Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Bán đấu giá tài sản - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.72 MB, 77 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

DANG THỊ TAM

BAN DAU GIA TAI SAN - MOT SO VAN DE

LY LUAN VA THUC TIEN

Chuyên ngành: Luật dân sự va Tố tung dân sự

Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn

HÀ NỘI - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>lơi xin cam đoan đây là cơng trình</small>

nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận

<small>khoa học của luận văn chưa từng được ai cơng</small>

bồ trong bat kỳ cơng trình nào khác.

<small>Đặng Thị Tâm</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Dau giá tài sản là một hình thức mua bán tài sản đặc biệt. Dé đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật về đấu giá của Việt Nam từng bước được xây dựng và dần hoàn thiện. Với đề tài nghiên cứu “Bán đấu giá tài sản — một số van dé lý luận và thực tiễn” đặt ra trong bối cảnh cảnh bán dau giá tài sản với nhiều biến động, ngày càng trên diện rộng nhưng thiếu hành lang pháp lý. Vấn đề nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho bán đấu giá tài sản dau dang dat ra hết sức cần thiết va đang là sự trông đợi của cả xã hội. Trong quá trình nghiên cứu, do van dé khá rộng và chưa thu hút được sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu nên tác giả gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các Thầy Cơ giáo trường Đại học Luật Hà Nội. Và đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thay giáo — TS. Nguyễn Minh Tuan đã tận tình hướng dẫn dé hoàn thành luận văn này.

<small>Đặng Thị Tâm</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

MỞ ĐẦU ... - -52- S122 112121221211210112112121121111111111 2111111012111. dye | CHUONG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VE BAN ĐẦU GIÁ TÀI SAN Ở VIỆT NAM

<small>HIEN NA Y...-- 55-52 S21 21 21111211211211 2111110111111. 1111110111111 1 re 5</small>

1.1.Khái niệm bán đấu giá tài sản...--- 2-52 St te eEeEettrrrrrrrrerye 5 1.2. Đặc điểm bán đấu giá tài sản:...-- ¿5-5 ST E22 2121121121 111 1x rtee 7 1.2.1. Chủ thé bản AGU giá tài SGN? ... - 2-52 Ss2SE+E‡EESEEEEE2EEEEEEEEEEEErrkererrees 7 1.2.2. Về nội dung bán đấu giá tài SAN? ...- ¿5-5252 SE‡E2ESEEEEEEEEEEErkerkrkeeo 8 1.2.3. Phương thức AGU giá tài SGN .oececceccccesceseesessesesseseesessesssessssessestsseseseeseeseses 8 1.2.4. Hình thức đấu giá tài SAN ceccecesceseecesceseesesesessesesessesessesseseesesesessssveseeseaes 9 1.3. Ý nghĩa của việc BDGTSS oo... eecccccecccscscssescssessesessescssessesessesssatsessesnessees 10 1.3.1. Đối với cá nhân, t6 CHUCE! ceccescscessessessecsessessessesssessecsessessesssssssissessesseeseesee 10 1.3.2. Đối với NAA HHỚC:... 52-52 5£ SE‡EỀEEEEE211211212211101111111121111 11 T1 e6 10 1.3.3. Đối với thị trường bắt động SảH:...- - 255cc EEEEEEErerrrkererrred II 1.4. Hợp đồng ban đấu giá tài sản: ...---- 5c St E21 111111 1x tk. 11 1.4.1. Chủ thé của hợp đồng bán đấu giá tài sản...- 2-5525 Ss+ce+eerszrered 13 1.4.2. Dia vị pháp ly của các chủ thé trong hop đồng BĐGTS: ... 14 1. 5. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật BĐGTS ở Việt Nam:... 19 1.5.1. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1 996... 2 + +E+e++EEE+E+E+E+E+trtresees 19 1.5.2. Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2005 ccccccccccsssscsssesesvsvsvsvsvsvsvsvevevsvsseseseees 20 1.5.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010:...-- 2 2+2 +s+e+s+E+e+t+E+E+e+t+esees 21 1.5.4. Giai đoạn từ năm 2010 An NAY? vercecececssvssssessssessssvesesseseesessesesseseseseseess 24 KET LUẬN CHƯNG ...---- 2-52 S+SE+EEEEEEE2EE E2 EEEEE1211121111111 111.1. 29

