Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ VÀ VÂN CHƯƠNG CỦA THỤY AN TRƯỚC NĂM 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.86 KB, 10 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BƯỚC ĐÀUTÌM HIỂU HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ VÀ </b>

NGUYỄN MINH HUỆ'*’ - ĐÀO THỊ HẢI THANH'**’

<i><b><small>Tóm tắt: Thụy</small></b></i><small> An Lưu Thị Yến(1916-1989)lànữ nhà báo, nhà văn có vị trí quan trọng trong làng báo, làng vàn Việt Nam trước năm 1945. Bên cạnh tư cách vàn nhân với những tác phẩm được đánh giá vào hàng “xuất sắc của phụ nữ Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại khi viết về bà), Thụy An cịn hoạt động tích cực trong tư cách nhà báo khi làm chủ nhiệm hai tờ Đàn </small>

<i><small>bà mới </small></i><small>(1934-1937) tại Sài Gòn vầĐàn bà (1939-1945) tại Hà Nội. Tuy vậy, hoạt động báo chí và văn chng của bà những năm 1930-1945 lại ít được các nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu. Khảo sát hai tờ báo Đàn bà mới và Đàn bà cũng như các sáng tác văn học tiêu biểu của Thụy An, bài viết bước đầu tái hiện hoạt động báo chí và văn chưong của bà, và thơng qua đó đưa ra những đánh giá về đóng góp của Thụy An cho báo chí và văn chưong Việt Nam hiện đại.</small>

<i><b><small>Từ khóa: Thụy An, Đàn bà mới, Đàn bà, báo chí phụ nữ, văn học nữ.</small></b></i>

<i><b><small>Abstract: Thụy</small></b></i><small> An Lưu Thị Yến (1916-1989) was a female journalist and literalist who held a crucial spot in the development of Vietnamese literacy during the time before the year of 1945. Not only being a writer, whose works have been appraised as “the most excellent ones written by a Vietnamese woman”, as argued by Vũ Ngọc Phan in his research “Nhà văn hiện đại” (Modem Writers); Thụy An is also a delicate journalist, given that she was in charge of two newspapers, which are - “Đàn bà mới” (New Women, 1934 - 1937) in Saigon and “Đàn bà” (Women 1939 - 1945) in Hanoi. However, Thụy An’s writing career from 1930- 1945 has not been paid attention by Vietnamese scholars. In examining her two newspapers and some of her other well-known works, this paper aims to reconstruct her journalist and literary career paths and assert her contribution to modem Vietnamese journalism and literature.</small>

<i><b><small>Keywords:</small></b><small> Thụy An, Đàn bà mới, Đàn bà, female journalism, female literature.</small></i>

<b>1. Thụy An tên thật là Lưu Thị Yến </b>

(1916-1989) quê gốc ở làng Hòa Xá, phủ ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (cũ) nhưng sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Thụy An có khiếu thơ văn, từ sớm đã có thơ đăng trên Nam

<i>Phong tạp chí. Năm 1934, lúc 18 tuổi, bà </i>

kết hơn với ông Bùi Nhung (1907-1987). Bùi Nhung (bút hiệu Băng Dương) là con cụ Tiến sĩ Bùi Thức, người Châu cầu, Phủ Lý, Hà Nam; em Phó bảng Bùi Kỷ và Bùi Thị Tuất (vợ của học giả Trần Trọng Kim). Thời gian này, Thụy An bắt đầu nghề báo, cùng chồng lập tuần báo <i>Đàn bà</i>

<small>(’>ThS. - Viện Văn học.Email: (“’ThS. - Viện Văn học.</small>

<small>Email: </small>

<i>mới (1934-1947)</i> ở Sài Gòn, đồng thời vẫn cộng tác với báo Phụ nữ <i>tân văn và một </i>

số tờ báo khác. Năm 1938, bà ra Hà Nội chủ trương tờ Đàn bà (1939-1945). Bà làm nhiều thơ nhưng không in thành tập, chỉ đăng rải rác trên các báo. Bà cũng viết văn xuôi, nổi bật hơn cả là các truyện ngắn và truyện dài. Trong đó truyện dài Một

<i>linh hồn, in dài kì trên báo Đàn bà từ năm </i>

1939, xuất bản thành sách năm 1940 [1], tác phẩm thành công nhất của bà, được Vũ Ngọc Phan đánh giá là “tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam” cho đến khi ông viết <i>Nhà văn hiện đại [6, tr.205].</i>

<b>2. Từ</b> thập niên 1930, số lượng phụ nữ Việt Nam tham gia vào đời sống báo chí và văn chương ngày càng đông đảo. Phụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i>Bước đầu tìm hiểu...</i>

111

nữ cũng tích cực tham gia các hoạt động xã hội. Chính nhờ vào sự tăng tiến vai trị xã hội mà tiếng nói và ý kiến của phụ nữ bắt đầu được lắng nghe, được chú ý. Tuần

<i>báo Đàn bà mới (1934-1937) ra đời trong </i>

bối cảnh này, khi mà phụ nữ Việt Nam đã ít nhiều làm quen với đời sống xã hội hiện đại, thậm chí đã xuất hiện những phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội, nó khiến cho tờ báo sớm có được sự quan tâm chú ý của bạn đọc.

<i>Đàn bà mới ra số 1 ngày 1/12/1934. </i>

Báo do Băng Dương sáng lập (directeur politique), Thụy An làm giám đốc kiêm chủ bút (directrice et rédactrice-en-chef), và Bùi Thị Hiến làm quản lí (administratrice). Trên trang nhất số 1, manchette được thiết kế ấn tượng: lồng trong tên báo là hình vẽ khn mặt ba phụ nữ đại diện cho nữ giới ba miền; ba chữ Đàn <i>bà mới </i>cũng được kết nối với nhau dưới một hàng dây điện - hình ảnh khơng chỉ nhấn vào tính chất hiện đại mà còn hàm ý tờ báo sẽ là sợi dây gắn nối phụ nữ ba miền. Đen số 8 - số Xuân 1935, bìa báo mang giao diện khác khi đưa hình vẽ ba khn mặt phụ nữ lên trên cùng, tách khỏi khung chữ in ĐÀN BÀ MỚI phía

