợi của người tiêu dùng.

Bài viết: Michiel Luchtman & John Vervaele, Enforcing the Market Abuse Regime: Towards an Integrated Model of Criminal and Administrative Law Enforcement in the European Uninion? New Journal of European Criminal Law, Vol. 5, Issue 2, 2014 đề cập đến cơ chế xử lý hành vi thao túng thị trường ở EU. Theo nghiên cứu của các tác giả, cơ chế xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi thao túng thị trường được đưa vào cấp độ EU và yêu cầu các quốc gia thành viên áp dụng các chế tài có tính chất phạt và chế tài khơng có tính chất phạt nhằm ngăn ngừa vi phạm. Về cơ quan thực thi, ở mỗi

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

quốc gia sẽ có cơ quan thực thi riêng, ở cấp EU có Uỷ ban Chứng khốn và Thị trường Châu Âu.

<i>c) Nghiên cứu về trách nhiệm hành chính. Trách nhiệm hành chính và</i>

chế tài hành chính là hai khái niệm gắn bó hữu cơ với nhau. Vấn đề trách nhiệm hành chính chủ yếu được các tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu trên cơ sở các chế tài hành chính. Có thể kể một số tác phẩm tiêu biểu như: Đại học học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật hành chính, Nhà xuất bản Cơng an nhân dân, Hà Nội; Phạm Hồng Thái, Đinh Văn Mậu (2009), Luật hành chính Việt Nam, NXB Giao thông vận tải; TS. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và nhiều cơng trình khác. Các tác phẩm của nước ngồi về trách nhiệm hành

<i>chính và chế tài hành chính gồm: Pat O’Malley (2010), Fines, Risks and </i>

<i>Damages: Money Sanctions and Justice in Control Societies, Current Issues in Criminal Justice, Volume 21 Number 3; The Hon Justice James Barry </i>

(2000), Civil and Administrative Penalties, On the Bench: Perspectives on Judging, Issue 77 2000; de Moor-van Vugt, Adrienne, Administrative

atSSRN: https :// ssrn.com/abstract=1992922 or 1992922 và nhiều cơng trình khác. Ở cấp độ thạc sĩ luật học thì có một số luận văn sau: Bùi Tiến Đạt (2008), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: Lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội; Trần Mạnh Hùng (2012), Trách nhiệm hành chính đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại qua thực tiễn tỉnh Lạng Sơn, Luận văn thạc sỹ học, Học viện Khoa học xã hội; Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật và một số luận văn khác. Qua nghiên cứu, nghiên cứu sinh nhận thấy các tác phẩm đã được những kết quả nghiên cứu như sau liên quan đến trách nhiệm hành chính và chế tài hành chính.

<b>Khái niệm trách nhiệm hành chính: Bài viết: PGS.TS. Vũ Thư (2010), </b>

Những vấn đề cơ bản trong hoàn thiện chế định trách nhiệm pháp lý hành

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

chính Việt Nam hiện nay, Hội thảo quốc tế “Xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam”, Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển là bài viết chuyên sâu về trách nhiệm hành chính. Trong cơng trình của mình, tác giả đã chỉ ra đặc điểm của trách nhiệm hành chính, đó là (1) được áp dụng trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước; (2) gây cho người vi phạm sự bất lợi nhất định, nhưng so với chế tài hình sự, nó có độ nghiêm khắc thấp hơn rất nhiều; và (3) trong chế tài hành chính cũng có các chế tài có tính chất khơi phục. Luận văn thạc sĩ luật học của Phan Thị Thu Thuỷ (2017), Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực văn hố từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Khoa học xã hội định nghĩa: “TNHC là hậu quả mà cá nhân hay tổ chức vi phạm phải gánh chịu trước nhà nước và truy cứu TNHC là việc người có thẩm quyền buộc thực hiện những hoạt động cần thiết theo quy định của pháp luật để buộc cá nhân, tổ chức VPHC phải gánh hậu quả bất lợi đó.” [64, 7].

Nghiên cứu mối quan hệ giữa trách nhiệm hành chính và chế tài hành chính,nhiều cơng trình đã làm sáng tỏ khái niệm trách nhiệm hành chính và mối quan hệ giữa trách nhiệm hành chính với chế tài hành chính. Cuốn sách: TS. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia là một trong những cơng trình nghiên cứu cơng phu về chế tài hành chính đã chỉ ra: “Chế tài chính được biểu hiện một cách rõ nét trong đời sống pháp lý bằng cách chuyển thành trách nhiệm. Và trách nhiệm là sự áp dụng, thực hiện chế tài.” [60, 60]. Tác giả khẳng định: “Chế tài hành chính được thể hiện trong thực tế thơng qua chế định trách nhiệm hành chính, mỗi khi có vi phạm hành chính xảy ra.” [60, 63]. Luận văn thạc sĩ luật học của Phan Thị Thu Thuỷ (2017), Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực văn hố từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Khoa học xã hội cũng chỉ ra rằng: “Việc thực hiện biện pháp chế tài của các tổ chức, cá nhân VPHC là trách nhiệm của họ trước nhà nước chứ phải trước chủ thể khác.” [64, 8] PGS. TS. Nguyễn Cảnh Hợp cho rằng chế tài hành chính là hình thức biểu hiện của trách nhiệm hành chính. [37, 3]

Một tác giả nước ngồi cũng có những nghiên cứu về mối quan hệ giữa trách nhiệm hành chính và chế tài hành chính (The Hon Justice James Barry

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

(2000), Civil and Administrative Penalties, On the Bench: Perspectives on Judging, Issue 77 2000). Theo tác giả thì trách nhiệm hành chính ở đây được hiểu là hậu quả mà người vi phạm phải gánh chịu chế tài hành chính. Tác giả có một phát hiện rất có giá trị rằng việc gánh chịu chế tài hành chính là một trách nhiệm tuyệt đối. Tác giả cũng chỉ ra rằng chức năng của hình thức xử phạt vi phạm hành chính là địi hỏi cộng đồng phải tuân thủ và hợp tác trong bảo vệ lợi ích công như môi trường, bảo vệ người tiêu dùng và phải kịp thời xử lý được những vấn đề đa dạng phát sinh trên thị trường.