CHUONG 2: THỰC TRANG PHÁP LUẬT VÀ THUC TIEN BAN ĐẦU GIÁ

TAI SAN Ở VIỆT NAM HIEN NAY ...- G56 SE EEEEEEEEkEEEkEErkrrkerrkee 30 2.1. Thực trạng pháp luật bán đấu giá tài same... cece eens 30 2.1.1. Về tính hệ thong của pháp luật đấu giả: ...--:--+©2cs+cscs+eeresrzcee 30 2.1.2. Về tài sản bán AGU giá::...--¿- + 5+ Sk‡EE+EEEEEEEEEEEE112111121121211111 111L e6 31

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

2.1.5. Người tham gia AGU giú... - c5 EEEkEEEEEEEEEEE1112111111111 11 11x16 38 2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật bán đấu giá tài sản...- - 5-5: 39 2.2.1. Bat cập trong thực hiện pháp luật về đấu giá quyên sử dụng Gat: ... 39 2.2.2. Thực tiên bán đấu giá tài sản thi hành án dân SU? ... .---- - --+‹ 47 2.2.3. Việc thành lập hội đồng BDGTS trong trường hop đặc biệt: ... 52 KET LUẬN CHƯNG 2... 2-5-5 SE E1 111111111111 111111 1x11 re. 55 CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUAT VE BAN ĐẦU GIÁ TÀI SẢN...56 3.1. Một số nguyên nhân dẫn đến những bat cập trong BDGTS... 56 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về BĐGTS:... 61

3.2.1. Xây dung Luật đấu giá va các văn bản pháp luật về đấu giá một cách thống nhất:...- -5:- St Et+E‡EEE 2E EEEE151121211211111121.1111111211111.11 211.0. 61 3.2.2. Một số vấn dé can pháp điển hóa khi xây dựng Luật đấu giá ... 62 3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực dau giá quyên sử dung dat... 64 3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực BĐGTS thi hành án: ... 64 3.2.5. Cứng cố, kiện toàn tổ chức bán đấu giá tài sản...---2-cs©s+cs+ce: 65 KET LUẬN CHUONG 3...--- SE 1E E11 11E111111111111111111 1111111. 67 KẾT LUAN 0ooocccceccccccccccccsscssescsscscsscsscsesscsvssesucsessesusstssesssaesssatsussesisssetsesstsstsesesneeess 68 DANH MỤC TÀI LIEU THAM KHAO... cccccsscssssssssssessssseessssesessseesssseeessseeees 69

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

7 Pe gà eS E <sup>: Bán đấu giá tai san</sup>

<small>: Bộ luật dân sự</small>

: Hội đồng nhân dân

<small>: Tòa án nhân dân: Thi hành an dân sự</small>

: Ủy ban nhân dân

<small>: Viện kiêm sát nhân dân</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, tài sản vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị kinh tế, nó trở thành yếu tố quan trọng trong giao lưu dân sự. Với vai trò và ý nghĩa to lớn đó, theo quy định của BLDS, để phát huy quyền chủ động của các cơ quan nhà nước và cá nhân, hạn chế những tiêu cực phát sinh trong quá trình quản lý và sử dụng tài sản cần thiết phải có những quy định chặt chẽ hơn. Ở nước ta BĐGTS với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rat sớm và ngày càng khang định vai trị của nó trong đời sơng xã hội theo yêu cầu đôi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý Việt Nam, nội dung BDGTS vẫn chưa

được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và tồn diện.