<i>dưới. Từ sổ 25 trở đi, Đàn bà mới sử dụng </i>

manchette mới với phần họa tiết chìm do nữ họa sĩ Lê Thị Lựu cộng tác thiết kế. Giá báo đối với người “nước nhà” mồi số thường là 0$10 (10 xu), giá một năm báo là 5$00 (5 đồng), sáu tháng là 2.60 (2 đồng 60 xu), ba tháng là 1.35 (1 đồng 35 xu). Trong khi đó, giá với người “ngoại quốc” cao hơn với mức 1 năm 6$00, sáu tháng 3.50 (3 đồng 50 xu), ba tháng 2.00 (2 đồng). Đàn bà mới cịn áp dụng hình thức tích điểm nhận quà đối với những độc giả thân thiết. Người mua báo chỉ cần cắt ơ tích điểm có chữ “BON” ở góc dưới cùng bên trái trang 1 mỗi số báo, đủ 50 cái

sẽ được bổn báo tặng “một cái vòng ngọc Iris của nhà Bijouterie Parisienne”. Lúc đầu, báo quán Đàn bà mới nằm trên đường Leman1 sau đổi qua số 43 đường Galliéni12 Khi đổi trụ sở qua đường Galliéni, Đàn bà

<i>mới </i>cũng đổi ngày ra báo từ thứ Bấy sang thứ Hai hàng tuần. Lúc mới xuất bản, báo có dung lượng 16 trang, sau tăng lên 20 trang, rồi 28 trang, những số đặc biệt thì số trang tăng thêm (như số xuân 1935 có 40 trang).

<small>1 Nay là đường Cao Bá Nhạ (Quận 1, TP. Hồ Chí Minh).2Nay là đường Trần Hưng Đạo (Quận 1, TP. Hồ Chí Minh).</small>

Tiếp nối những tờ báo phụ nữ đi trước như <i>Nữ giới chung (1918), Phụ nữ tân văn (1929-1935), Đàn bà mới của Thụy </i>

An vừa có những điểm chung vừa mang những dấu ấn riêng trong công cuộc đấu tranh vì quyền phụ nữ và nữ quyền. Trang

<i>nhất Đàn bà mới số 1 có hí họa giới nữ </i>

gánh, bê gạch vữa và xây tường với lời chú: “Chị em chúng tơi xây nền đắp móng”. Bài xã thuyết in dạng khung nhỏ giữa trang báo chạy nối tiếp suốt 14 trang do Thụy An chấp bút giải thích rõ vì sao lại chọn tên báo là Đàn <i>bà mới. Trong </i>

quan niệm của Thụy An: “Đem một vật gì đã có, phá hoại đi, thay cái khác vào tức là làm một sự mới. Đem một vật có sẵn rồi, sửa đi là mới. Tìm được cái lạ là mới... Suy rộng ra tấn bộ tức là mới, mà thoái bộ cũng lại là mới... Đại khái chữ mới như thế, nay đem nó ghép vơ người, người Đàn bà Việt Nam, tức là tạo ra <i>Đàn bà mới.</i> Song cái mới chưa hẳn đã phải là cái hay, cái hồn tồn, thì người <i>Đàn bà mới không </i>nhắm mắt theo điều mới, làm sự mới, tìm cái mới. Trước khi theo,

<i>làm, tìm, người Đàn bà phải lựa chọn cái </i>

mới thích hiệp với mình, với xã hội mình để điều hịa, gây dựng cuộc đời cua mình

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

112

<i>NGHIÊN CỬU VĂN HỌC,</i>

số 6-2022

và của những người chung quanh mình” (Đàn bà mới, số 1 (1/12/1934), tr. 1,2,3). Theo đuổi mục đích đó, Đàn bà mới “khơng có ý gây dựng cuộc xung đột giữa đàn ông và Đàn bà” mà chỉ “muốn sửa bỏ những tục hủ bại cũ, phá những cái mới lố lăng...”, từ đó mà “quyết đánh đổ hết sức những phản nghịch, do cái dư luận bất chánh, hoặc cái luân lý thiên vị khư khư đứng một chồ định ngăn cản, không chịu theo sự tiến bộ, trong tư tưởng và cuộc sanh hoạt của Đàn bà mới, người mới, đời mới” (Đàn<i> bà mới, số 1 (1/12/1934), </i>

tr. 11,13). Với quan niệm “trời sanh ra hai giống cái, đực, không phải là để phản nghịch nhau, mà chính là để điều hịa với

<i>nhau” (Đàn bà mới, số 1 (1/12/1934), </i>

tr. 11), Thụy An tin tưởng rằng “cùng cha, anh, chồng, bạn, Đàn bà mới tiến theo lý tánh, sự công bằng và lòng nhân đạo, cái đặc điểm tối cao trong tình cảm của người

<i>Đàn bà” (Đàn bà mới, số 1 (1/12/1934), </i>

tr, 14). Trong một tuyên ngôn khác, bài “Kính cáo các bạn” in trang trọng ở trang nhất xác định tôn chỉ của tờ báo là: “tán thành, khuyến khích cơng cuộc tiến thủ của chị em trên đường “hay”, “phải” và vận động cho quyền lợi chị em được xứng đáng, thích hiệp với đời mới”, “suy xét với chị em chỗ hèn kém, chồ thiệt thòi nào cần phải thay đổi, phải phản đối trước”

<i>(Đàn bà mới, số 1 (1/12/1934), tr.l). Vì </i>

đó, Đàn bà mới ra đời, tự xác định “bổn phận” của nó sẽ là “cái trường để chị em cùng nhau học hỏi và bàn luận ý kiến”. Thậm chí, “tơn chỉ của Đàn bà mới rộng hon nữa, nó là cơ quan ngôn luận chung của tất cả các bạn trai gái” (Đàn bà mới, số 1 (1/12/1934), tr.l).