<i>d) Nghiên cứu về thủ tục xử lý vi phạm hành chính</i>

<b>Những nghiên cứu về quy trình xử lý vi phạm hành chính: Trước hết,</b>

xử lý vi phạm hành chính là thủ tục tư pháp hay thủ tục hành chính có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà khoa học trong nước và ngoài nước. TS. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia theo hướng ủng hộ việc giao thẩm quyền “xét xử vi phạm hành chính” cho cơ quan hành chính vì các lý do sau: (1) xuất phát từ nhu cầu quản lý Nhà nước và đấu tranh có hiệu quả với vi phạm hành chính; (2) vi phạm hành chính rất đa dạng, do đó, địi hỏi cơ quan xử lý khơng những có hiểu biết pháp lý mà còn phải am hiểu sâu sắc lĩnh vực quản lý. [60, 171] The Hon Justice James Barry (2000), Civil and Administrative Penalties, On the Bench: Perspectives on Judging, Issue 77 2000 cũng cho rằng khơng cần thiết có sự tham gia của tồ án mà chỉ cần có sự tham gia của cơ quan hành chính nhà nước. [146, 52]. Một tác giả khác cũng cho rằng việc tồ án có xu hướng sử dụng quy tắc tố tụng hình sự để giải quyết vi phạm hành chính làm giảm hiệu quả và vai trị của hình thức xử phạt vi phạm hành chính. [147, 228].TS. Trần Thị Hiền cũng cho rằng: “Vi phạm hành chính là loại vi phạm xảy ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi lúc, mọi nơi. Do đó, pháp luật khơng thể qui định cho một cơ quan hoặc một cơ quan nhất định có thẩm quyền chuyên trách thực hiện nhiệm vụ xử phạt vi phạm hành chính.” [34, 11].

Ngược lại với các quan điểm trên, có một số tác giả ủng hộ tư pháp hoá xử lý vi phạm hành chính. Trong bài viết Nguyễn Đăng Dung (2011), Về pháp luật xử lý hành chính của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 20/2011, GS.

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Nguyễn Đăng Dung ủng hộ tư pháp hố xử lý vi phạm hành chính. Ths. Đặng Thanh Sơn (2010), Những hạn chế của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và phương hướng hồn thiện, Hội thảo quốc tế “Xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam”, Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển quan điểm “tư pháp hoá” việc xử lý vi phạm hành chính rất đáng chú ý. Tác giả cho rằng: “.. chỉ giao một số lượng vụ vi phạm hành chính (loại VPHC) thuộc loại vi cảnh ... cho cơ quan hành chính (chủ yếu là lực lượng CSND) tiến hành xử phạt, còn lại các loại VPHC khác sau khi tiến hành thủ tục cần thiết chuyển cơ quan toà án giải quyết.” [51, 23].

Các nghiên cứu thực tế cho thấy, việc áp dụng mơ hình tố tụng hình sự hay mơ hình hành chính là tuỳ thuộc vào quan điểm mỗi quốc gia. Theo kết quả nghiên cứu của Anthony Ogus, Michael Faure & Niels Philipsen (2006), Report on the Effectiveness of Enforceability Regimes, OECD/OCDE 2006 thì Anh là quốc gia sử dụng tố tụng hình sự để xử lý vi phạm quy chế quản lý bảo vệ người tiêu dùng, trong khi đó, Úc lại sử dụng chế tài hành chính (civil penalties), Bỉ là quốc gia áp dụng cơ chế các cơ quan hành chính trực tiếp xử lý vi phạm qui chế bảo vệ người tiêu dùng. Trong khi đó Hà Lan lại theo cơ chế tự quản.

Theo nghiên cứu của Vicky Comino (2014), James Hardie and the Problems of the Australian Civil Penalties Regime, UNSW Law Journal, Volume 37(1) thì việc xác định thủ tục xử lý vi phạm hành chính là vấn đề có nhiều vướng mắc ở Úc khi mà việc xác định thủ tục xử lý theo thủ tục dân sự hay hình sự là một vấn đề hết sức nhạy cảm.

Về qui trình xử lý vi phạm hành chính phải tuân theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn nào, các tác giả cũng nhiều quan điểm đa dạng. The Hon Justice James Barry (2000), Civil and Administrative Penalties, On the Bench: Perspectives on Judging, Issue 77 2000, cho rằng có nhiều yếu tố để xác định quy trình xử lý có cần thiết phải chặt chẽ như tố tụng hình sự hay khơng? Đó là bản chất của hành vi vi phạm, sự sẵn có của nguồn lực, đánh giá rủi ro quản lý và quan trọng nhất là tính kịp thời trong xử lý. Tác giả có một phát hiện rất có giá trị rằng việc gánh chịu chế tài hành chính là một trách nhiệm tuyệt đối.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Tác giả cũng chỉ ra rằng chức năng của hình thức xử phạt vi phạm hành chính là địi hỏi cộng đồng phải tuân thủ và hợp tác trong bảo vệ lợi ích cơng. Vì vậy, ngun tắc chứng minh và quy trình tố tụng thích hợp sẽ được xem xét ở mức độ hợp lý nhưng sẽ không đến mức chặt chẽ như tố tụng hình sự. Tác giả nhận định việc áp dụng chế tài hành chính cần thiết phải được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, cơng khai và có trách nhiệm giải trình. Tuy nhiên cách tiếp cận về công bằng và trách nhiệm giải trình sẽ phụ thuộc vào từng lĩnh vực quản lý nhà nước.

Cơng trình khoa học: P. Cacaud, M. Kuruc & M. Spreij (2003), Administrative Sanctions in Fisheries Law, Food and Agriculture Organization of the United States, Rome 2003, đi sâu vào nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản của quy trình xử lý vi phạm hành chính:

- Nguyên tắc thủ tục thích hợp: Theo các tác giả nguyên tắc này đòi hỏi thủ tục xử lý vi phạm hành chính phải có thủ tục thông báo và điều trần (hearing).

