Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.75 MB, 104 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI <small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT</small>
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI <small>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT</small>
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
<small>Mã sơ: 8380101.03</small>
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYEN KHAC HAI
<small>Tơi xin cam đoan Luận văn là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các</small>
kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bat kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
<small>Tôi xin chân thành cảm ơn!</small>
<small>Tơ Đình Vĩ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><small>Danh mục các chữ việt tat</small>
<small>Danh mục các bảng, biêu đô</small>
TOI VI PHAM QUY ĐỊNH VE QUAN LÝ RUNG TRONG LUAT HÌNH SU VIỆT NAM...0...ccccccccsccscsscsecsescesesstssesestestestsnesees
<small>Khái niệm, ý nghĩa của tội hủy hoại rừng va tội vi phạm quy</small>
Khái niệm tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng ....
định về quản lý rừng ...-- 2-2 2 S+SE£E£E££E£EE2EEtEkerkerkerkeee
hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng trong
<small>pháp luật hình sự Việt Nam ... -..- Q Ăn SsSnseeereerree</small>
Tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng trong giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến
<small>trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ...</small>
Tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng theo
<small>quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985... </small>
-Tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng theo
<small>quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999,... </small>
-Phân biệt tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng với một số tội phạm khác ...- 2-2-2 se:
Phân biệt tội hủy hoại rừng (Điều 243 BLHS năm 2015) với tội
vi phạm quy định về quan lý rừng (Điều 233 BLHS năm 2015)... Phân biệt tội vi phạm quy định về quản lý rừng (Điều 233
BLHS năm 2015) với tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ
rừng và lâm sản (Điều 232 BLHS năm 2015) ...---Phân biệt tội hủy hoại rừng (Điều 243 BLHS năm 2015) và tội
<small>00020058) 00707077.. .. . ...</small>
TRONG BO LUAT HINH SU NAM 2015 VA THUC TIEN
XÉT XU TAI TINH HÀ GIANG ...---2 5+cs+cxcrxcces Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đỗi
Quy định về hình phạt đối với tội hủy hoại rừng...---Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi
Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về quản lý rừng... Quy định về hình phạt đối với tội vi phạm quy định về quản lý rừng...
Thực tiễn xét xử tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định
về quản lý rừng tại tỉnh Hà Giang...--- 2 2c cssrssrszez
Những khó khăn hạn chế trong xét xử tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng tại tỉnh Hà Giang và
<small>nguyên nhÂnn...-- - - ---- << + 111231119 1S HH ke</small>
tội huỷ hoại rừng và tội vi phạm quy định về quan lý rừng... 72
rừng và tội vi phạm quy định về quan lý rừng...-- 75
3.2.2. Hồn thiện pháp luật hình sự đối với tội vi phạm quy định về
tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản ly rừng... 83
<small>3.3.2. Tăng cường hướng dẫn xét xử, giải thích pháp luật hình sự, xây</small>
dựng án lệ, nâng cao năng lực thâm phán...---- 25 s2 s2 5+: S4
<small>3.3.3. Những giải pháp khác ...- - ---- «+ + xxx kg ng ng re, S5</small>
Tiểu kết Chương 3...-- ¿2 2S SE2E£2E££EEEEEEEEEEEE7E7121121111 11111 cxe 88
DANH MỤC TÀI LIEU THAM KHẢO...--..-2-- 22z+2222sccczei 92
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>BLHS Bộ luật Hình sự</small>
<small>TAND Tịa án nhân dân</small>
<small>TNHSTrach nhiém hinh su</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><small>Bang 2.1 | Tình hình xét xử tội hủy hoại rừng trên dia ban tỉnh</small>
<small>Hà Giang giai đoạn 2018-2022 50</small>
Bảng 2.2 Số vụ, số bị cáo bị xét xử về tội hủy hoại rừng so sánh với
rừng là người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hà
<small>Giang giai đoạn 2018-2022 52</small>
Bang 2.4 | Kết quả xét xử phúc thâm tội hủy hoại rừng của
<small>TAND tỉnh Hà Giang giai đoạn 2018-2022 56</small>
Bang 2.5 | Khung hình phat được áp dụng đối với các bị cáo
<small>phạm tội hủy hoại rừng tại tỉnh Hà Giang giai đoạn</small>
<small>2018-2022 57</small>
Biểu đồ 2.1 | Số vụ án và số bị cáo bị xét xử về tội hủy hoại rừng
<small>trên địa ban tỉnh Hà Giang giai đoạn 2018-2022 50</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
Khơng chỉ có vai trị quan trọng trong hệ sinh thái và sự sống của con người mà rừng cịn có ý nghĩa trong việc đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia.
Là một quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt doi, Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi nguồn tài nguyên vô cùng quý giá về rừng. Tính đến ngày
31/12/2021, tổng diện tích rừng của nước ta là 14.745.201ha [2]. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng
tâm ban hành những chủ trương, chính sách khuyến khích người dân trồng và bảo vệ rừng đồng thời liên tục đôi mới, cập nhật hệ thống các văn bản quy
bền vững hiện nay. Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường,
động không nhỏ tới việc làm giảm số lượng và chất lượng rừng. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, diện tích rừng bị thiệt hại ước tính là hơn
22.800ha, bình qn mỗi năm nước ta suy giảm khoảng 2.500ha rừng. Thực
nhân chính là do việc chặt phá, đốt rừng dé lay đất canh tác của người dân và tình trạng vi phạm các quy định về quản lý rừng của những người có chức vụ,
Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng Đơng Bắc Bộ của Việt Nam có đặc
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">điểm địa hình chủ yếu là đồi núi, khí hậu nhiệt đới gió mùa núi cao và là một trong những tỉnh có lượng mưa lớn nhất cả nước. Với đặc trưng địa
vật hoang dã cũng như rừng trồng phát triển. Rừng tại Hà Giang khơng chỉ giữ
mà còn là một thế mạnh kinh tế chủ yếu của địa phương như khai thác tài nguyên du lịch sinh thái và các nguyên liệu đầu vào phục vụ phát triển sản xuất và xây dựng cơ bản.