Với tính chất của một tờ báo dư luận, sử dụng “một lối văn giản dị”, <i>Đàn bà mới</i> muốn “bàn luận” “tất cả những vấn đề chỉ, những sự chỉ xảy ra, có can hệ tới

cuộc sanh hoạt về tinh thần và vật chất”, nội dung của tờ báo vượt ra ngồi khn khổ của một tờ báo của đàn bà, thảo luận các vấn đề của đàn bà. Xu thế này càng ngày càng rõ rệt, thậm chí, trong số Xn 1937, dưới bài “Cùng ơng tồn quyền Brévié”, <i>Đàn bà mới đăng</i> thêm lời tái bút thẳng thắn xác nhận rằng “người ‘đàn bà mới’ cần phải biết chánh trị, và như con một nhà thấy cái nhà bị đổ ai khơng có nguyện vọng: nâng đỡ, sửa sang lại! Bao giờ nguyện vọng chung đạt, ta sẽ nói tới nguyện vọng riêng, có muộn gì” (Đàn bà

<i>mới,</i> số Xn 1937 (10/1/1937), tr.4). Vì thế, các bỉnh bút trên báo, ngồi những cái tên nữ tính: Thụy An, Bích Mai, Diệu Trinh, Thu Vân, Thu Linh, Mỹ Lệ, Như Băng,... thường xuyên viết về vấn đề phụ nữ, cịn có sự hiện diện của những người làm báo quen tên như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Ngô Tất Tố, Tế Xuyên,... Tác

<i>phẩm Phật giáo của Trần Trọng Kim xuất </i>

bản sau này được xuất phát từ chính những bài viết đã đăng dài kì trên Đàn bà mới (từ số 17 (13/4/1935) đến số 27 (1/7/1935). Ngoài ra, nhiều biên khảo về tư tưởng, lịch sử, văn hóa xã hội khác cũng xuất hiện thường xuyên trên <i>Đàn bà mới.</i>

Tuy vậy, vấn đề phụ nữ Việt Nam vẫn giữ vị trí trọng tâm trong tờ báo, thể hiện ở tần suất bài và nội dung bàn luận bao quát nhiều khía cạnh cuộc sống của chị em. Đàn bà mới sớm có ý thức địi quyền chính trị cho nữ giới nước nhà, như qua loạt bài Thụy An đòi quyền bầu cử cho chị em:

<i>Cuộc tuyến cử Hội đồng Quản hạt sắp tới - Chị em hãy đòi cho được quyền bỏ thăm (số </i>

10), Những điều <i>cản trở không cho chị em quyền bầu cử và ứng cử (số 11), Chúng ta hãy bỏ thăm cách gián tiếp (số 12),... Đàn bà mới</i> không quên quyền sống của người phụ nữ bằng việc đăng tải những phóng sự điều tra phản ánh chân thực đời sống vất

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i>Bước đầu tìm hiêu...</i> 113

vả, khổ cực của phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ. Đồng thời, <i>Đàn bà mới cũng dành sự </i>

quan tâm cho những phụ nữ may mắn được tiếp cận với văn minh hiện đại. Tờ báo đăng tải nhiều bài viết bổ trợ kiến thức về sức khỏe, thai giáo; các bài viết thường thức

<i>thường thức về nữ công gia chánh. Đàn bà </i>

<i>mới </i>cũng mở ra chuyên mục “trưng cầu ý kiến” làm diễn đàn cho chị em bày tỏ và trao đối ý kiến cá nhân về những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày, cũng như những tâm tư, nguyện vọng thầm kín của chị em. Tờ báo cũng sớm mở ra “Trương nhi đồng” (từ số 2) do Diệu Trinh phụ trách, đăng các câu chuyện cho trẻ em: Em dối

<i>anh, anh gạt em (số 3), Cây sảo thần (số </i>

<i>4), Truyện nàng sẻmẻlé (số 6), Lịch sử trái dưa đỏ (số 9),...cùng nhiều thơ ngụ ngơn </i>

có ý nghĩa triết lí giáo dục,... như một cách thức bổ trợ tri thức về giáo dục thiếu niên nhi đồng cho các bậc làm cha mẹ. Có một điều đáng chú ý là, như chủ trương được ngầm thể hiện trên manchette số ra mắt,

<i>Đàn bà mới </i>dành sự quan tâm cho các hoạt động của phụ nữ khắp ba miền bằng việc mở ra mục “Chuyện Hà thành” (từ số 9) và “Trương Trung Kỳ” (từ số 32). Vì thế mà những vấn đề đang được thảo luận sôi nổi ở Bắc và Trung Kỳ, như nạn phụ nữ tự sát, vấn đề mãi dâm, vấn đề phụ nữ lao động, hay phong trào cải cách y phục phụ nữ, cũng được hiện diện và thảo luận trên Đàn

<i>bà mới.</i>

<i>Như mọi tờ báo đương thời, Đàn bà </i>

<i>mới cũng dành không </i>gian để đăng tải sáng tác văn chương. Thụy An phô bày khiếu thơ với nhiều bài đăng trong mục “Điệu dờn tâm”, còn Băng Dương chuyên về dịch thơ Pháp. Tờ báo cũng đăng truyện dài kì (Tơi làm bồi tàu của Hải Long, từ số 1 đến số 11; Thủy chung của Băng Dương, từ số 1 đến số 68, Cô độc của Thụy An, từ số 38 đến số 69;...). Tuy vậy, mảng văn

thơ của báo khơng đặc sắc. Trong khi đó, hịa vào xu thế hiện đại hóa xã hội theo hình mẫu Âu Tây, <i>Đàn bà mới sớm mở </i>

mục “chớp bóng” để giới thiệu về điện ảnh thế giới, trở thành chuyên mục mới mẻ và hấp dẫn trên tờ báo.