Chăng hạn, dưới góc độ khoa học, hàng loạt vấn đề cần được làm sáng tỏ để có quan điểm thong nhat va day đủ như lich sử, khái niệm, bản chat pháp lý và các loại tài sản bán đấu giá, lịch sử phát triển của các quy phạm về lĩnh vực này hay việc tông kết và đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định về BĐGTS, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng... Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về BĐGTS và Thông tư số 03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số Quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Sau 05 năm thực hiện Nghị định 05/2005/NĐ-CP đã bộc lộ một SỐ bất cập, vướng mắc và có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn, để đáp ứng yêu cầu này, Chính phủ đã ban hành nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 về BĐGTS (sau đây gọi tắt là Nghị định 17/2010/NĐ-CP) thay thế nghị định số 05/2005/NĐ-CP có hiệu lực ngày 1/7/2010. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những van đề lý luận và thực tiễn về BDGTS, sự thé hiện chúng trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đánh giá việc áp dụng những quy định của pháp luật trong thực tiễn để hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về lĩnh vực này trong giai đoạn hiện nay khơng những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà cịn là vấn đề mang tính cấp thiết. Tác giả cô gang trong chừng mực nhất định làm sáng tỏ một số van dé được coi là điểm

<small>nóng hiện nay- “Bán đâu giá tài sản - những vân đê lý luận và thực tiên”.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

về mặt thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, liên quan tới van dé này hiện có một số bài nghiên cứu từ các tạp chí, cụ thể là Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư Pháp số 2/2012 với bài viết của ThS. Dinh Duy Bằng: “Một số vướng mắc bán dau giá tài sản để thi hành án”; Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư Pháp số 6/2012 với bài viết của tác giả ThS. Lê Ngọc Thạnh với dé tài: “Hoạt động đấu giá — góc nhìn so sánh pháp luật thương mại và pháp luật dân sự”; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6/2012 của tác giả Nhân Kiệt với bài viết: “Hội đồng bán đấu giá tài sản trong trường hợp đặc biệt — nên hay không”; Tap chi Dân chủ và Pháp luật số 7/2013 của ThS. Lê Thị Hương Giang với bài viết: “Tai sao tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp không muốn bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự”; Tạp chí dân chủ và pháp luật số 12/2013 của tác giả ThS. Trần Tiến Hải với bài viết: “ Bất cập trong thực hiện pháp luật về dau giá quyền sử dụng đất”; Tạp chí Dân chủ và Luật học số 6/2011 của tác giả Hải Dương với đề tài:”Cần sớm khắc phục một số bat cập về bán đấu giá tài sản”; Tạp chí Kiểm sát số 23 (tháng 12/2011) của tác giả Nguyễn Hồng Sinh với bài viết: “Những khó khăn, vướng mắc trong cơng tác kiểm sát việc bán đấu giá tài sản thi hành án”; Tạp chí Nghề luật số 2 (tháng 4/2012) của tác giả Hà Thị Lan Anh với bài viết: “Những vướng mắc cần được tháo gỡ khi thực hiện bán đấu giá tài sản”; Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga với đề tài “Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay” năm 2012; Mặc dù bán đấu giá tài sản đang được thực hiện khá phổ biến, tuy nhiên những vấn đề pháp lý về bán đấu giá tài sản vẫn chưa được luận giải một cách có hệ thống, sâu sắc và đầy đủ của khoa học pháp lý.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của luận văn:

<small>$.I. Mục dich nghién cứu:</small>

Trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng kết các quan hệ về BĐGTS để làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn các những nội dung cơ bản của

<small>nghiệp vụ BĐGTS theo Luật dân sự Việt Nam và việc áp dụng những quy định này</small>

trong thực tiễn, từ đó xác định những bat cập dé đề xuất hoàn thiện pháp luật .

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>nghiên cứu chủ yêu sau:</small>

Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của nghiệp vụ BĐGTS cho đến nay, phân tích khái niệm, các loại tài sản ban dau giá, chủ thé tham gia bán dau gia, cac don vi duoc tién hanh ban dau giá, trình tự va thủ tục ban dau gia trong các quy định hiện hành dé làm sáng tỏ bản chat pháp lý va những nội dung cơ bản của nghiệp vụ bán dau giá theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật về nghiệp vụ bán dau giá trong thực tiễn nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc quy định nghiệp vụ bán đấu giá và thực tiễn áp dụng nhăm đề xuất và luận chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dung các quy phạm về nghiệp vụ này trong pháp luật Việt Nam.