hoại rừng vẫn diễn biến phức tạp, diện tích rừng bị chặt phá ngày càng lon, đặc biệt có những vụ việc có sự tiếp tay của các cán bộ được giao nhiệm vu bảo vệ, quản lý rừng. Điều này cho thấy thực tiễn công tác đấu tranh phòng
hình sự và một số văn bản hướng dẫn nhưng quá trình áp dụng trong thực tiễn chưa mang tính đồng bộ, thống nhất, cịn tồn tại nhiều vướng mắc. Do đó dé làm rõ thực trạng, nguyên nhân, điều kiện xảy ra tội hủy hoại rừng và tdi vi phạm quy định về quản lý rừng qua đó đề xuất những giải pháp dé nâng cao
<small>trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng và trên cả nước nói chung, học viên đã</small>
lựa chọn dé tài “Tội huỷ hoại rừng, tội vi phạm các quy định về quản lý rừng theo pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn xét xử tại địa bàn tỉnh Hà Giang)” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ Luật học
chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
<small>2. Tình hình và nhiệm vụ nghiên cứu</small>
<small>Vân đê quản lý và bảo vệ rừng đang là vân đê thời sự, được các quôc</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">gia trên thế giới không chỉ ở Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Đây cũng là nội dung mang tính cấp thiết để các nhà nghiên cứu khoa học lưu tâm. Chính vì
van dé bảo vệ rừng trong TTHS (luật tố tụng hình sự) nói riêng thơng qua quy
phạm nói chung và tội hủy hoại rừng, tội vi phạm quy định về quản lý rừng nói
GS. TS. Nguyễn Ngọc Hoa, Nxb Cơng an nhân dân [12]; “Giáo trình Luật hình
(Chủ biên), Nxb Dai Học Quốc Gia Hà Nội [41]; “Tim hiểu Bộ luật hình sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi
<small>tác giả, Nxb Lao động [9]; “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam đã</small>
VII - Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, Bình luận chuyên sâu ” (2006) của Dinh Văn Qué, Nxb Thành phó Hồ Chí Minh [21].
<small>2015” của tác giả Nơng Minh Vũ (2019), Luận văn thạc sĩ Luật học, Dai học</small>
Luật Hà Nội [52]. Tác giả đã phân tích thực tiễn xét xử các vụ án về tội hủy hoại rừng trong giai đoạn 2014 — 2018 va đề xuất giải pháp nhằm nâng cao
- Đề tài “Tội vi phạm các quy định về quan lý rừng trong luật hình sự
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Dung (2012), Luận văn thạc sĩ Luật học,
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội [7]. Đề tài nghiên cứu đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình hình diễn biến phức tạp của tội vi phạm các quy
<small>Lê Thị Phương Minh (2013), Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học</small>
thống và toàn diện những vấn đề lý luận về tội hủy hoại rừng, phân tích những hạn chế, thiếu sót trong các quy định của pháp luật từ thực tiễn xét xử tội hủy hoại rừng từ đó, đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định
<small>tội hủy hoại rừng và các giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành.</small>
Luật, Đại học quốc gia Hà Nội [35]. Phân tích những vấn đề lý luận về các tội
Nam, đề xuất các giải pháp hồn thiện các quy định trong Bộ luật hình sự về nhóm tội này trên cơ sở phân tích thực tiễn tại tỉnh Đắk Lắk.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu tổng quan và chỉ tiết các
từng loại tội phạm riêng biệt mà chưa có cơng trình nào nghiên cứu tổng thể, chun sâu kết hợp hai tội danh nói trên cơ sở thực tiễn việc áp dụng pháp luật trên các địa bàn, đối tượng cụ thể. Bên cạnh đó, một số đề tài được nghiên cứu trên cơ sở quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 hiện đã hết hiệu
Do đó việc luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự đối với tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng trên cơ sở xét xử thực
<small>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn3.1. Mục đích nghiên cứu</small>
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật pháp luật hình sự đối với tội hủy hoại rừng, tội vi phạm quy định về quản lý rừng, góp phần dau tranh phòng, chống
<small>loại tội phạm này trên dia ban tỉnh Hà Giang.</small>
<small>3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu</small>
- Nghiên cứu làm rõ nội hàm khái niệm, đặc điểm cấu thành tội phạm,
<small>lịch sử hình thành và ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng, tội vi phạm</small>
quy định về quản lý rừng trong BLHS;
<small>- Phân tích, làm rõ quy định của BLHS hiện hành và các văn bản hướng</small>
<small>- Đánh giá thực tiễn xét xử tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định</small>
tồn tại hạn chế trong việc áp dụng pháp luật và những nguyên nhân của các ton tại, hạn chế này.
- Kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa ra những giải
phạm nói chung và tội phạm hủy hoại rừng, tội vi phạm các quy định về quản
<small>lý rừng trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.</small>
4.1. Đối twong nghiên cứu
cơ sở thực tiễn xét xử tại tỉnh Hà Giang.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>4.2. Phạm vi nghiên cứu</small>
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng dưới góc độ pháp luật hình sự, trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn xét xử về hai loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Ha Giang trong giai đoạn từ năm 2018 đến năm 2022.