<b>3. </b>Những năm cuối thập niên 1930, Thụy An chuyển từ Sài Gòn ra Hà Nội. Ở đây, bà chủ trương tuần báo <i>Đàn bà </i>

thế vào chỗ tuần báo Đàn<i> bà mới </i>bị đình bản từ năm 1937. Đàn bà ra số 1 ngày 24 tháng 3 năm 1939, trên manchette không ghi danh bộ biên tập, chỉ ở chân trang cuối, phần thường ghi thông tin nhà in và người chịu trách nhiệm xuất bản, mới có thơng tin Thụy An là người quản lí (La Gérante: Lưu Thị Yến dite Thụy An). Trên trang nhất, manchette được thiết kế giản dị, với tên báo <i>Đàn bà để chữ thường </i>in đậm, phía dưới chạy hàng chữ “Tuần báo xuất bản ngày thứ Sáu - Năm thứ Nhất - số 1 - 24 Mars 1939” bằng chữ in hoa. Góc trên cùng bên phải có khung ghi giá báo (0$08) và địa chỉ tòa soạn, tại số 76 Wiele , Hà Nội; đồng thời cũng thông tin về đại lí đứng ra nhận đăng quảng cáo trên báo ở Nam Kỳ (M. Te Xuyên 85, Boresse, Sài Gịn). Báo dàn trang bốn cột, trình bày phần đầu của

<i>Mẩy lời tuyên bố, </i>thông báo với độc giả về chủ trương ra báo và phần đàu bài Trở <i>lại làm nghiêm, nhắc</i> nhở chị em không nên sa đà vào phong trào “vui vẻ, trẻ trung” mà nên quay lại với chức phận của mình. Cịn lại là hình vẽ thiếu nữ thổi sáo và in bài thơ Dở dang của Phi Yến . Trong năm đầu

<small>1 Từ số thứ 2, mục thơ không xuất hiện ở trang nhất mà được in rải rác kèm các bài thuộc chuyên mục khác. Trang đầu chi còn 1 hoặc 2 bài tin tức thời sự hoặc xã luận. Trong số thứ 2, trang 6 có giới thiệu bút danh của một số cây viết: Mmes Lư Khê tức Nguyễn Thị Kiêm, Nguyễn Đức Nguyên tức Phan Thị Nga, Băng Dương tức Thụy An.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

114

<i>NGHIÊN CỬU VĂN HỌC,</i> SỐ 6-2022

tiên (1939), báo in 16 trang. Từ năm 1940, do tình hình giấy in khó khăn, báo giảm cịn 12 trang, có số cịn có 8 trang (số 63, 5/7/1940), về sau có thời gian báo trở lại in 16 trang và có sự điều chỉnh về cách dàn trang. Giá báo một năm ban đầu là 4$00, ngoại quốc và chính phủ đồng giá 8$00, về sau có tăng thêm nhiều lần, đến tháng 11/1944, giá báo tăng đến 0$50 mồi số. số cuối cùng (số 302-302, 7/9/1945) - số đặc biệt chào mừng “ngày Độc lập” gồm hai trang khổ rộng, đăng tin Báo Đàn bà tạm nghỉ để “dọn một đường đi, định một tôn chỉ rộng rãi hcm cho tờ Đàn bà để có thể dự phần đào tạo một tinh thần mới cho phụ nữ Việt Nam ta” cho phù hợp với tình thế hiện thời của nước nhà.

<i>So với Đàn bà mới, tôn chỉ </i>của tờ

<i>Đàn bà đột ngột có</i> thay đổi, khi Thụy An nhấn mạnh vào việc tờ báo này sẽ chủ yếu riêng dành cho phụ nữ. Trong Mấy

<i>lời tuyên bổ, được in trên cả ba số đầu </i>

tiên, Thụy An tin tưởng rằng tờ báo ra đời lúc này là “rất họp với nguyện vọng của phần đông phụ nữ”. Bởi vì theo bà, “các chị ấy đang cần có một tờ báo riêng cho mình. Một tờ báo mà khi đọc tới, các chị tưởng nhận được cả tâm tư mình, một tờ báo các chị có thể tin yêu được như một người bạn thân tín trung thành” (Đàn <i>bà, </i>

số 1 (24/3/1939), tr.l). Vì sao vậy? Bà giải thích, bởi “không phải bất cứ tờ báo nào mệnh danh là báo Phụ nữ cũng có thể làm thỏa mãn được những điều yêu sách rất chính đáng ấy của các chị, vì một lẽ rất giản dị là phần nhiều chủ trương bởi những nhà viết báo đàn ông, những tờ báo ấy khơng ‘hiểu’ người đàn bà mấy”, cịn bởi “chỉ tấm lòng của một người đàn bà mới hiểu được lòng người đàn bà với tất cả những nồi ưu tư, những điều mong ước mà thôi” (Đàn <i>bà, số 1 (24/3/1939), tr.l).</i>

Rõ ràng, sự trưởng thành của phụ nữ và sự nở rộ của phong trào phụ nữ Việt Nam lúc này đã tác động đến quan niệm đấu tranh cho quyền phụ nữ và nữ quyền. Nó lí giải cho bước ngoặt trong chủ trương báo chí của Thụy An, khi muốn gây dựng tờ báo như là một cơ quan ngôn luận, đại diện cho tâm tư tình cảm, nói lên nguyện vọng của phụ nữ - tiếng nói xuất phát từ bản thể nữ giới, khác biệt với những tiếng nói “giả giọng” từ những tờ báo đương thời. Vì vậy, với <i>Đàn bà, Thụy An “đã có </i>

ý lập một tịa soạn do các chị em viết báo chủ trương”, “nếu có vài bạn bên nam giới giúp việc thì chỉ là để giúp những mục thơng thường” và quan trọng hơn “những bạn ấy xưa nay cũng đã có suy nghĩ và kinh nghiệm về nhiều vấn đề phụ nư” (Đàn bà, so 1 (24/3/1939), tr.l).

về việc tổ chức bài vở, trang đầu của báo <i>Đàn bà thường dành riêng </i>cho mục xã luận đăng tải những bàn luận về những vấn đề gần gũi với chị em, tuy nhiên cũng có nhiều bài mang tính thời sự, nhất là trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ Hai đang đến gần. Từ số 8 (12/5/1939), trang 2 được dành riêng cho mục Chuyện riêng do Thu Linh phụ trách. Mục này ban đầu chỉ gồm những lời khuyên ngắn, sau chuyển sang hình thức hỏi - đáp về những vấn đề thường gặp trong đời sống hàng ngày, cách ứng xử, giải quyết mâu thuẫn vợ chồng, con cái, bạn bè,... Các mục liên quan đến việc nữ công cũng chiếm dung lượng đáng kể và khá phong phú: Việc trong nhà chuyên đăng những mẹo vặt giúp ích cho chị em trong cơng việc hàng ngày; Đường

<i>kim mũi chỉ trình bày các kĩ thuật may vá, </i>

từ thô sơ nhất như khâu, đột,... cho đến cách làm một sản phẩm hoàn chỉnh: quần, áo, váy hay cả rèm cửa; Gia chánh hướng dẫn cách làm thế nào để có được một bữa