3.3. Đối trợng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bán dau giá tai san theo pháp luật Việt Nam cu thể là: lịch sử hình thành và khái niệm BDGTS, chủ thé tham gia bán dau giá, hình thức và trình tự, thủ tục bán đấu giá

<small>trong các quy định hiện hành.4. Phạm vi nghiên cứu:</small>

Luận văn nghiên cứu những van dé lý luận và thực tiễn về nghiệp vụ BĐGTS.

<small>5. Phương pháp nghiên cứu:</small>

<small>- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Chủ nghĩa duy vật biện chứng,</small>

phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước

<small>và pháp luật</small>

- Các phương pháp cụ thé: phân tích, so sánh, thống kê, tong hợp. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn

- Hệ thơng hố những van dé lý luận cơ bản về bán dau giá. - Phân tích thực trạng bán đấu giá tài sản hiện nay.

- Phân tích được nguyên nhân dẫn đến bat cập trong BĐGTS.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

hoàn thiện Nghị định 17/2010/NĐ-CP và ban hành văn bản hướng dẫn Nghị <small>định 17/2010/NĐ-CP.</small>

7. Bồ cục của luận văn:

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung của luận văn được chia làm ba phần:

Chương 1: Cơ sở lý luận về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam Chương 3: Hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

1.1.Khái niệm bán đấu giá tài sản

Dau giá tài san là một dịch vụ ngày càng có vi trí, vai trị quan trong trong đời song kinh tế-xã hội. Day là một trong những cách thức linh hoạt dé chuyên quyền sở hữu tai sản từ chủ thé này sang chủ thé khác góp phan thúc đây hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao đổi hàng hố nói riêng phát triển một cách đa dạng. Trong những năm qua, hoạt động BDGTS ở nước ta đã từng bước phat triển,

<small>có những đóng góp quan trọng trong cơng tác thi hành pháp luật, đặc biệt là công tácthi hành án dân sự và xử lý vi phạm hành chính.</small>

Trên thế giới, đấu giá có lịch sử lâu đời (hình thành từ thời kỳ văn minh Hy Lạp

cổ đại — khoảng 500 năm trước công nguyên)” và trong nền kinh tế thị trường, bên

cạnh các phương thức mua bán thông thường, mua bán tài sản thông qua dau giá ngày càng phổ biến. Có nhiều mục đích được đặt ra khi các bên lựa chọn phương thức mua bán này, nhưng mục đích thường được hướng tới là nhằm đưa tài sản tiếp cận với đại chúng người mua, qua đó phát huy cao nhất giá trị hàng hóa của tài sản hoặc đáp ứng cao nhất mục đích khác mà người bán tài sản đấu giá mong muốn đạt được.

Theo quan niệm truyền thống thì bán đấu giá là việc bán hàng hố hoặc tài sản cơng khai có nhiều người cùng muốn mua một tài sản, cho nên mỗi người trả một giá theo nhu cầu, điều kiện kinh tế của mình, người trả giá cao nhất phù hợp với nhu cầu của người bán sẽ được mua tài sản.

Ở Việt Nam, theo Từ điển Luật học thì “BĐGTS là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản”.

Theo khoản 1 Điều 2, Nghị định 17/2010/NĐ-CP thì “8ÐG7S là hình thức bán tài sản cơng khai theo phương thức trả gid lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu <small>? Nghề đấu giá được hình thành ở một số nước Châu Âu, như Hà Lan... từ thế ky XV và thực sự phát triển từ</small>

<small>thế kỷ XVII ở nhiều nước Châu Âu;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

cao nhất”. Đồng thời Nghị định 17/2010/ND — CP cũng xác định các loại tai san bán dau giá chỉ bao gồm:

<small>e Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà</small>

nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;

e Tài sản bảo đảm trong trường hợp pháp luật về giao dich bảo đảm quy định phải xử lý bằng bán dau giá;

e Tài sản nhà nước được xử lý bằng bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất được bán đấu giá theo quyết định của cơ quan nha nước có thâm quyền;

e Các tài sản khác phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật.

e Trong trường hợp cá nhân, tổ chức lựa chọn tô chức bán đấu giá chuyên nghiệp dé bán tài sản thuộc sở hữu của mình thì áp dụng nguyên tắc, trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản quy định của nghị định.