- Nguyên tắc cấy ghép một số nguyên tắc trong tố tụng hình sự vào thủ tục xử lý vi phạm hành chính: Về cơ bản, một số nguyên tắc tố tụng hình sự bảo đảm quyền hiến định được đưa vào quy trình xử lý vi phạm hành chính ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, khơng phải tồn bộ các nguyên tắc của tố tụng hình sự đều được cấy ghép vào thủ tục xử lý vi phạm hành chính.

Trong khi đó Michiel Luchtman & John Vervaele, Enforcing the Market Abuse Regime: Towards an Integrated Model of Criminal and Administrative Law Enforcement in the European Uninion? New Journal of European Criminal Law, Vol. 5, Issue 2, 2014 đưa ra quan điểm: Trong quá trình xử lý vi phạm, cơ quan thực thi có quyền tiếp cận thông tin, khám xét nơi ở, nơi làm việc, thu thập thông tin từ điện thoại, phương tiện liên lạc, từ ngân hàng, định chế tài chính, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thơng...Vì quyền tiếp cận thông tin của cơ quan thực thi đối kháng với quyền riêng tư, nên quy trình điều tra được áp dụng như mơ hình điều tra tội phạm.

Office of the Secretary (2005), An Introduction to Administrative Proectective Order Practice in Import injury Investigation, Publication No.

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

3755, United States International Trade Commision đề cập đến thủ tục thi hành quyết định xử phạt hành chính. Theo đó, nếu người bị xử phạt khơng thi hành quyết định xử phạt thì cơ quan hành chính sẽ đề nghị tồ án ra lệnh thi hành quyết định này.

Như vậy, quy trình xử lý vi phạm hành chính là thủ tục hành chính hay là thủ tục tư pháp vẫn đang là vấn đề được tranh luận gay gắt và cần phải được tiếp tục làm sáng tỏ.

<b>Những nghiên cứu về nghĩa vụ chứng minh trong thủ tục xử lý viphạm hành chính: Về nghĩa vụ chứng minh, PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp (chủ</b>

biên) (2015), Bình luận khoa học Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, tập 1, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh có xu hướng địi hỏi ngun tắc “suy đốn khơng có lỗi” trong xử lý vi phạm hành chính thơng qua việc cho rằng Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hạn chế như Luật xử lý vi phạm hành chính khơng quy định ngun tắc “suy đốn khơng có lỗi”. Ngược lại, Trần Sơn Hà (2010), Việc thực hiện Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ - những bất cập cần giải quyết, Hội thảo quốc tế “Xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam”, Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển lại cho rằng: “Bản chất của pháp luật hành chính là luật bất bình đẳng giữa cơ quan có thẩm quyền xử phạt (...) bằng mệnh lệnh và quyền uy với tổ chức và cá nhân vi phạm..., vì vậy trong mọi trường hợp xử phạt vi phạm hành chính khơng cần phải lập biên bản, người làm chứng hoặc phải củng cố chứng cứ nhiều thủ tục.” [27, 4].

Kết quả nghiên cứu của Vicky Comino (2014), James Hardie and the Problems of the Australian Civil Penalties Regime, UNSW Law Journal, Volume 37(1) cho thấy: nguyên tắc chứng minh cũng được áp dụng rất linh hoạt ở Úc mà khơng có một ngun tắc cố định. Đối với các vụ việc xử lý vi phạm hành chính đơn giản, tồ án áp dụng ngun tắc chứng minh trong dân sự, nhưng đối với vụ việc xử lý vi phạm hành chính nghiêm trọng, thì tồ án lại có xu hướng áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, Comino, V, 'Civil or Criminal Penalties for Corporate Misconduct: Which Way Ahead?' (2006) 34 (6) Australian Business Law Review 428-446

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

lại cho rằng việc áp dụng ngun tắc “suy đốn khơng có lỗi” (beyond the reasonable doubt) cũng là một thách thức lớn đối với cơ quan xử lý vi phạm. Trong bài viết de Moor-van Vugt, Adrienne, Administrative Sanctions in

atSSRN: or 1992922, tác giả thì tiêu chuẩn về nghĩa vụ chứng minh (nguyên tắc suy đoán khơng có lỗi) khơng được áp dụng trong luật hành chính của EU. Theo đó, trách nhiệm hành chính là trách nhiệm tuyệt đối. Cơ quan xử lý chỉ có nghĩa vụ chứng minh người bị xử lý thực hiện hành vi vi phạm và áp dụng chế tài mà không quan trọng mức độ vi phạm (culpability). Tuy nhiên, trong qúa trình xử lý vi phạm, quyền bào chữa của người bị xử lý phải được bảo đảm mà không quan trọng biện pháp chế tài áp dụng là hình thức xử phạt hay là biện pháp khác. Theo nghiên cứu của tác giả thì: Trong luật hành chính, một ngun tắc chung là cá nhân hoặc cơng ty có nghĩa vụ hợp tác trong công tác thanh tra, điều tra, trả lời câu hỏi, cung cấp tài liệu,... Tác giả cũng chỉ ra án lệ Châu Âu có xu hướng coi trọng nghĩa vụ hợp tác của đương sự và không cho rằng quyền từ chối cung cấp thông tin của đương sự là quyền tuyệt đối. Đương sự không bắt buộc phải trả lời theo xu hướng cáo buộc chính mình nhưng họ phải trả lời và cung cấp thông tin trung thực mặc dù thông tin này là chứng cứ truy cứu trách nhiệm hành chính của đương sự. Về quyền khám xét nơi làm việc, chỗ ở thì hiện nay ở EU chưa có sự thống nhất. Cơ quan xử lý có quyền khám xét nơi làm việc, chỗ ở nhưng phải tuân thủ những thủ tục chặt chẽ, 10/15 thành viên của EU địi hỏi phải có sự phê chuẩn của toà án để khám xét, nơi làm việc hoặc chỗ ở.