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>Bước đầu tìm hiểu...</i> 115

ăn ngon, đủ dinh dưỡng và đẹp mắt;... Từ món Tây đến món ta, từ những món ăn giới thượng lưu chuyên thưởng thức cho đến những món bình dân, rẻ tiền đều được giới thiệu chi tiết; Nhi đồng, Thưa bà

<i>ông đốc tờ/ bác sĩ khuyên nêu các vấn đề </i>

liên quan đến việc nuôi dạy con cái, chăm sóc sức khỏe cho các thành viên trong gia đình, chủ yếu là những bệnh tật liên quan đến chị em và trẻ con; <i>Trang nhã/ Tôi muốn đẹp/ Trả lời đẹp, chủ </i>trương Đẹp gắn liền với Khỏe, trình bày các mẹo làm đẹp và hướng dẫn cách tập thế dục, thế thao, ăn uống một cách khoa học để có cơ thề khỏe mạnh, cân đối thay vì cổ xúy chị em chạy theo những mẹo truyền miệng. Cùng với chùm bài “Quý bà quý cô trang điểm bằng cách nào?”, <i>Đàn bà hẳn đã góp </i>

phần khơng nhỏ trong việc định hình xu hướng làm đẹp của chị em phụ nữ thành thị đương thời.

Sáng tác thơ văn được giới thiệu đều đặn, chủ yếu là thơ, văn xuôi (truyện dài, truyện ngắn), kịch. Những tác giả xuất hiện thường xuyên có Thu Thu (bút danh của Thụy An), Duyên Hà, Vân Đài, Hằng Phương, Bàng Bá Lân, Nguyễn Bính, Phạm Ngọc Điên, Trúc Đường,... Băt đâu từ số 68 (9/8/1940), báo có thêm chuyên mục <i>Đàn bà đọc sách do bà Mộng Sơn </i>

phụ trách với mong muốn góp phần khẳng định và nâng cao vị thế/ uy tín của nữ giới trong lĩnh vực phê bình - vốn từ trước nay hầu như chỉ là diễn đàn độc quyền của nam giới. Trong số đó, đáng kể nhất là những ý kiến xoay quanh tiểu thuyết của Nhất Linh: Lạnh<i> lùng </i>(số 68, số 70) hay phản ứng với loại sách được cho là “khiêu dâm”

<i>như cuốn Làm đì của Vũ Trọng Phụng từ </i>

góc nhìn nữ giới (số 72, số 98),...

Sang đầu thập niên 1940, Đàn bà dành sự chú ý nhiều hơn đến “sự tiến hóa của

phụ nữ Việt Nam và bổn phận của họ trước tình thế hiện thời” như chủ đề được nêu lên trong một số đặc biệt của tờ báo (số 130, 21/11/1941). Trong hình dung của tờ báo về “người đàn bà kiểu mẫu của thời đại” có thể thấy, họ chủ trương dung hòa, vừa trở lại con đường xưa cũ, học lại những điều tốt đẹp của các bà mẹ xưa vừa phải “tiến hóa”, học hỏi thêm những điều hay từ quá trình năm mươi năm tiếp xúc với văn minh, học thuật Pháp để “tự đào tạo nên một hạng đàn bà thích hợp với tình thế hiện thời. Một hạng đàn bà có thế làm cái giây liên lạc xứng đáng cho cái thế hệ đàn bà trước và cái thế hệ đàn bà mai sau”

<i>(Đàn bà, số 130 (21/11/1941), tr.l). Hơn </i>

thế, Đàn bà cịn đặt người phụ nữ vào tình thế hiện thời để nhìn nhận vai trị và bổn phận của họ, khơng chỉ với gia đình mà cịn cả với xã hội. Trong đó, vấn đề “nữ tử giáo dục” là điều được quan tâm trước nhất. Coi sự học chính là bước tiến bộ đầu tiên của bạn gái, báo Đàn bà lí giải những quan niệm sai lầm về việc học của nữ sinh, khẳng định sự cần thiết phải gây dựng nền giáo dục của/dành cho phụ nừ, thơng qua việc nhìn nhận lại lịch sử nền nữ học xứ Bắc Kỳ để nêu bậc thực trạng cùa việc giáo dục hiện thời. Bên cạnh đó, để rộng đường dư luận, những bài viết, bài dịch về vấn đề nữ học ở nước ngồi cũng từng bước được giới thiệu. Báo cịn tích cực xiển dương những tấm gương phụ nữ mới giỏi giang, thành đạt, những tấm gương giáo dục con cái tiêu biểu. Tiến xa hơn một bước, nhiều bài viết tập trung vào vấn đề chức nghiệp của phụ nữ, khuyến khích phụ nữ đảm đương một nghề nghiệp cụ thể, không chỉ thi đua tranh tài với đàn ông mà quan trọng hơn, từng bước tiến ra ngoài phạm vi gia đình, tham gia vào các hoạt động bên ngồi (số 122, 123, 255). Có thể nói, thốt khỏi khơng gian chật hẹp

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

116

<i>NGHIÊN CỬU VĂN HỌC,</i>

số 6-2022

của gia đình với những công việc nội trợ, báo đặt người phụ nữ trong bối cảnh hiện thời để khẳng định vai trò, sức ảnh hưởng và cổ động phụ nữ tham gia phát huy vai trò xã hội của mình.

Đấu tranh cho nữ quyền, báo <i>Đàn bà </i>

khơng chỉ trình bày quan điểm của họ mà cịn thẳng thắn đối thoại với những quan điểm của đàn ông về vấn đề phụ nữ (số 9, 36). Đồng thời, báo cũng nhắc đến những vấn đề (được cho là) bị lãng quên hoặc chưa được quan tâm, như sự cần thiết của việc ghi nhận cơng sức chính đáng của người phụ nữ khi làm nội trợ hay khi đi làm cơng ở ngồi xã hội. Ở phạm vi sinh hoạt đời thường, báo Đàn bà cũng không ngại ngần chê trách những thói hư tật xấu của phái mạnh, đề xuất cách ứng xử nên có của giới mày râu đối với phụ nữ, bênh vực cho nhu cầu thầm kín nhưng chính đáng của cá nhân người phụ nữ,... Bước ra ngoài ngưỡng cửa gia đình, Đàn bà cũng quan tâm đến những vấn đề nhạy cảm, mặt trái của xã hội đương thời như nạn mãi dâm, chửa hoang, thanh niên tự từ. Vì vậy, có thể nói, với nỗ lực của Thụy An và cộng sự, Đàn <i>bà </i>đã trở thành một diễn đàn phụ nữ quan trọng, có đóng góp lớn cho phong trào phụ nữ Việt Nam vào nửa đầu thập niên 1940.