Đấu giá tài sản về cơ bản khác biệt so với đấu giá hàng hoá ở chỗ, néu như ở BĐGTS chỉ thừa nhận phương thức trả giá lên thì bán đấu giá hàng hóa được thực hiện theo hai phương thức là phương thức trả giá lên và phương thức đặt giá xuống.

Thông qua hình thức BĐGTS, quyền lợi của người có tài sản được thỏa mãn một cách tốt nhất, còn người mua sẽ mua được tài sản với giá cả phù hợp, các quyền lợi của người mua liên quan đến tai sản đã mua được đáp ứng một cách

<small>nhanh chóng.</small>

Vậy, BDGTS là hình thức mua bán tài sản được tổ chức cơng khai theo trình tự, thủ tục luật định và được tiễn hành qua phương thức trả giá lên, người trả gid cao nhất không thấp hon giá khởi điểm sẽ duoc mua tài sản. Thông qua các tô chức bán đấu giá, quan hệ mua ban tài sản giữa người có tài sản bản dau giá và người mua được tài sản phát sinh, tổ chức bán đấu giá có nghĩa vụ làm các thủ tục chuyển

<small>giao tài sản và quyên sở hữu tài sản cho người mua được tài sản.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Theo Điều 14 Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định về Tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp bao gồm: “J. Trung tâm dịch vụ BDGTS. 2. Doanh nghiệp BĐGTS, doanh nghiệp hoạt động da ngành nghề có kinh doanh dịch vụ BĐGTS (sau đây gọi

<small>chung là doanh nghiệp BDGTS)”’.</small>

Từ quy định trên cho thấy, người tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp phải là một trong hai loại hình tổ chức được pháp luật quy định là Trung tâm dich vụ ban đấu giá

<small>hoặc doanh nghiệp BĐGTS.</small>

Các Trung tâm và doanh nghiệp BĐGTS bình dang về quyền và nghĩa vụ trong <small>việc BĐGTS theo quy định của Nghị định này, trừ việc BĐGTS là tang vật, phương</small> tiện vi phạm hành chính phải được chuyển giao cho Trung tâm bán theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Dé đảm bảo phù hợp với nhu cầu phát triển dich vụ BĐGTS trong nền kinh tế thi trường, Nghị định cũng giao trách nhiệm cho Sở Tư pháp xây dung đề án về lộ trình chuyên đổi các Trung tâm dịch vụ BĐGTS sang mơ hình doanh nghiệp đối với tỉnh, thành phố có từ 02 doanh nghiệp BĐGTS trở lên và trình UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt (Điều 53 Nghị định 17/2010/NĐ-CP).

Ngoài các t6 chức bán đấu giá chuyên nghiệp, Điều 19, Điều 20 Nghị định 17/2010/NĐ-CP cũng quy định 02 loại Hội đồng:

Mot là: Hội đồng BĐGTS cấp huyện do Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là UBND cấp huyện) quyết định thành lập dé BĐGTS là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do cơ quan tịch thu từ cấp huyện trở xuống ra quyết định tịch thu theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Hội đồng BĐGTS cấp huyện gồm đại diện cơ quan có thâm quyền quyết định tịch thu tài sản, đại diện phòng Tài chính, phịng Tư pháp cấp huyện và đại diện

<small>các cơ quan có liên quan. Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định rõ trách nhiệm của</small>

Hội đồng BĐGTS, trong đó, có trách nhiệm phải “ký hợp đồng với tô chức bán dau giá chuyên nghiệp dé tổ chức này cử đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản của Hội đồng” (Điểm b khoản 1, Điều 21 Nghị định 17/2010/NĐ-CP).