Cho đến nay, cũng khơng có nhiều cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Các cơng trình được khảo cứu cũng không chỉ ra những nét đặc thù trong thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

<i>1.1.2.2. Tình hình nghiên cứu về thực tiễn trách nhiệm hành chính tronglĩnh vực thương mại</i>

Về thực trạng các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính ở Việt nam thì cũng đã có nhiều cơng trình khoa học đề cập đến. Các cơng trình

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

đó bao gồm: PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, tập 1, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; Đỗ Hoàng Yến (2007), “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và việc xây dựng Bộ luật Xử lý vi phạm hành chính”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2007; TS. Lương Minh Tuân, Viện

<i>Nghiên cứu lập pháp (2011), Thực trạng và kiến nghị góp phần hồn thiện</i>

<i>pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Báo cáo khoa học, Đề tài Xử phạt</i>

hành chính, Hà NộI; Trần Minh Trường (2016), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, Học viện Khoa học xã hội; Nguyễn Thanh (2009), Vướng mắc trong việc tạm giữ phương tiện, tang vật vi phạm hành chính, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 12/2009; Lê Thị Minh Thư và Lê Ngô Thảo Tiên (2021), Một số ý kiến về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng giả, Tạp chí Cơng Thương, số 23/2021, Huỳnh Văn Trung (2021), Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 05/2021, và nhiều cơng trình khoa học khác đã nghiên cứu và chỉ ra những điểm hợp lý, bất hợp lý của pháp luật hiện hành về vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính.

Khi bình luận các quy định của pháp luật về chế tài hành chính trong Luật xử lý vi phạm hành chính, các tác giả của cuốn sách: PGS.TS. Nguyễn Cảnh Hợp (chủ biên) (2015), Bình luận khoa học Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, tập 1, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, đã có nhiều bình luận rất lý thú. Các tác giả cũng nhận định rằng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu xử lý nghiêm minh, chưa đáp ứng hiệu quả xử phạt và cịn ít tác dụng răn đe, giáo dục. [35, 177]

Lê Thị Minh Thư và Lê Ngô Thảo Tiên (2021), Một số ý kiến về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán hàng giả, Tạp chí Cơng Thương, số 23/2021 đánh giá mức xử phạt hành chính quá thấp so với khoản lợi bất chính thu được từ hành vi bn bán hàng giả. [58, 64].

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Huỳnh Văn Trung (2021), Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 05/2021 đã chỉ ra những bất hợp lý về các quy định hiện hành liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu: (1) chưa xác định rõ ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm; (2) chưa xác định rõ trường hợp nào thì tịch thu, trường hợp nào thì tiêu huỷ thuốc lá điếu nhập lậu.

Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại của các tỉnh Tây Nguyên. Luận văn thạc sĩ: Trần Minh Trường (2016), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, Học viện Khoa học xã hội mới nghiên cứu về tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở tỉnh Gia Lai.

Từ những vấn đề lý luận về các yếu tố tác động đến hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, tác giả phân tích những yếu tố tác động đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở Gia Lai. Những yếu tố đó là: Gia Lai là tỉnh nghèo, quy mơ kinh tế nhỏ, thu nhập bình quân đầu người thấp; tình hình bn lậu, gian lận thương mại ở Gia Lai diễn biến phức tạp, nhiều cán bộ bị mua chuộc, lơi kéo, bên cạnh đó tình hình chính trị ở Gia Lai cũng tương đối phức tạp, khi bọn phản động không ngừng hoạt động, lôi kéo một bộ phận dân chúng chống phá chính quyền; bọn bn lậu, gian lận thương mại lôi kéo một bộ phận không nhỏ người dân ở vùng biên giới tham gia hoạt động buôn lậu, tàng trữ, vận chuyển hàng lậu, tâm lý thích mua hàng giá rẻ của người tiêu dùng, lực lượng chức năng mỏng.

Về thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn tỉnh Gia Lai, tác giả cũng đã chỉ ra những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và nguyên nhân. Tác giả đã chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong xử lý hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, trong đó đáng chú ý là tác giả đã chỉ ra một số điểm bất cập của pháp luật hiện hành. Lực lượng quản lý thị trường đóng vai trị nịng cốt trong kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Tuy nhiên, thẩm

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

quyền của lực lượng này vẫn còn bị hạn chế bởi pháp luật gây khó khăn cho cơng tác xử lý vi phạm trên thực tiễn. Tác giả chỉ ra rằng pháp luật hiện hành không quy định “thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với lực lượng quản lý thị trường tại Điều 11 hành vi vi phạm quy định về đăng ký giá, kê khai giá hàng hoá, dịch vụ và hành vi vi phạm quy định về sử dụng hoá đơn khi bán hàng hố, dịch vụ.” [69, 56]. Ngồi ra, tác giả cũng đã chỉ ra những yếu tố khách quan làm giảm hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên thực tiễn như lực lượng có thẻ kiểm tra thị trường cịn mỏng, tâm lý người tiêu dùng ưa hàng giá rẻ, mẫu mã đẹp,....

<i>1.1.2.3. Các nghiên cứu về giải pháp đổi mới, hoàn thiện pháp luật và ápdụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại</i>

Đã có rất nhiều cơng trình khoa học đưa ra những kiến nghị nhằm hồn thiện các quy định về chế tài hành chính ở Việt Nam. Cuốn sách: TS. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đưa ra những đề xuất rất đáng lưu ý sau: (1) khơng áp dụng hình thức cảnh cáo đối với tổ chức; (2) bảo đảm tính liên tục từ chế tài hành chính đến chế tài hình sự một cách hài hồ. Đồng thời tác giả khẳng định rằng phạt tiền là biện pháp cưỡng chế phục vụ cho hoạt động quản lý hành chính, không nên đặt ra mức phạt quá cao.” [60, 124]; (3) khơi phục lại hai hình thức phạt lao động cơng ích và giam hành chính là cần thiết và có cơ sở; (4) đề cao vai trị của các biện pháp có tính chất xã hội hố ngồi trách nhiệm hành chính, như giáo dục, tổ chức. TS. Trần Thị Hiền (2010), Hình thức, thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính, Những hạn chế của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và phương hướng hoàn thiện, Hội thảo quốc tế “Xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam”, Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển đề xuất: (1) thông báo việc xử phạt cảnh cáo về cơ quan, đơn vị công tác của cán bộ, công chức, viên chức vi phạm hoặc nơi cư trú của những cá nhân vi phạm mà không phải là cán bộ, công chức, viên chức. [34, 5]; (2) bổ sung thêm hình thức xử phạt hành chính bao gồm buộc lao động phục vụ cộng đồng, đình chỉ hoạt động có thời hạn và buộc học tập các quy định pháp luật có liên quan đến vi phạm. PGS.TS. Bùi Xuân Đức (2010), Hệ thống chế tài