<b>4.</b> Bên cạnh sự nghiệp báo chí, Thụy An cũng có sự nghiệp văn học sơi nổi và đa dạng. Bà viết khá nhiều, cộng tác với

<i>nhiều báo như Nam Phong, Phụ nữ tân </i>

<i>văn</i> trước khi đăng trên hai tờ báo do bà làm chủ bút. Trên Đàn bà mới và Đàn bà, Thụy An đăng hơn hai chục bài thơ, một ít tản văn, cịn lại là truyện dài và truyện ngắn. Bút danh Thụy An chỉ dùng để kí dưới các sáng tác thơ và tản văn, còn lại với truyện ngắn, truyện dài, bà hầu hết đều kí bút danh Thu Thu.

Thơ Thụy An chủ yếu đăng trên Đàn

<i>bà mới. Nhìn</i> chung, thơ Thụy An mới về nội dung nhưng cũ về hình thức. Dù xuất hiện sau giai đoạn bùng nổ của phong trào Thơ mới, nhưng những sáng tác thơ những năm 1934-1938 của Thụy An hầu như không thể hiện sự cách tân về hình thức thể loại. Chủ đề chính trong thơ Thụy An là nữ quyền với nội dung cổ động cho phong trào phụ nữ. Đó là tiếng lòng thiết tha của một người đồng giới nhắn gửi tới các bạn nữ lưu ý thức về cuộc đời bị “giam hãm mãi trong lồng” của những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu, “chẳng được tự do đem hoạt động/ Mỏi mòn... già tới, thế là xong!”

<i>{Đàn bà mới, số 1; bài Cao bay). Đe thoát </i>

khỏi cuộc sống “tuy an nhàn nhưng buồn tẻ” ấy, chị em “đừng ngại ngùng, lưỡng lự”, mau mau “đem trí, đem tài lực tuổi xuân/ Làm tổ, kiếm mồi, vui hoạt động/ Đua nhau cất tiếng hót vang lừng” <i>{Đàn bà mới, số 2; bài Rủ bạn phiêu lưu). Thơ </i>

Thụy An giàu tính hiện thực khi phản ánh chân xác tình cảnh khổ cực của kiếp người trong cõi hồng trần, đặc biệt là thân phận người phụ nữ, từ những người bán sức lao động “lấy cơm thô vài bát để cầm hơi cho hết đời mình”, “suốt đời chịu tối tăm lem luốc” <i>{Đàn bà mới, số 6; bài Lòng quên) </i>

đến những cô gái lầu xanh “sống nhơ, sống hổ” đến mức buông xuôi mặc kệ cái chết của bao người vì “những bịnh xấu xa, ghê gớm” <i>{Đàn bà mới, số 8; bài Xuân hận).</i>

Neu thơ Thụy An chủ yếu đăng ở <i>Đàn bà mới thì văn xi của bà đa phần được </i>

đăng trên Đàn bà. Các truyện dài đăng trên

<i>Đàn bà của Thụy </i>An gồm: Một linh hồn

<i>(từ số 1 đến số 45), Cô độc (từ số 46 đến số 76) và Nước trong nguồn (bắt đầu đăng từ </i>

số 226, đến số 302-302, báo tun bổ tạm ngừng thì vẫn cịn dở dang). Một linh hồn [1] là tác phẩm nổi tiếng nhất của Thụy An. Trong Nhà <i>văn hiện đại</i> (quyển Tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>Bước đầu tìm hỉêu...</i>

117

tập Hạ), Vũ Ngọc Phan xếp Thụy An vào nhóm nhà văn viết tiểu thuyết xã hội và lựa chọn giới thiệu duy nhất tác phẩm này. Đánh giá về tác phẩm, Vũ Ngọc Phan cho rằng đây là một tiểu thuyết tình cảm hiếm hoi của phụ nữ viết về phụ nữ: “Hiểu đàn

<i>bà sao bằng đàn bà [...] nên người ta vẫn </i>

mong chờ những tập tiểu thuyết tình cảm giá trị của phái đẹp” [6, tr. 1202], Trong quan sát của Vũ Ngọc Phan, bên cạnh tính chất tình cảm, màu sắc tơn giáo là một trong những điểm đặc sắc của tác phẩm. Sự mộ đạo làm nên sự khác biệt trong tính cách của các nhân vật, giúp họ tránh khỏi sự “sôi nổi, điên cuồng. Họ là những tâm hồn bình thản, chịu đựng được đau đớn và sẵn lịng hy sinh” [6, tr. 1207], Vì thế, với những đặc sắc đó, ơng cho rằng “Một linh

<i>hồn</i> cũng đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay” [6, tr. 1205], Đánh giá về nghệ thuật tiểu thuyết này, Từ <i>điển văn học (bộ mới) </i>

cũng ghi nhận rằng, dù chỉ xoay quanh cuộc sống của hai mẹ con Bảy Thanh và Tường Vân nhưng tác giả đã “tổ chức các chi tiết, đã mở rộng nhiều mối quan hệ, nhiều chiều không gian, thời gian, với rất nhiêu biến cố hấp dẫn và việc “soi chiếu nhân vật Bảy Thanh từ nhiều chiều, nhiều điểm nhìn khác nhau” cho thấy “ngòi bút Thụy An đã rất hiện đại so với các cây bút cùng thời đại với bà” [5, tr.1010]. Truyện dài còn lại - Cơ độc xoay quanh câu chuyện tình u và hôn nhân của hai thanh niên tân thời là Văn và Lê1. Vượt lên định kiến của xã hội, tình cảm sơi nổi, chân thành, lịng kiên định và sự chăm sóc của Văn đã khiến sức khỏe của Lê dần hồi