<small>5. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu</small>
<small>5.1. Cơ sở lý luận</small>
khoa học nền tảng về Phần các tội phạm nói chung của Bộ luật Hình sự, cũng như các luận điểm cơ bản về cấu thành tội phạm được nghiên cứu trong luận văn này dựa vào những luận điểm khoa học trong các cơng trình nghiên cứu,
<small>3.2. Phương pháp luận</small>
<small>5.3. Phương pháp nghiên cứu</small>
Phương pháp nghiên cứu của luận văn được sử dụng bao gồm phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, diễn giải, so sánh; khảo cứu
các văn ban, cụ thé:
— Phương pháp phân tích, diễn giải được sử dụng khi nghiên cứu những
— Phương pháp thống kê, đánh giá, bình luận, khảo cứu các văn bản
hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng, thực trạng xét xử về hai
<small>loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">tội vi phạm quy định về quản lý rừng với một số tội phạm khác.
— Phương pháp tổng hợp, bình luận được sử dụng khi đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng trên thực tiễn
<small>tại địa ban tỉnh Ha Giang.</small>
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
về tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng. Trên cơ sở đó
<small>dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học pháplý hình sự Việt Nam.</small>
Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở đánh giá thực tiễn công tác xét xử đối với tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng trên địa bàn tỉnh Hà Giang, luận văn làm rõ những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với hai tội phạm này. Những kiến nghị và giải pháp trình bày
tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng ý nghĩa trong hoạt động nghiên cứu
khảo cho việc nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục về bảo vệ tài nguyên rừng môi trường. Những giải pháp, kiến nghị có tính khả thi được đưa ra trong luận
<small>trên dia ban tỉnh Hà Giang nói riêng và việc áp dụng pháp luật trên địa bàn cả</small>
<small>nước nói chung.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">7. BO cục của luận văn
Chương I. Những vẫn đề chung về tội hủy hoại rừng và tội vi phạm
định về quản lý rừng trong Bộ luật hình sự năm 2015 và thực tiễn xét xử tại
<small>tỉnh Ha Giang.</small>
<small>Chương 3. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự va nâng cao hiệu</small>
<small>Chương 1</small>
<small>VIET NAM</small>
<small>1.1. Khái niệm, ý nghĩa của tội hủy hoại rừng va tội vi phạm quy</small>
<small>1.1.1.1. Khái niệm tội hủy hoại rừng</small>
Việc làm rõ khái niệm tội hủy hoại rừng có ý nghĩa quan trọng về cả mặt lý luận và mặt thực tiễn, là cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ
quan lập pháp thống nhất nhận thức trong việc xây dựng và áp dụng đúng đắn
rừng đối với sự phát triển thịnh vượng, lâu dài, vững chắc của đất nước, ngay sau khi gianh được độc lập, bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ chính quyền và thành quả cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã có những biện pháp nhằm đấu tranh, xử lý các hành vi xâm phạm, hủy hoại rừng. Tuy nhiên do tình hình đất nước chưa 6n định và trình độ lập pháp cịn nhiều hạn chế nhất định nên công tác
<small>bảo vệ rừng thời kỳ này chưa đạt được hiệu quả cao.</small>
Tại BLHS năm 1985 — Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta, tinh cấp bách và tam quan trọng của việc đấu tranh, ngăn chặn tội phạm về môi trường và hủy hoại rừng chưa được thê hiện rõ, trong toàn văn BLHS năm 1985 chỉ có hai điều luật quy định trách nhiệm hình sự cho những hành vi gây hại đến môi trường và hành vi hủy hoại rừng, gồm: Điều 195 - Tội vi phạm các quy
<small>nhóm Các tội xâm phạm an tồn, trật tự cơng cộng và trật tự quản lý hành</small>
thành một chương riêng mà chỉ được quy định lồng ghép trong các điều luật như: Điều 179 - Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên trong lòng dat, trong các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam, Điều 180 - Tội vi phạm các quy định về quan lý và bảo vệ đất đai đều
Theo Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Trường Đại
pháp luật hình sự và phải chịu hình phat” [12, tr. 52]. Theo Từ điển Tiếng
<small>Việt của Viện Ngơn ngữ học thì “Húy hoại là làm cho hư hỏng đi, pha di, cho</small>
hành vi hủy hoại rừng thì cần hiểu thế nào là hành vi hủy hoại tài sản. Từ điển
<small>giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, định nghĩa</small>
“Hủy hoại tài sản là cô ÿ làm cho tài sản mat giá trị sử dụng ở mức độ khơng
<small>cịn hoặc khó có khả năng khôi phục lại được, thông qua hành động như đập</small>
hiểu, hủy hoại rừng là những hành vi cố ý đốt, chặt phá rừng, hoặc có những hành vi khác làm cho tải nguyên rừng, cây rừng, động vật rừng, đất rừng bị hư hỏng, bị chết hàng loạt, giảm về số lượng, diện tích và giá trị lâm sản.
sau: “Tối hủy hoại rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý làm cho rừng giảm giá trị đáng kề hoặc làm mắt hoàn toàn giá trị của rừng, xâm phạm các
<small>trường sinh thai”.</small>
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Từ khái niệm trên, có thé nhận thay ngồi những đặc điểm của tội phạm nói chung thì tội hủy hoại rừng cịn có những đặc điểm riêng biệt như sau:
hại đối với xã hội, làm tổn hại đến môi trường sinh thái, rừng và cuộc sống người dân, bao gồm những hành vi như cố tình chặt, phá rừng trái phép hoặc
có các hành vi cố ý làm cho rừng bị huỷ hoại. Tính nguy hiểm thé hiện ở việc các hành vi này gây ra các hậu quả nghiêm trọng về mặt môi trường sinh thái,
<small>các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ.</small>
thé biểu hiện dưới hình thức cố ý, có thé là có ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp.