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

xử phạt vi phạm hành chính: thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Hội thảo quốc tế “Xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam”, Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển đưa ra một số đề xuất hoàn thiện, bao gồm: (1) mở rộng hệ thống các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; (2) phân định lại tính chất và cách áp dụng các hình thức xử phạt; (3) quy định thống nhất các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả, phạm vi và điều kiện áp dụng chúng vào một văn bản luật (pháp lệnh, bộ luật), tránh tình trạng quy định rời rạc, trùng lắp trong các nghị định của Chính phủ như hiện nay.

Các cơng trình khoa học đã công bố cũng đã nỗ lực đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm hành chính. Ví dụ, Phan Thị Thu Thuỷ (2017), Trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực văn hố từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Khoa học xã hội đề xuất trao cho kiểm soát viên thị trường thẩm quyền tịch thu tang vật phương tiện vi phạm. Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo tổng kết thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính, số 09/ BC-BTP kiến nghị hồn thiện thể chế về kiểm tra, xử lý trách nhiệm về xử lý vi phạm hành chính theo hướng cụ thể, đầy đủ và toàn diện hơn. Nguyễn Nhật Khanh & Đặng Thị Phương Ngọc (2020), Hình thức phạt tiền trong pháp luật xử phạt vi phạm hành chính, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1/2020 đề xuất: (1) Chính phủ cần phải đánh giá một cách tổng quan các vi phạm hành chính trong tất cả các lĩnh vực để bảo đảm tính hợp lý và tính phù hợp của mức xử phạt; (2) cần giảm mức chênh lệch quá lớn giữa mức phạt thấp nhất và mức phạt cao nhất. Nguyễn Nhật Khanh (2018), Biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính, Tạp chí Khoa học pháp lý số 07/2018 đề xuất một giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp khắc phục hậu quả buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính: (1) bảo đảm sự thống nhất trong quy định và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả này; (2) bảo đảm sự phù hợp với khái niệm tài sản được quy định Bộ luật dân sự năm 2015; (3) đối với lĩnh vực vi phạm hành chính có quy định về buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính mà chưa

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

có hướng dẫn cụ thể về số lợi bất hợp pháp thì cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về khái niệm này.

Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có cơng trình khoa học nào đưa ra những kiến nghị hồn thiện pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên cơ sở nghiên cứu thực trạng địa bàn các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên.

<b>1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu về trách nhiệm hànhchính trong lĩnh vực thương mại từ thực tiễn các tỉnh Tây Nguyên</b>

<i><b>1.2.1. Những kết quả các cơng trình nghiên cứu đã đạt được</b></i>

<b>Thứ nhất, về mặt lý luận: Các cơng trình khoa học đã cơng bố của các</b>

tác giả nước ngoài đã giải quyết nhiều vấn đề lý luận liên quan đến hành vi vi phạm hành chính, trách nhiệm hành chính, chế tài hành chính và xử lý vi phạm hành chính. Trong đó, những vấn đề lý luận cơ bản sau đây đã được các cơng trình khoa học giải quyết:

- Khái niệm hành hành vi vi phạm hành chính và các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính.

- Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính, chế tài hành chính: Đây là vấn đề được nhiều nhà khoa học dày công nghiên cứu. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và làm sáng tỏ cơ sở khoa học và bản chất của chế tài hành chính, phân biệt chế tài hành chính với chế tài hình sự. Nhiều tác giả cũng khẳng định một vấn đề lý luận xuyên suốt trong việc truy cứu trách nhiệm hành chính, đó là trách nhiệm hành chính là trách nhiệm tuyệt đối. Lý luận này chi phối việc thiết lập mô hình thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Các tác giả cũng đã nghiên cứu các biện pháp chế tài hành chính, trong đó bao gồm các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khác. Cũng đã có cơng trình đưa ra mơ hình đánh giá tính hiệu quả của chế tài hành chính. Nhìn chung, các chế tài hành chính đã được các tác giả nghiên cứu tương đối đầy đủ và toàn diện. Có một số cơng trình khoa học đã nghiên cứu bước đầu về chế tài hành chính đối với một số hoạt động trong lĩnh vực thương mại.

- Những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm hành chính: Các cơng trình khoa học đều nỗ lực tìm ra các cơ sở khoa học và cơ sở hiến pháp để giải quyết câu hỏi xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo mơ hình tố tụng hình sự hay mơ hình thủ tục hành chính. Về vấn đề này, có hai luồng quan

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

điểm khác nhau. Luồng quan điểm thứ nhất mà phần lớn các nhà khoa học pháp lý Việt Nam và nhiều nhà khoa học pháp lý nước ngoài ủng hộ, đó là mơ hình thủ tục hành chính được áp dụng để xử lý vi phạm hành chính. Luồng quan điểm thứ hai, cho rằng mơ hình tố tụng hình sự (mơ hình tư pháp) cần được áp dụng để xử lý vi phạm hành chính. Về vấn đề này, nghiên cứu sinh sẽ tiếp tục làm sáng tỏ về mặt lý luận, ở Việt Nam, mơ hình nào là phù hợp nhất. Tiếp đến, các tác giả tiếp tục mổ xẻ, làm rõ những nguyên tắc, tiêu chuẩn chi phối thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Về cơ bản, phần lớn các tác giả cho rằng những nguyên tắc, tiêu chuẩn chi phối thủ tục xử lý vi phạm hành chính cần đủ bảo đảm ngăn ngừa các hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền hiến định của các chủ thể nhưng không tuyệt đối như trong tố tụng hình sự. Hơn nữa, các tác giả theo luồng quan điểm này cho rằng trách nhiệm hành chính là trách nhiệm tuyệt đối. Vì vậy, ngun tắc “suy đóan khơng có lỗi”, “quyền im lặng”,…chỉ chi phối và áp dụng một cách tương đối trong qui trình xử lý vi phạm hành chính. Đây là những vấn đề lý luận rất quan trọng phải giải quyết để xây dựng được mơ hình thủ tục xử lý vi phạm hành chính vừa nhanh chóng, hiệu quả, vừa bảo đảm quyền hiến định của các chủ thể.