<small>1 Truyện từng được đãng trên Đàn bà mới, từ số 38 đến số 69. So với bản này, bản in trên Đàn bà có khác một chút ở một vài chi tiết nhị nhung khơng ảnh hưởng nhiều đến nội dung của truyện.</small>

phục, thậm chí gần như khỏi hẳn bệnh ho lao. Bên cạnh việc tạo nên một câu chuyện tình lãng mạn hợp thời, đề cao sức mạnh kì diệu của tình ái, giá trị của truyện cịn nằm ở khả năng miêu tả tâm lí tinh tế, sâu sắc, nhất là khi tác giả đi sâu vào những ám ảnh, day dứt, tự ti vì bệnh tật, những suy nghĩ khi đứng giữa lằn ranh giữa sự sống và cái chết của Lê cũng như diễn tả những chiêm nghiệm về trạng thái cô độc của các nhân vật. Mỗi người, không chỉ Lê mà cả Văn luôn tự giam mình trong thế giới riêng, dù cố gắng thấu hiểu bạn đời. Họ sống với nhau, yêu thương nồng nàn, có thế chết vì nhau nhưng ngược lại, nhiều khi sự ích kỉ khiến họ chỉ nghĩ đến mình, cho mình. Chính điều đó đã đẩy họ ra xa, mỗi người cô độc trên hành trình yêu và sống của mình.

Những truyện ngắn đăng trên Đàn

<i>bà của Thụy An hầu hết xoay quanh đề </i>

tài gia đình, các nhân vật được đặt trong những mối quan hệ rất đồi đời thường: vợ - chồng, cha mẹ - con cái, anh chị em,... với rất nhiều tình huống khó xử, những khác biệt về tính cách, quan niệm sống, lối sống. Trong đó, có những bức tranh gia đình đầm ấm, cảm động, đầy ắp tình yêu thương, trìu men giữa các thành viên

<i>{Mớ tóc dài, Gối run mà vẫn ra mầu trẻ trung, Có con thì gả chồng gần, Bức thư nửa chừng, Một già một trẻ,...), cũng có </i>

khơng ít những bi kịch, mâu thuẫn cay đắng phơi bày sự phản trắc, bạc bẽo của lòng người (như người đàn ông ngoại tình, về nhà phụ rầy vợ để đến với người tình trong <i>Một người chồng; như người đàn </i>bà lấy chồng như lòng vần hướng về người yêu cũ trong Hồn bướm; như những đứa con coi vật chất là trên hết, bỏ mặc người mẹ trong căn nhà tan hoang với nỗi thương nhớ người chồng đã qua đời trong truyện

<i>Tìm lẩy bóng...). Nhìn chung, truyện </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

118 <i>NGHIÊN CỬU VĂN HỌC,</i>

số6-2022

ngắn Thụy An có cốt truyện khá đơn giản, khơng có những xung đột gay cấn hay tình tiết giật gân hay những cảnh huống éo le mà chủ yếu đi sâu miêu tả những chuyến biến tâm lí để làm tiền đề lí giải cho lựa chọn và hành xử của mỗi cá nhân tnrớc biến cố đời sống.

Mối quan hệ vợ chồng có lẽ là điều mà Thụy An bận tâm nhiều nhất. Đọc truyện của bà, ta thường hay gặp những cặp vợ chồng khơng có sự thấu hiểu, đồng cảm. Có thể nhìn nhận mâu thuẫn, khoảng cách giữa họ xuất phát từ sự bất mãn về đối phương hoặc hủ tục cho phép người chồng được “năm thê bảy thiếp” nhưng nguyên nhân chính theo Thụy An là sự bạc bẽo, thay lòng đổi dạ của đàn ơng. Điều đó thể hiện dưới nhiều hình thức và ở nhiều mức độ khác nhau: mua chuộc vợ để lấy lẽ (Chiếc váy sồi), đưa người tình về nhà cơng khai địi li hôn với vợ

<i>(Một người chồng), sa ngã trong lúc cơ </i>

đơn, lừa vợ nhận con riêng của mình làm con nuôi (Mười sáu năm sau), lấy hết tiền bạc của vợ để ni vợ lẽ (Chính <i>tơi đã giết hắn),...</i> Trong hồn cảnh đó, người VỢ CĨ thể hồn tồn khơng biết (cơ Lan trong Mười sáu<i> năm sau, cô </i>Thúy trong

<i>Ba người quân tử), hay thản </i>nhiên chấp nhận, coi đó là chuyện tất nhiên (chị Bính

<i>trong Chiếc vảy sồi), hoặc phẫn nộ trừng </i>

trị kẻ lừa gạt (bà Mão trong Chính tơi đã

<i>giết hắn), hay dốc hết tâm trí vào canh bạc </i>

cuối cùng giành chồng lại từ tay kẻ thứ ba (Mỵ trong Một <i>người chồng)... Dầu vậy, </i>

dù lựa chọn cách hành xử như thế nào thì trong những tình huống đó, người phụ nữ vẫn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi. Vì thế, ngồi việc nêu lên một thực trạng phổ biến đương thời, Thụy An lên tiếng bày tỏ sự cảm thông, bênh vực cho những chị em đồng giới của mình.

Thụy An cịn có nhiều truyện ngắn cảm động về tình mẫu tử. Những người mẹ hiện lên với nhiều tính cách khác nhau, cũng không thiếu những tật xấu vụn vặt nhưng đều có tấm lịng u chồng thương con vơ hạn, hết lịng vun vén cho gia đình. Đó là bà Liên trong Mẹ ơi! Mẹ

<i>hời! Mẹ thương con nào? chỉ </i>mong đám con được hòa thuận, yêu thương nhau, là Nghi trong Bức thư <i>nửa chừng biết nén nồi </i>

bực bội, tự ái để thay chồng yêu thương

<i>chăm sóc mẹ chồng, là Bích trong Con </i>

<i>anh, con em, gác nồi buồn bị phụ tình, </i>

nhận lời chăm sóc hai đứa con của người anh họ nuôi cũng là người yêu cũ... Tác giả có xu hướng đề cao sức mạnh của tình yêu thương, đặc biệt là sự trong sáng, bao dung của con trẻ, Vì thế, trong nhiều hồn cảnh, sự u thương vơ điều kiện như thế