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

trị lớn, phức tạp bao gồm tài sản là trụ sở làm việc, tài sản khác gắn liền với đất (bao gồm cả quyền sử dụng đất) có ngun giá theo số kế tốn từ 1.000 (một ngàn) tỷ đồng trở lên; tài sản khác không phải là trụ sở làm việc, không phải là tai sản khác gắn liền với đất có giá khởi điểm dé bán dau giá từ 100 (một trăm) tỷ đồng trở lên; tài sản có nguồn gốc phức tạp, tài sản đặc biệt quý hiếm, có yêu cầu quản lý đặc biệt của Nhà nước hoặc các trường hợp đặc biệt khác theo quyết định của cơ quan nhà nước có thâm quyên; tài sản khác mà không thuê được tổ chức BĐGTS chuyên nghiệp thực hiện việc bán đấu giá. Đại điện BĐGTS trong trường hợp đặc biệt bao gồm đại diện co quan có thấm quyền quyết định BDGTS, cơ quan tài chính, cơ quan tư pháp cùng cấp và đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan.

1.2.2. Về nội dung bán đấu giá tài sản:

BĐGTS được tô chức bán cơng khai, có nhiều người tham gia trả giá để cho những người có nhu cầu có thể tham gia đấu giá để mua tài sản. Pháp luật dân sự quy định đấu giá là hình thức cơng khai lựa chọn người mua nên mọi vấn đề có liên quan đến cuộc bán đấu giá và những thông tin về tài sản, hàng hoá bán đấu giá phải được công khai cho tất cả những người muốn mua biết bằng hình thức: niêm yết, thơng báo, trưng bày, giới thiệu về tài sản; công khai về thời gian, địa điểm tiến hành bán đấu giá; tên loại tài sản bán đấu giá; số lượng, chất lượng, giá khởi điểm; địa điểm trưng bày, các hồ sơ tài liệu liên quan đến tài sản; công khai họ tên người bán hàng, tên tô chức ban đấu giá và cá nhân, tổ chức đăng ki mua và tại phiên đấu giá, người điều hành bán đấu giá phải công khai các mức giá được trả và họ tên người mua trả giá cao nhất của mỗi lần trả giá...

1.2.3. Phương thức dau giá tài sản

Theo BLDS, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định, phương thức trả giá lên và người trả giá cao nhất, cao hơn hoặc ngang bằng với giá khởi điểm là người được mua tài sản đấu giá là phương thức duy nhất được quy định về mặt pháp lý. Đây là

<small>cách thức mà tại cuộc bán đâu giá, nhân viên điêu hành bán đâu giá nêu lên giá khởi</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

nhân viên điều hành đấu giá sẽ được quyền mua tài sản đó. Phương thức này được áp dụng phổ biến nhất trong các cuộc đấu giá vì nó có lợi cho cả bên mua và bên bán. Bên mua được chủ động đề xuất giá đặt mua nên quan hệ mua bán mang tính tự nguyện rất cao. Còn bên bán thường được lợi về giá cả vì ln có sự trả giá cao hơn giá khởi điểm mà mình đưa ra.

1.2.4. Hình thức đấu giá tài sản:

Theo Điều 33 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, tổ chức BĐGTS có thé lựa chọn một trong các hình thức dau giá sau đây dé tiễn hành cuộc bán đấu giá tài sản: (1) dau giá trực tiếp bang lời nói; (2) đấu giá bằng bỏ phiếu; (3) các hình thức khác do người có tài sản bán dau giá và tổ chức BĐGTS thỏa thuận.

Như vậy, về ngun tắc, ngồi hai hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói, đấu giá bỏ phiếu thì người có tài sản bán và tơ chức ban đấu giá có quyền lựa chọn hình thức dau giá khác, ví dụ: đấu giá qua internet hoặc hệ thống nhắn tin SMS, MMS được thực hiện tương đối phô biến hiện nay. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành cịn chưa có quy định cụ thê về hình thức đấu giá này, trong khi đây là hình thức đấu giá mang tính kỹ thuật rất cao và cũng có rất nhiều rủi ro pháp lý, đặc biệt trong việc bảo vệ quyên, lợi ích của người tham gia dau giá.