<b>Thứ hai, những kết quả đạt được liên quan đến thực trạng pháp luật về</b>

trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại: Mặc dù, khơng có nhiều cơng trình nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về thực trạng pháp luật về trách nhiệm hành chính đối với vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Nhưng các cơng trình đã cơng bố đều đã có những nghiên cứu, đánh giá về thực trạng pháp luật trách nhiệm hành chính, xử lý vi phạm hành chính ở Việt Nam. Một số cơng trình khoa học nước ngồi cũng đã chỉ ra những khó khăn trong xử lý vi phạm hành chính trong một số hoạt động thuộc lĩnh vực thương mại, nhất là khó khăn trong việc xác định các quy tắc, tiêu chuẩn “tố tụng” phải tuân thủ, khi ranh giới giữa “tố tụng hình sự” và “thủ tục hành chính” vẫn cịn “lờ mờ.”

Về cơ bản, các cơng trình khoa học đã cơng bố đều chỉ ra được những hạn chế, vướng mắc của pháp luật hiện hành của Việt Nam về xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại nói riêng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<b>Thứ ba, những đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về</b>

trách nhiệm hành chính, xử lý vi phạm hành chính. Các tác giả đã đưa ra nhiều đề xuất có giá trị tham khảo nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Những đề xuất của các tác giả chủ yếu tập trung vào các nội dung sau:

- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả. Một số tác giả đề xuất bổ sung thêm một số hình thức xử phạt vi phạm hành chính, có tác giả đề xuất chuyển hoá một số biện pháp khắc phục hậu quả thành hình thức xử phạt vi phạm hành chính.

- Hồn thiện các quy định của pháp luật về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Một số tác giả đề xuất cần có sự phân cơng thẩm quyền hợp lý và khoa học giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong xử lý vi phạm hành chính có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.

- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục xử lý vi phạm hành chính. Theo các tác giả về cơ bản thủ tục xử lý vi phạm hành chính theo pháp luật của Việt Nam ngày càng hồn thiện, nhưng cịn nhiều vấn đề trong thủ tục xử lý vi phạm hành chính cần thiết phải được tiếp tục hoàn thiện.

Những kết quả nghiên cứu của các tác giả sẽ là những thông tin tham khảo bổ ích để nghiên cứu sinh hoàn thành luận án.

<i><b>1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục kế thừa và phát triển</b></i>

Trên cơ sở kế thừa và phát triển có chọn lọc những kết quả lý luận của các cơng trình khoa học đã được công bố, nghiên cứu sinh tiếp tục kế thừa và phát triển những vấn đề sau:

- Những kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học đã công bố về hành vi vi phạm hành chính là cơ sở lý luận để luận án tiếp tục phát triển làm sáng tỏ hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại và những đặc trưng của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

- Những kết quả đạt được của các cơng trình nghiên cứu về trách nhiệm hành chính và chế tài hành chính sẽ được nghiên cứu sinh tham khảo, chọn lọc, kế thừa và phát triển những vấn đề lý luận về chế tài hành chính áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

- Những kết quả đã đạt được của các cơng trình đã cơng bố về mơ hình xử lý vi phạm hành chính sẽ được nghiên cứu sinh tham khảo, kế thừa có chọn lọc để tiếp tục phát triển những vấn đề lý luận về mơ hình thủ tục xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

<i><b>1.2.3. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu</b></i>

Sau khi khảo cứu các cơng trình khoa học đã cơng bố, nghiên cứu sinh đặt ra những vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu, giải quyết như sau:

<b>Thứ nhất, các cơng trình đã cơng bố vẫn chưa có sự thống nhất về “lĩnh</b>

vực thương mại”. Vì vậy, các cơng trình khoa học đã công bố chưa thống nhất được khái niệm hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Việc xác định rõ “lĩnh vực thương mại” có ý nghĩa trong việc phân định thẩm quyền giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc xử lý vi phạm hành chính. Vấn đề này sẽ được luận án giải quyết.

<b>Thứ hai, thương mại là lĩnh vực đặc thù, hoạt động thương mại là hoạt</b>

động tạo ra lợi nhuận. Vì vậy, yếu tố lợi nhuận hoặc lợi ích ln gắn liền với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Để ngăn ngừa và kiểm sốt những hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, thiết nghĩ cần có những biện pháp chế tài phù hợp với lĩnh vực thương mại. Vì vậy, luận án sẽ nghiên cứu để làm rõ những chế tài hành chính phù hợp và hiệu quả trong xử lý hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

<b>Thứ ba, cho đến nay, vẫn còn nhiều quan điểm liên quan đến việc có nên</b>

buộc phải áp dụng “ngun tắc suy đốn khơng có lỗi” trong thủ tục xử lý vi phạm hành chính hay khơng? Vấn đề này sẽ được luận án làm sáng tỏ. Hơn nữa, thủ tục xử lý vi phạm hành chính có cần thiết phải theo thủ tục tư pháp, cụ thể là theo mơ hình của tố tụng hình sự hay không cũng đang là vấn đề được nhiều nhà khoa học nêu ra nhưng chưa có quan điểm thống nhất. Luận án sẽ giải quyết vấn đề này.