<i>có thể hồi sinh trái tim đã chai sạn (Lại </i>

<i>sống), có thể níu giữ những tâm hồn chực </i>

sa ngã, lầm lạc (Ba tồi lắm, Mong chờ,

<i>Truyện một nữ sĩ)...</i>

Một số truyện viết về đề tài tình ái, đặt ra vấn đề xung đột giữa tình ái và tình

<i>thân (Tập nhật ký của người mẹ, Con anh con em), giữa tỉnh ái và tôn giáo (Tâm sự một nhà tu hành). Tuy nhiên, thay </i>vì để nhân vật đưa ra các lí lẽ để biện minh cho sự lựa chọn của mình hoặc đặt họ vào những tình huống éo le, đẩy lên đến cao trào buộc phải lựa chọn, Thụy An thường dựa trên những chi tiết nhỏ, lấy đó là yếu tố tác động làm chuyển hướng dòng cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật, từ đó đưa ra lựa chọn khác. Đó là cuốn nhật kí ghi lại kỉ niệm của mẹ khiến Dung cảm động nhận ra tình yêu của mẹ, để nàng quyết định từ bỏ kế hoạch đi trốn cùng người yêu; là đôi mắt thẳng thắn và vẻ mặt hằn nếp đau khổ mới mẻ của Hưng khiến Bích “tắt ngay” ý nghĩ thay người đã mất để chăm sóc cha con Hưng; là tiếng

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>Bước đầu tìm hiểu...</i>

119

chuông chùa thỉnh trước bàn thờ Phật và cuốn kinh tụng hàng đêm đã khiến nhà sư ngộ ra “chỉ duy diệt tính diệt tâm ấy là lịng được bình thản” dù trước đó lịng đã dậy sóng vì được mời đi niệm cho tình địch cũ... Song trong một số trường hợp, cách giải quyết mâu thuẫn như vậy khiến nhiều truyện có kết thúc giáo điều, gượng ép, chưa phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật, như sự thay đối thái độ đột ngột của người dì ghẻ đối với hai đứa con chồng trong <i>Em ơi, cởi áo giả dì, hay việc </i>

người đàn ơng ngoại tình bỗng dưng thấy chán ghét người tình và quay trở về với vợ trong <i>Một người chồng...</i>

<b>5. </b> Tóm lại, trong giai đoạn 1930-1945, Thụy An đã là người phụ nữ sớm tham dự sâu sắc vào quá trình hiện đại hóa văn chương và xã hội Việt Nam, trực tiếp tham gia và có tác động lớn đến phong trào phụ nữ Việt Nam nhằm đấu tranh cho quyền phụ nữ và nữ quyền thông qua các hoạt động báo chí và văn chương. Với báo chí, bằng việc chủ trương và điều hành hai tời

<i>báo Đàn bà mới và Đàn bà, Thụy An đã </i>

tạo lập nên những diễn đàn phụ nữ nổi bật trong đời sống dư luận đương thời. Với sáng tác văn chương, Thụy An cũng xác lập cho mình một phong cách riêng khi đặc biệt chú trọng tới các vấn đề phụ nữ. Khơng khó để nhận ra Thụy An dành sự ưu ái cho phụ nữ và trẻ em vì trong sáng tác của bà, những nhân vật này thường được xây dựng với những đường nét tươi sáng, nhẹ nhàng. Nữ chính trong những truyện ngắn của Thụy An phần đơng có ngoại hình xinh đẹp, tính cách dịu dàng, khéo léo, đảm đang nữ cơng gia chánh, một số người cịn có nghề nghiệp riêng,... Có thể xem đó là một cách mà Thụy An hình dung và tơ vẽ hình tượng “người đàn bà kiểu mẫu” như bà và các đồng sự ở báo

<i>Đàn bà</i> vẫn chủ trương và cổ động chị em

noi theo. Tất nhiên, điều này phần nào tác động đến sự đa dạng, phong phú trong hệ thống nhân vật, nhất là nhân vật nữ của Thụy An, nó khiến cho những truyện ngắn của Thụy An đa phần xoay quanh cuộc sống, cách sinh hoạt, cách nghĩ của những phụ nữ tân thời, thuộc tầng lớp trung lưu trở lên, chưa vươn tới được với đơng đảo phụ nữ bình dân, phụ nữ lao động hay phụ nữ ở các vùng nông thôn nghèo, về mặt nghệ thuật, Thụy An sở hữu khả năng phân tích tâm lí sắc sảo, nó khiến cho sáng tác của bà thường gợi cảm xúc chân thành và để lại dư âm sâu sắc trong lòng độc giả. Với tất cả những thành cơng và đóng góp ấy, khơng khó để thấy Thụy An thực sự đã có được một vị trí quan trọng trong dịng chảy văn học nữ Việt Nam hiện đại. Theo đó, nghiên cứu về hoạt động báo chí và văn chương của Thụy An trước năm 1945 là một công việc cần thiết để bổ khuyết một khoảng trống văn học sử. Đồng thời qua đó, cũng góp phần giúp thế hệ sau có những đánh giá khách quan, cơng tâm về đóng góp của bà đối với hoạt động báo chí, văn học và phong trào phụ nữ Việt Nam

<i><small>trên báo chỉ tiếng Việt trước năm 1945, Nxb. </small></i>

<small>Khoa học xã hội, Hà Nội.</small>

<i><small>[3] Đàn bà (1939 - 1945), Sưu tập số hóa của </small></i>

<small>Thư viện Quốc gia Pháp.</small>

<i><small>[4] Đàn bà mới</small></i><small> (1934 - 1937), Sưu tập số hóa của Thư viện Quốc gia Pháp.</small>

<small>[5] Phạm Thị Thu Hương (2000), “Một linh </small>

<i><small>hổn”, trong Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế </small></i>

<small>giới, Hà Nội.</small>

<small>[6] Vũ Ngọc Phan (1945), “Thụy An (Lưu Thị </small>

<i><small>Yen)”, trong Nhà vẫn hiện đại (Phê</small></i><small> bình văn học) (Quyển tư, tập Hạ), Nxb. Tân Dân. Hà Nội.</small>

</div>

×