Ta thấy, hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói là khi bắt đầu phiên đấu giá, nhân viên điều hành dau giá dùng lời nói của mình dé đưa ra giá khởi điểm. Những người mua sẽ đặt giá cũng bằng lời nói hoặc bằng việc làm dấu hiệu dé người điều hành đấu giá biết. Hình thức đề nghị giao kết hợp đồng trong đấu giá dùng lời nói có ưu điểm là sự trả giá của mọi người mua đều công khai, người trả giá cao nhất được xác định ngay mà không phải mất nhiều thời gid dé so sánh, vi thé mà cuộc dau giá nhanh chóng kết thúc.

Cịn hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu thì được viết ra giấy. Nhân viên điều hành sẽ thông báo mức giá cao nhất qua mỗi lần trả giá trên cơ sở so sánh các mức giá chấp nhận mà họ được thông báo. Việc dau giá kéo dai cho tới lần trả giá liền trước

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

đó. Tuy thủ tục có phức tạp và làm mất nhiều thời gian hơn nhưng hình thức này hạn chế được tình trạng chạy đua của những người mua nâng giá lên một cách quá cao so với giá trị. Sau khi người trả giá cao nhất được mua tài sản sẽ ký hợp đồng với tô chức bán đấu giá bằng văn bản. Nếu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng thì văn bản bán đấu giá phải công chứng.

1.3. Ý nghĩa của việc BĐGTS: 1.3.1. Đối với cá nhân, tổ chức:

Ban chat của BDGTS là quan hệ dân sự về mua bán tài sản thông qua hình thức dau gia nhằm bán được tài sản với giá cao nhất. Hoạt động BĐGTS được diễn ra theo ý chí của chủ sở hữu và người được chủ sở hữu ủy quyền yêu cầu tổ chức có chức năng BĐGTS thực hiện việc bán dau giá.

Tài sản trong đấu giá rất đa dạng. Căn cứ vảo trình tự, thủ tục quy định cho việc BDGTS thì các loại tài sản bán đấu giá có thé được chia ra hai loại tai sản: tai sản thuộc sở hữu của cá nhân, tơ chức được bán theo hình thức tự nguyện và tài sản tư pháp được bán theo hình thức bắt buộc. Tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ

<small>chức là những tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật, ví dụ như</small>

hàng hóa, một số loại đồ cô, tác pham nghé thuat, đồ sưu tam, phương tiện giải trí, bất động sản, đồ dùng gia đình, hàng tiêu dùng, đồ văn phịng, máy tính, v.v. Do vậy đấu giá tài sản là một trong những cách thức linh hoạt dé chuyển quyền sở hữu tài sản từ chủ thé này sang chủ thể khác góp phần thúc đây hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao đơi hàng hố nói riêng phát triển một cách đa dạng.

1.3.2. Đối với Nhà nước:

Tài sản tư pháp bao gồm tài sản dé thi hành án theo quy định của pháp luật về

<small>thi hành án; tài sản là tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ</small>

nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về giao dịch có bảo đảm; hàng hố lưu giữ do người vận chuyền đường biên, đường hàng không; đường bộ lưu giữ tại cảng, kho; tài sản nhà nước phải BĐGTS theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Trong những năm qua, hoạt động BDGTS ở nước ta đã từng bước phat triển, có

<small>những đóng góp quan trọng trong công tác thi hành pháp luật, đặc biệt là công tácTHADS và xử lý vi phạm hành chính.</small>

1.3.3. Đối với thị trường bất động sản:

Đấu giá quyền sử dụng đất là một hình thức chuyển quyền sử dụng đất từ Nhà nước sang tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, thơng qua đó Nhà nước giao dat, cho th đất đối với tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có nhu cau. Việc đấu giá quyền sử dụng đất là lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm, do còn nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề nên đã gặp khơng ít khó khăn trong áp dụng pháp luật khi tác nghiệp và trong xử lý vi phạm khi thanh tra, kiểm tra, do vậy, cần nghiên cứu, sửa đổi, bố sung các văn bản pháp luật có liên quan nhằm loại trừ các quy định chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức trong quá trình đưa các văn bản pháp luật về BĐGTS nói chung và đấu giá quyền sử dụng đất nói riêng vào thực tiễn cuộc sống. Đề hạn chế việc thông đồng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn thu lợi bất chính thơng qua hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất, pháp luật cần quy định chặt chẽ, cụ thê về điều kiện, trình tự thủ tục, yêu cầu đấu giá quyền sử dụng đất.