<b>Thứ tư, luận án tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ thêm những điểm còn</b>

vướng mắc, hạn chế của pháp luật về xử lý vi phạm hành trong lĩnh vực thương mại ở Việt Nam. Đồng thời, luận án sẽ nghiên cứu thực trạng pháp luật của một số nước về về xử lý vi phạm hành trong lĩnh vực thương mại ở Việt Nam để rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<b>Thứ năm, mặc dù đã có nhiều cơng trình khoa học đưa ra những giải</b>

pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, luận án cũng sẽ có những giải pháp độc lập, góp phần làm hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở Việt Nam.

<b>1.3. Cơ sở lý thuyết và câu hỏi nghiên cứu</b>

<i><b>1.3.1. Cơ sở lý thuyết</b></i>

<i>1.3.1.1. Một số lý thuyết được sử dụng</i>

- Học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh về Nhà nước và pháp luật: Chủ nghĩa duy biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử sẽ là kim chỉ nam trong mọi vấn đề lý luận của luận án. Đặc biệt, các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, về nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, có sự phân cơng, phân nhiệm rành mạch rõ ràng sẽ là cơ sở lý thuyết quan trọng để luận án tìm ra cơ sở khoa học của chế tài hành chính và mơ hình xử lý vi phạm hành chính.

- Các quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân và các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như đường lối, chính sách của Đảng về tái cấu trúc nền kinh tế. Đây là những cơ sở lý luận quan trọng để luận án làm sáng tỏ nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại, vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, chế tài hành chính và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

Mơ hình đánh giá tính hiệu quả của chế tài hành chính được phát triển trong cơng trình: Anthony Ogus, Michael Faure & Niels Philipsen (2006), Report on the Effectiveness of Enforceability Regimes, OECD/OCDE 2006 cũng sẽ được luận án vận dụng trên cơ sở kết hợp với các lý thuyết khác để tìm ra những chế tài hành chính hiệu quả trong lĩnh vực thương mại.

Bên cạnh đó, các lý thuyết về quản lý nhà nước, khoa học hành chính và khoa học luật hành chính về vấn đề sử dụng quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành chính nhà nước và cưỡng chế hành chính nhà nước, lý thuyết bảo vệ và duy trì trật cơng cộng, lý thuyết mệnh lệnh phục tùng được phát triển bởi

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

khoa học luật hành chính sẽ được nghiên cứu sinh sử dụng để phát triển các quan điểm khoa học của mình trong luận án.

Đặc biệt các lý thuyết về trách nhiệm hành chính được phát triển bởi các nhà khoa học Việt Nam được nghiên cứu sinh kế thừa và phát triển trong luận án này để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

<i>1.3.1.2. Khung phân tích để làm rõ lý thuyết</i>

<i><b>Giả thuyết nghiên cứu:</b></i>

Phải chăng những hạn chế trong thực tiễn áp dụng trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn các tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên xuất phát từ nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan và các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại vẫn còn nhiều tồn tại.

<i><b>Các câu hỏi nghiên cứu đặt ra:</b></i>

1. Bản chất, vai trò và nội dung của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại là gì? Mơ hình xử lý vi phạm hành chính nào phù hợp với Việt Nam?

2. Có những vướng mắc, hạn chế gì và nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế đó từ thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở địa bàn tỉnh Tây Nguyên?

3.Cần những giải pháp nào để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại ở địa bàn tỉnh Tây Nguyên

<i><b>4. Kết quả nghiên cứu: (dự kiến)</b></i>

Luận án sẽ làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, từ đó tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Từ nghiên cứu lý luận và khảo cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, luận án đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<b>Chương 2</b>

<b>NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNHTRONG LĨNH VỰC THƯƠNG MẠI</b>

<b>2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại</b>

<i><b>2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm hành chính trong lĩnh vực thương mại</b></i>

<i>2.1.1.1. Khái niệm lĩnh vực thương mại</i>

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành và phát triển ở nước ta khoảng 30 năm nay. Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã thay da đổi thịt. Những hoạt động còn xa lạ hoặc bị hạn chế trong thời kinh tế bao cấp, nay được dịp phát triển mạnh mẽ. Hoạt động thương mại cũng đang bùng nổ mạnh mẽ. Vấn đề đặt ra là thế nào là “lĩnh vực thương mại”.

Hiện nay, các nhà kinh tế học vẫn hiểu thương mại theo hai nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

“Theo nghĩa rộng: Thương mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị trường. Thương mại đồng nghĩa với kinh doanh được hiểu như là hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trên thị trường.

Theo nghĩa hẹp: Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thơng hàng hố.” [50, 33].

Các nhà luật học của chế độ Sài Gịn cũ có cách hiểu rộng về thương mại. Lê Tài Triển liệt kê các hành vi thương mại thuần tuý được quy định tại Điều 342 và 343 dự thảo Bộ luật thương mại của chế độ Sài Gòn cũ như sau:

“a) Sự khai thác hầm mỏ và nguyên liệu;

b) sự chế tạo và biến chế mọi sản phẩm kỹ nghệ;

c) sự mua để bán lại và cho thuê các tài – vật và hàng hố bất cứ loại gì; d) các nghiệp vụ ký kho và tồn trữ hàng hoá;

e) mọi việc chuyên chở hành khách, tài vật và hàng hoá; f) các nghiệp vụ bảo hiểm dưới mọi hình thức;

g) các nghiệp vụ hối đoái, ngân hàng, giao dịch chứng khoán;

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

h) các nghiệp vụ trung gian, trọng mãi, đại diện, đại lý thương mại; i) các doanh nghiệp cung cấp vật liệu, dịch vụ xây cất, giải trí cơng cộng, xuất bản, truyền tin, truyền hình”

Lê Tài Triển cũng liệt kê các hành vi thương mại khác được mô tả tại Điều 343 dự thảo Bộ luật thương mại của chế độ Sài Gòn cũ như sau:

“a) việc đóng thuyền tàu và phi cơ;

b) sự chuyên chở hàng hà và hàng không;

c) mua bán hay thuê mướn thuyền tàu, phi cơ để dùng trong sự giao thông quốc nội hay quốc ngoại;

d) mọi khế ước thuỷ vận hay không vận.” [57, 39].