Thứ ba, các hành vi hủy hoại rừng có thé được thực hiện bởi bat cứ cá
<small>hoặc được giao quản lý) hoặc được thực hiện bởi pháp nhân thương mại.</small>
Thứ tư, tội hủy hoại rừng được quy định cụ thể trong BLHS, chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các quy định của BLHS thì mới được
<small>coi la tội phạm. Do đó, chỉ những hành vi hủy hoại rừng nao được quy địnhtrong BLHS thì mới được xem là tội phạm. Ngồi ra, những hành vi hủy hoại</small>
<small>rùng không được quy định trong BLHS thì khơng phải tội phạm hủy hoại</small>
rừng va khơng phải chịu TNHS mà được xử lý bởi các chế tài xử lý khác như
<small>xử phạt hành chính, dân sự.</small>
<small>Thứ năm, người thực hiện hành vi phạm tội hủy hoại rừng phải chịu</small>
qua do hành vi gây ra khi đủ các yếu tố cau thành tội phạm được theo quy
<small>định của BLHS. Hình phạt với hành vi hủy hoại rừng cũng là hình thức mang</small>
<small>hình phạm tội trên.</small>
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">1.1.1.2. Khái niệm tội vi phạm quy định về quan lý rừng
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, pháp luật được thượng tôn, mọi mối quan hệ trong xã hội đều được điều chỉnh bằng pháp luật. Do đó, để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đất nước thì hệ thống pháp luật phải mạnh, có
trừng trị, răn đe những hành vi xâm phạm trật tự quản lý về kinh tế. Một trong những chế tài có tính răn đe cao nhất đó là việc quy định TNHS đối với những hành vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có mức độ nguy hiểm cao, đe dọa đến
sự phát triển và vận hành bình thường của nên kinh tế.
Tội vi phạm quy định về quản lý rừng được quy định tại Điều 233
xâm phạm là trật tự quản lý kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực quản lý và phát
chống tội phạm trong tình hình đất nước dang trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế, tội vi phạm quy định về quản lý rừng đã được tách từ tội vi phạm các quy định và bảo vệ rừng tại Điều 181 BLHS năm 1985 dé trở thành một tội phạm độc lập tại Điều 176 BLHS năm 1999, qua đó quy định cụ thể,
<small>rõ ràng hơn các hành vi khách quan và quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.</small>
phạm quy định về quản lý rừng là một tội phạm độc lập thuộc nhóm các tội về xâm phạm trật tự quản lý kinh tế Nhà nước. Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào đưa ra định nghĩa một cách cụ thé về tội phạm này. Tuy
<small>nhiên, thông qua việc phân tích nêu trên, có thê đưa ra khái niệm tội vi phạm</small>
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">các quy định về quản lý rừng như sau: Tội vi phạm các quy định về quản lý rừng là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, xâm hại đến trật tự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực quản lý tài nguyên rừng, bao gom các hành vi vi phạm quy định về giao rừng, thu hoi đất
người và hệ sinh thái của trái đất, rừng giúp cân bằng hệ sinh thái, 6n định và điều hịa khí hậu, ngăn cản và hạn chế hậu quả của thiên tai. Bên cạnh đó, tài nguyên rừng còn mang lại giá trị kinh tế cao và là nguồn nguyên liệu quan trọng cho sản xuất công nghiệp, mang lại tiềm năng phát triển du lịch phục vụ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịch của nhân dân. Hiện nay, sự chạy đua trong phát triển kinh tế dẫn đến môi trường sống của con người đã và ngày
<small>phá rừng gây suy giảm đa dạng sinh học, làm giảm diện tích rừng tự nhiên,</small>
tai làm thiệt hại về người và tài sản.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và nhận thức được tầm quan trọng của công tác bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng với việc luôn nêu cao các hoạt động tuyên truyền giáo dục thuyết phục và áp dụng nhiều biện pháp, xử
lý nghiêm minh đối với các hành vi chặt phá, lan chiếm đất rừng, cũng như xử
<small>khai thác và tàn phá trái phép. Tuy nhiên tình trạng tàn phá rừng, khai thác tài</small>
nguyên, lâm sản trái phép vẫn diễn ra với mức độ ngày càng nghiêm trọng
hơn, công tác quản lý rừng ngày càng bộc lộ nhiều tiêu cực, sự buông lỏng
<small>quản lý và tiép tay cho các hành vi vi phạm của những người có chức vụ,</small>
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">quyên hạn trong công tác quản lý rừng làm cho tài nguyên rừng của nước ta ngày đứng trước những nguy cơ ngày cảng bị thu hẹp và suy giảm về chất lượng. Thực trạng trên là nguyên nhân dẫn đến tội phạm về rừng không ngừng tăng lên về số lượng và tính chất phức tạp của hành vi phạm tội. Về
<small>mặt lập pháp, việc hình sự hóa các hành vi hủy hoại rừng và vi phạm quy định</small>
Việt Nam, thể hiện trình độ lập pháp trong lĩnh vực hình sự của nước ta ngày
vi phạm quy định về quản lý rừng trong BLHS là cơ sở để các cơ quan tiễn hành tố tụng thực thi quyền lực Nhà nước dé dau tranh phòng chống tội phạm.
Cơ sở lý luận và thực tiễn cho thấy rằng mỗi loại tội phạm có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, xâm phạm những quan hệ xã hội khác nhau nên phương pháp đấu tranh, ngăn ngừa cũng khác nhau, tội hủy hoại rừng và
BLHS đã nêu rõ chỉ những hành vi mang tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội mới được coi là tội phạm và chịu TNHS, điều này làm cho pháp luật
lý rừng trong BLHS giúp người dân thay đổi nhận thức về vai trò và trách nhiệm trong công tác bảo vệ rừng, răn đe, thay đôi nhận thức và nâng cao trách nhiệm của các chủ thé được giao quyền lực nhà nước phục vụ cho công tác quản lý rừng. Từng bước thay đổi những phong tục, tập quán lạc hậu làm
vi phạm pháp luật từ đó có tác dung rin đe và giáo dục nhăm ngăn chặn
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>những hành vi vi phạm pháp luật nói chung và hành vi vi phạm pháp luậttrong khai thác và bảo vệ rừng nói riêng.</small>
cấp nguồn nguyên liệu quan trọng của sản xuất công nghiệp, thúc đây kinh tế
hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng được quy định trong BLHS sẽ tạo hành lang pháp lý điều chỉnh hành vi của con người, giúp bảo vệ bảo vệ
<small>tài nguyên rừng và các lồi động, thực vật, nói riêng, giúp cho môi trường</small>
sạt lở, lũ quét,... Từ đó phục vụ cho sự phát triển bền vững của kinh tế, giữ gìn nguồn sinh kế lâu dai cho người dân, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên ban
tội vi phạm quy định về quản lý rừng trong BLHS khơng chỉ có có ý nghĩa về
quốc phòng, đời sống dân cư,...
hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng trong pháp luật hình
<small>sự Việt Nam</small>
<small>hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985</small>
Năm 1945 sau khi miền Bắc nước ta giành được chính quyền, bên cạnh
chiến tranh gây ra, Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến việc đấu tranh phòng
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">chủ yếu hướng đến các loại tội phạm xâm phạm an ninh chính trị quốc gia và các loại tội đặc biệt nghiêm trọng. Tài nguyên rừng của nước ta vào thời điểm
do đất nước vẫn đang trong tình trạng chiến tranh nên diện tích rừng chủ yếu
được quy định trong các sắc lệnh như: Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/2/1946 về các tội phá hoại công sản; Sắc lệnh số 142/SL ngày 21/12/1949 quy định về
<small>việc lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng. Ngày</small>
hành vi chặt cây trái phép, hành vi đốt rừng, làm cháy rừng.... Mặc dù quy định về các hành vi xâm hại rừng trong Thơng tư này cịn sơ khai nhưng đây được xem là văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành, phát triển của pháp luật hình sự về bảo vệ tài nguyên rừng của nước ta.
nhiệm vụ vừa xây dựng đất nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội, vừa chi viện cho miền Nam. Pháp luật hình sự thời kỳ này được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và có nhiều bước tiến so với thời điểm những năm đầu mới giành được độc lập. Tại Điều 12 Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">hữu của toàn dân” [22, Điều 12], theo đó lần đầu tiên trong văn bản có tính pháp lý cao nhất của nước ta, tài nguyên rừng được coi là tải sản của quốc gia.
dé đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm xâm hại đến rung, cụ thé là các
thời về săn bắn, bắt chim, thú rừng: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tai sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970; Nghị định số 221/CP ngày 29/01/1961 và Nghị định số 220/CP ngày 28/12/1961 của Chính phủ, quy định về quản lý của nhà nước đối với cơng tác phịng cháy chữa cháy; Nghị định số 155/CP
Thường vụ Quốc hội quy định việc bảo vệ rừng.
<small>theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985</small>
Giai đoạn từ năm 1975 đến trước năm 1985, do lúc này nước ta lúc này vừa thống nhất đất nước nên nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng và Nhà nước hướng đến là dành toàn lực dé tái thiết đất nước và củng có chính quyền cách mạng, do đó thời điểm này nước ta vẫn chưa xây dựng được Bộ luật hình sự. Đối với lĩnh vực bảo vệ tài nguyên rừng thời điểm này chủ yếu vẫn sử dụng
Hiến pháp năm 1980 quy định: “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác
sách bảo vệ và tai sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống” [23, Điều 36] theo đó cơng tác bảo vệ tài nguyên thiên
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26"><small>nhiên nói chung và tai nguyên rừng nói riêng được quy định là nghĩa vụ va</small>
trách nhiệm của tồn thê cơng dân. Việc hiến định nghĩa vụ và trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện các chính sách về bảo vệ rừng là cơ sở pháp lý cơ bản và quan trọng cho việc điều chỉnh pháp luật hình sự về quản lý và
<small>bảo vệ rung sau nay.</small>
nước ta đã quy định cụ thể những loại hành vi xâm phạm tài nguyên rừng từ khai thác trái phép đến vi phạm các quy định về quản lý rừng hay săn bắn trái phép động vật hoang dã,... Điều 181: Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng thuộc Chương VII - Các tội xâm phạm về kinh tế, Bộ luật Hình
<small>sự năm 1985 quy định:</small>
thú hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về
<small>quản lý và bảo vệ rừng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý</small>
về hành chính mà cịn vi phạm thì phạt cải tạo không giam giữ đến
<small>2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ</small>
hai năm đến mười năm [24, Điều 181].