Luật thương mại năm 2005 của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng định nghĩa “thương mại” theo nghĩa rộng. Theo đó, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hố, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” (Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005).

Như vậy, Luật thương mại năm 2005 định nghĩa “hoạt động thương mại” theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Với nghĩa rộng, thương mại đồng nghĩa với kinh doanh. Đây là quan điểm hợp lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc quan niệm thương mại theo nghĩa rộng cũng thuận lợi trong điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực tư, tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc trong việc xác định, phân biệt giữa thương mại với hành vi kinh doanh khác. Thương mại nếu hiểu theo nghĩa rộng bao gồm hoạt động sản xuất, mua bán hàng hoá để kiếm lời, cung ứng dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khốn, đầu tư,…

Bên cạnh những mặt tích cực, nền kinh tế thị trường còn bộc lộ nhiều mặt tiêu cực cần phải được kiểm soát chặt chẽ. Như một nhà khoa học nhận định: “Sự quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh tế để duy trì những tích cực của hoạt động kinh tế bằng việc hạn chế sự tự do kinh doanh khi cần thiết để phân bổ các nguồn lực kinh tế vì lợi ích chung.” [134, 630]. Như vậy, quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại (theo nghĩa mở rộng) là rất cần thiết. Trong đó hành chính nhà nước là rất quan trọng. Theo PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt thì:

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

“Bản chất của hoạt động hành chính nhà nước chính là bản chất của hoạt động chấp hành và điều hành nhà nước. Nó thể hiện ở hai khía cạnh chấp hành và điều hành.

Chấp hành là sự thực hiện trên thực tế các luật và các văn bản mang tính chất luật của Nhà nước (các pháp lệnh và một số nghị quyết của Quốc hội), các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên nói chung.

Điều hành là hoạt động dựa trên cơ sở luật để chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý. Đặc trưng của hoạt động điều hành là các cơ quan hành chính (chủ thể quản lý) ra văn bản dưới luật mang tính chủ đạo, quy phạm hoặc cá biệt, và chúng được bảo đảm thực hiện bằng sự thuyết phục và khả năng áp dụng cưỡng chế nhà nước.” [73; 53, 54].

Thương mại theo nghĩa rộng chính là hoạt động kinh doanh nói chung. Do đó, việc quản lý nhà nước (theo nghĩa hẹp) trong lĩnh vực thương mại (theo nghĩa rộng) rất nặng nề và phức tạp. Trong cơ cấu hệ thống cơ quan hành chính nhà nước của Việt Nam, tồn tại cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung (Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp) và cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng (Bộ, cơ quan ngang bộ, Sở, Phòng). Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung có thẩm quyền là cơ quan có thẩm quyền quản lý chung đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong khi đó, cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng là cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực. Về nguyên tắc, cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung chỉ quản lý ở tầm chung, công việc quản lý cụ thể sẽ được giao cho cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng. Vận dụng nguyên lý này đối với lĩnh vực thương mại (theo nghĩa rộng) thì thấy, cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung sẽ quản lý lĩnh vực thương mại ở mức độ chung, các hoạt động quản lý chuyên môn, nghiệp vụ sẽ phải giao cho cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng. Nhưng về bản chất, thương mại (theo nghĩa rộng) quá rộng, liệu rằng một cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng ở một cấp chính quyền (trung ương, tỉnh, huyện, xã) có thể quản lý được tồn bộ hay khơng? Ví dụ, liệu có thể tồn tại một siêu cơ quan có thể quản lý tồn bộ lĩnh vực thương mại bao gồm sản xuất, mua

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

bán hàng hoá, xúc tiến thương mại, bảo hiểm, hàng hải, ngân hàng, chứng khốn hay khơng? Các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản cũng không tồn tại siêu cơ quan như vậy. Vì vậy, thương mại (theo nghĩa rộng) cần được chia nhỏ thành các lĩnh vực chuyên ngành để thuận lợi và hiệu quả trong quản lý. Lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán là những lĩnh vực đặc thù cần được giao cho các cơ quan quản lý về tài chính, ngân hàng quản lý. Bên cạnh đó, thương mại (theo nghĩa hẹp) liên quan đến việc sản xuất, lưu thơng hàng hố trên thị trường. Vì vậy, hoạt động này cần được kiểm sốt chặt chẽ nhằm bảo đảm sự an tồn cho người tiêu dùng và cho xã hội. Do vậy, hoạt động thương mại (theo nghĩa hẹp) cần được quản lý bởi cơ quan quản lý chuyên sâu về lĩnh vực thương mại (theo nghĩa hẹp).

GS. TS. Hồ Văn Tĩnh cho rằng: Thương mại là một ngành kinh tế độc lập mà hoạt động của nó là mua, bán hàng hóa và dịch vụ. [56]

Theo nghiên cứu sinh thì :“Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hoá, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ giữa hai hoặc nhiều đối tác và có thể nhận lại một giá trị nào đó bằng tiền thơng qua giá cả hay bằng hàng hố, dịch vụ như trong hình thức thương mại đổi hàng.” [69, 8].

Luật thương mại năm 1997 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam định nghĩa “hoạt động thương mại” theo nghĩa hẹp: Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.

Thuật ngữ “lĩnh vực thương mại” cũng được sử dụng nhiều bởi các chuyên gia kinh tế. Trong bài viết Chu Thanh Hải (2016), Phát triển kinh tế tư nhân trong lĩnh vực thương mại tỉnh Phú Thọ, Tạp chí Kinh tế và quản lý, số 17 (1-2016) tiếp cận lĩnh vực thương mại theo nghĩa hẹp. Mặc dù không trực tiếp đưa ra khái niệm “lĩnh vực thương mại” nhưng trong toàn nội dung bài viết của tác giả có thể hiểu “lĩnh vực thương mại” bao gồm hoạt động mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ xã hội. Tương tự như vậy, trong bài viết Phạm Thị Tuệ (2002), Kinh nghiệm về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại của Hàn

</div>

×