Do là Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta nên các quy định trong BLHS năm 1985 còn khá sơ sài và nhiều hạn ché, trong đó Điều 181 tồn tại một số hạn chế nhất định như: Khách thé bảo vệ được hướng tới quá rộng, các hành vi khách quan của tội phạm cũng chưa được nêu và hướng dẫn cụ thé,
Ngoài ra, mặc dù chủ thể vi phạm quy chế quản lý rừng và chủ thể vi phạm quy định bảo vệ rừng đều do cùng một luật điều chỉnh nhưng mỗi chủ thé lại
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">có tính đặc thù riêng. Chủ thé vi phạm quy định về bảo vệ rừng là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi theo quy định, còn chủ thể vi phạm
quy định về quản lý rừng phải có nhiệm vụ, quyền hạn quản lý rừng. Do đó, việc xử lý TNHS đối với hai loại hành vi này trong cùng một điều luật sẽ gây
lang túng, khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
trọng, trong đó khách thể được bảo vệ trong điều luật này là tính mạng, sức
rừng là loại tài sản đặc biệt của đất nước nên hành vi làm cháy tai sản nói chung, cháy rừng gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng đều áp dụng Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1985 làm căn cứ xử lý. Tuy nhiên điều luật này lại không
diện tích rừng bị hủy hoại, gây khó khăn trong việc xử lý các hành vi đốt phá
<small>gây hủy hoại, tàn phá rừng.</small>
cịn nhiều hạn chế về mặt lập pháp nhưng đã tạo cơ sở pháp lý góp phần ngăn chặn, trừng tri các hành vi xâm phạm rừng tại thời điểm đó, thé hiện
sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo vệ, phát triển
<small>tai nguyên rừng.</small>
<small>theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999</small>
cũng thay đổi, theo đó, các quy định về tội phạm của BLHS năm 1985 khơng cịn phủ hop với yêu cầu dau tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới.
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Sau thời kỳ đổi mới, đến năm 1999 kinh tế của nước ta đã từng bước đạt được nhiều thành tựu tích cực, nền kinh tế dần được cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kéo theo nhu cầu sử dụng đất rừng, tài nguyên rừng vào sản xuất, phát triển kinh tế, nông nghiệp, công nghiệp, sinh hoạt tăng cao. Nhu
và yêu cầu cấp thiết trong việc sửa đổi các quy định về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng, ngày 21/5/1999 BLHS năm 1999 chính thức được Quốc hội thơng qua và có hiệu lực từ ngày 01/07/2000. Điều 181 Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng trong Bộ luật Hình sự năm 1985 đã được tách thành hai tội danh độc lập trong BLHS năm 1999, gồm Điều 175: Tội vi
phạm tội, trong đó có tội hủy hoại rừng, cụ thể: - Điều 189 - Tội hủy hoại rừng.
- Điều 190 - Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm. - Điều 191 - Tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn
<small>thiên nhiên.</small>
- Điều 240 - Tội vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy.
Việc phân hóa hành vi phạm tội, phân hố hình phat trong các điều luật
tội vừa thê hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng, khắc phục các tồn tại hạn chế của BLHS năm 1985, thé hiện
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp của nước ta. Qua đó tạo cơ sở pháp lý đáp
phạm về về xâm hại tài nguyên rừng nói riêng.
1.3. Phân biệt tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý
Tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng mặc dù đều
pháp lý giống nhau ở yếu tô bắt buộc trong cấu thành tội phạm là đã gây ra hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù có những đặc điểm chung nhưng hai tội phạm
trên vẫn có những điểm đặc trưng riêng biệt:
Nếu Tội hủy hoại rừng được quy định tại Điều 243 thuộc Chương XIX Các tội phạm về mơi trường thì tội vi phạm quy định về quản lý rừng lại được quy định tại Điều 233 thuộc Chương XVIII Các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
xâm phạm là những quy định của nhà nước về bảo vệ rừng, xâm phạm đến môi trường sinh thái, gây ra những hậu quả nghiêm trọng khác cho đời sống xã
dụng và rừng sản xuất, thê hiện bằng hành vi đốt, phá và hành vi khác làm hủy
hành vi xâm phạm đến những quy định, chính sách của Nhà Nước về quản lý kinh tế trong quản lý rừng, người phạm tội làm sai, thực hiện khơng đúng các chính sách đó như vi phạm chế độ chế độ giao rừng, cho thuê rừng, cho phép
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">Thứ ba, về mặt khách quan. Đối với tội hủy hoại rừng người phạm tội
trong khu vực do họ trồng hoặc được giao quản lý) hoặc pháp nhân thương mại
tội này là chủ thê đặc biệt, với dấu hiệu bắt buộc phải là người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý rừng, chủ thê của tội này chỉ có thể là cá nhân.
thì chỉ quy định hình phạt đối với cá nhân. Mức hình phạt tù cao nhất của tội
tội vi phạm quy định về quản lý rừng (cao nhất là 12 năm tù). Có thể thấy, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội hủy hoại rừng cao hơn so với tội xâm phạm quản lý rừng và quy định hình phạt nghiêm khắc hơn. Bên cạnh đó, đối với tội hủy hoại rừng, ngồi hình phạt tù, hình phạt tiền được quy định là hình phạt chính với mức phạt từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, còn tội vi phạm quy định về quản lý rừng chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ
Hai tội này dù đều được quy định thuộc chương các tội phạm trật tự
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">quản lý kinh té trong Bộ luật hình sự năm 2015 nhưng vẫn có một số điểm
<small>khác nhau như sau.</small>
Thứ nhất, về khách thê. Tội vi phạm quy định về quản lý rừng có đối tượng tác động chính là những chính sách, những quy định về quản lý kinh tế trong quản lý rừng. Còn đối với tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ
cả gỗ, lâm sản ngoài gỗ, sản phẩm gỗ, song, mây, tre, nứa đã chế biến.)
Thứ hai, mặt khách quan. Sự khác nhau chủ yếu thể hiện ở điểm, tội vi phạm quy định về quản lý rừng là hành động hoặc không hành động tạo ra các quyết định hành chính cho phép người khác thực hiện, còn tội vi phạm quy
người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý rừng. Đối với tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản thì chủ thể của tội nảy có thể là bất kế cá nhân nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại đủ điều kiện mà không đòi hỏi phải là chủ thể đặc biệt.
này, thấy rằng tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản có
hình phạt của tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản (có thời hạn phạt tù cao nhất đến 10 năm tù) là thấp hơn so với mức hình phạt của
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">tội vi phạm quy định về quản lý rừng (có thời hạn phạt tù cao nhất là 12 năm tù). Bên cạnh đó, tội vi phạm quy định về quản lý rừng cịn có thêm hình phạt bồ sung là cam đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01-05 năm do chủ thé của tội này là những người có chức vụ quyền hạn, cịn tội vi phạm quy định về khai
này. Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản có quy định 02 hình phạt chính gồm hình phạt tù và hình phạt tiền (với mức phạt tiền cao
thì hình phạt tù là hình phạt chính duy nhất.
Thứ nhát, về khách thê của tội phạm. Tội hủy hoại rừng được quy định tại Điều 243 thuộc Chương XIX Các tội phạm về môi trường của BLHS năm 2015, có khách thé là xâm phạm các quy định của Nhà nước về bảo vệ rừng,
hư hỏng tải sản được quy định tại Điều 178 thuộc Chương XVI Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 2015, tội này có khách thể xâm phạm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tai sản của chủ sở hữu, đối tượng tác động trực tiếp của tội phạm là tài sản.
hành vi khách quan thê hiện bằng các hành vi đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác hủy hoại rừng, những hành vi này cấu thành tội phạm khi thỏa
243 BLHS năm 2015. Mặt khách quan của tội hủy hoại hoặc cô ý làm hư hỏng tài sản được thể hiện bằng các hành vi như: phá, đập, đốt, cắt xén,
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">nghiền nát, dùng chất nỗ dé công phá,... tài sản làm cho tai sản mat hoàn toàn giá tri sử dụng hoặc làm mat một phan giá trị sử dụng của tai sản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 178 BLHS năm 2015 thì những hành vi trên chỉ bị coi
là tội phạm nếu tài sản bị hủy hoại có trị giá từ 2.000.000 đồng hoặc dưới
hoặc pháp nhân thương mại thương mại đủ điều kiện. Còn tội hủy hoại tài sản hoặc có ý làm hư hỏng tài sản khơng quy định chủ thé là pháp nhân thương mại mà chỉ có chủ thê là người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS đối với trường phạm phạm tội quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 178 BLHS và là
hợp phạm tội thuộc khoản 3 và khoản 4 Điều 178 BLHS năm 2015.
tội. Bên cạnh đó mức phạt của hai tội cũng có nhiều điểm khác nhau:
Một là, đối với hình phạt tù: Mức phạt tù của tội hủy hoại hoặc cô ý làm hư hỏng tài sản nặng hơn, nghiêm khắc hơn so với tội hủy hoại rừng, cụ thé: tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản quy định mức phạt tù có thời
nhất đến 15 năm tù.
tội hủy hoại hoặc cô ý làm hư hỏng tài sản, Cụ thé: Hình phạt tiền là hình phạt chính trong tội hủy hoại rừng từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng, hình phạt
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">tiền là hình phạt bổ sung từ 20 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Còn đối với tội hủy hoại hoặc cơ ý làm hư hỏng tài sản thì phạt tiền là hình phạt chính từ 10
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Tiểu kết Chương 1
tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng như: Khái niệm, ý
<small>lý rừng trong BLHS. Phân tích và làm rõ được quá trình hình thành và phát</small>
triển của các quy định về tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý
<small>rừng qua các giai đoạn lịch sử trong các BLHS từng được ban hành. Quy định</small>
<small>rừng, trải qua các BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 va nay là BLHS năm</small>
2015, tội huỷ hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng đã được quy định một cách cụ thé, rõ rang va tương đối chat chẽ. Điều nảy thể hiện sự tiễn bộ, phát triển của hệ thống pháp luật của nước ta qua từng thời kỳ.
<small>Bên cạnh đó, Chương | của luận van còn phân biệt tội hủy hoại rừng va</small>
tội vi phạm quy định về quản lý rừng với một số tội phạm khác như: Tội vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản, tội hủy hoại hoặc cố ý
diện, lĩnh vực đối với hai tội phạm này.
luận về pháp luật hình sự đối với tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng là rất cần thiết, là cơ sở cho việc phân tích cấu thành tội phạm và đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật đối với tội hủy hoại rừng và tội vi phạm quy định về quản lý rừng trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong
<small>Chương 2 của Luận văn.</small>
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>Chương 2</small>
PHAM QUY DINH VE QUAN LY RUNG TRONG BO LUAT HINH SU
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đối bé
<small>khung hình phạt.</small>
Tội hủy hoại rừng được quy định tại Điều 243 BLHS năm 2015, thuộc
là pháp nhân thương mại nên việc làm rõ các yếu tố cau thành tội phạm hủy
danh và quyết định hình phạt.
Khách thê của tội phạm là một trong bốn yếu tố cầu thành tội phạm và được hiểu là đối tượng bị tội phạm xâm hại. Luật hình sự coi đối tượng bị tội phạm xâm hại là quan hệ xã hội. Bất cứ tội phạm nào cũng đều xâm hại một
tội phạm về môi trường là những quan hệ xã hội về môi trường được Luật
<small>Hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm.</small>
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Căn cứ khái niệm trên, có thể xác định khách thể của tội hủy hoại
<small>rừng là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ va bị các hành vi:</small>
phạm đến chế độ quản lý, bảo vệ môi trường, xâm phạm đến chế độ bảo vệ
<small>của môi trường sinh thái.</small>
Khi nghiên cứu khách thể của tội phạm, cần làm rõ một bộ phận quan trọng của khách thé đó là đối tượng tác động. Bởi lẽ, về mặt hình thức,
có thể xâm hại được đến các quan hệ xã hội được Bộ Luật hình sự bảo vệ.
Theo quy định tại Điều 243 BLHS năm 2015 thì đối tượng tác động
rừng khoanh nuôi tái sinh thuộc rừng chưa có trữ lượng, rừng sản xuất, rừng
<small>bị thiệt hại theo quy định.</small>
+ Rừng phòng hộ là rừng được sử dung chủ yếu dé bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mịn, chống sa mạc hóa, hạn chế thiên tai, điều hồ khí
<small>phịng hộ bảo vệ môi trường.</small>
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng: nghiên
nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ mơi trường, bao gồm:
hoá, danh lam thắng cảnh; khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học.
go, lâm sản ngồi gỗ và kết hợp phịng hộ, góp phan bảo vệ môi trường, bao gồm: Rừng sản xuất là rừng tự nhiên; rừng sản xuất là rừng trồng: rừng giống gồm rừng trồng và rừng tự nhiên qua bình tuyên, công nhận [26, Điều 4].
Tuy nhiên, cần phân biệt rừng là đối tượng tác động của tội hủy hoại
Theo quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 3, khoản 4 Điều 6 và khoản 2 Điều
<small>sử dụng rừng cho chủ rừng thơng qua hình thức giao rừng; cho th rừng;</small>
cơng nhận quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng thì tổ chức, tập thể, hộ gia đình, cá nhân trở thành chủ rừng và có quyền sở hữu đối với diện tích rừng được giao, khi đó chủ rừng có đầy đủ 03 quyền của chủ sở hữu tài sản theo quy định của BLDS là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng
không phải do chủ rừng thực hiện thi sẽ tác động đến quyền sở hữu tai sản
<small>năm 2015 [20, tr. 16].</small>
Rừng chỉ trở thành đối tượng bị tác động thuộc tội hủy hoại rừng trong
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>trong trường hợp chính chủ rừng có hành vi hủy hoại rừng đã được Nhà nước</small>
<small>Thứ hai, mặt khách quan của tội phạm</small>
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài cua tội phạm, bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, cơng cụ,
<small>của tội phạm.</small>
năm 2015 thì hành vi khách quan của tội hủy hoại rừng gồm các hành vi đốt,
<small>phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác huỷ hoại rừng. Quy định trên không</small>
định nghĩa cụ thể từng hành vi, do đó dù Thơng tư 19/2007/TTLT-BNN-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/3/2007 Hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản đã hết hiệu lực từ ngày 18/01/2021, tuy nhiên do hiện chưa
<small>theo quy định của thông tư này như sau:</small>
<small>+ Phá rừng trái phép là chặt phá rừng, ken cây và các hành vi khác trái</small>
pháp luật làm cho cây rừng bị chết với bất kỳ mục đích gì. Chặt phá rừng là hành
hành vi dùng dao hoặc búa băm vào gốc cây sau đó đồ thuốc độc hại vào, nguồn
<small>+ Hành vi khác hủy hoại rừng là đào bới, nô min, san ủi, dao, dap ngăn</small>
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">cho cây rừng bị chết hàng loạt, đất rừng bị ô nhiễm [1].
Các hành vi đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác hủy hoại rừng chỉ bị truy cứu TNHS nếu thỏa mãn quy định về định lượng về diện tích hoặc
<small>hợp diện tích rừng hoặc tri gia lâm sản bị hủy hoại dưới mức định lượng quy</small>
định tại khoản 1 Điều 243 BLHS, cần xem xét thêm dấu hiệu nhân thân “đã bi
hoặc đã bị kết án về tội hủy hoại rừng, chưa được xóa an tích mà con vi phạm ” đê xem xét TNHS đối với người thực hiện hành vi.
Về hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình
sự. Tội hủy hoại rừng là tội có cấu thành vật chất, nên việc xác định hậu quả
<small>ra mot trong cac hau qua sau:</small>
+ Huy hoại cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh
rừng tái sinh tự nhiên hoặc rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh tự nhiên có trữ
+ Huy hoại rừng sản xuất có diện tích từ 5.000 m” trở lên; Hủy hoại
+ Hủy hoại rừng đặc dụng có diện tích từ 1.000 m’ trở lên; Gây thiệt
hại về lâm sản trị giá từ 50.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại khơng tính được băng diện tích;
+ Thực vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo
<small>32</small>
</div>