1.4. Hợp đồng bán đấu giá tài sản:

Có thé hiểu BĐGTS là một quá trình bao gồm 2 giai đoạn: khi tài sản bán đấu giá được chuyển giao từ chủ sở hữu tài sản (sau đây gọi là người có tài sản) sang bên có trách nhiệm thực hiện các thủ tục dé đưa tài sản ra bán đấu giá (pháp luật quy định là các tổ chức có chức năng BDGTS, sau đây gọi là bên bán đấu giá) va khi cuộc đấu giá đã hoàn thành, tài sản được chuyên giao từ bên BĐGTS sang người mua được tài sản, đồng thời quyền sở hữu tài sản (bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt) lúc này cũng được chuyển giao từ người có tài sản sang người mua được tài sản (trừ trường hợp tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì dù cuộc đấu giá đã hoàn thành và tài sản đã được chuyển giao nhưng người mua được tài sản chỉ chính thức có quyền sở hữu tài sản khi bên bán tài sản hoàn thành các thủ

tục đăng ký). Mỗi giai đoạn của BDGTS được pháp luật quy định phải lập thành

hợp đồng với hình thức bằng văn bản mà tùy từng giai đoạn chủ thé của hợp đồng lại có những quyền và nghĩa vụ khác nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Thực tiễn giao dịch dân sự ngày càng phong phú về hình thức cũng như đối

<small>tượng đưa ra giao dich, với những tai sản có giá tri lớn, chưa xác định được giá tri</small>

hoặc có giá tri có thể thay đổi thì chủ sở hữu tài sản có thể lựa chọn hình thức BĐGTS để thu về giá trị cao nhất của tài sản (đây là trường hợp cá nhân, tổ chức lựa chọn tô chức bán đấu giá chuyên nghiệp để bán tài sản thuộc sở hữu của mình). Khơng phụ thuộc vào việc quyền sở hữu tài sản thuộc về cá nhân, tơ chức hay được hình thành thơng qua các hình thức khác, pháp luật quy định mọi cuộc bán đấu giá đều phải do dau giá viên điều hành theo đúng trình tự, thủ tục BĐGTS, trừ trường hợp BDGTS nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất có giá trị lớn, phức tạp hoặc trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện việc bán đấu giá (lúc này Hội đồng bán đấu giá trong trường hợp đặc biệt được thành lập để thực hiện việc bán đấu giá). Đấu giá viên được quy định là những người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện luật định và làm việc thường xuyên tại một tổ chức ban đấu giá chuyên nghiệp, như vậy có thé hiểu việc BDGTS khơng phải do người có tai sản trực tiếp thực hiện mà do tổ chức BĐGTS thực hiện dưới sự uy quyền của chu sở hữu tài san thé hiện bằng hợp đồng BĐGTS.

Hợp đồng BĐGTS là sự thoả thuận giữa bên có tài sản bán đấu giá (hoặc người

<small>đại diện của người đó) và trung tâm dịch vụ BĐGTS hoặc doanh nghiệp có chức</small>

năng BĐGTS (trừ trường hợp đối với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thi Trung tâm dịch vụ BĐGTS hoặc Hội đồng BDGTS cấp huyện căn cứ quyết định tịch thu và biên bản chuyên giao tài sản để tổ chức bán đấu giá mà không phải ký kết hợp đồng BĐGTS). Về bản chất, đây không phải là hợp đồng mua bán tài sản giữa người có tài sản và t6 chức có chức năng BDGTS mà là hợp đồng cung cấp dich vụ BĐGTS, theo đó bên có tài sản yêu cầu tổ chức bán dau giá đứng ra thay mặt mình thực hiện việc bán dau gia theo dung trinh tu, thu tuc ma pháp luật quy định, t6 chức ban dau giá thực hiện công việc được yêu cầu va nhận các khoản phí theo thỏa thuận (trong trường hợp bán đấu giá thành cũng như bán dau giá không thành). Nội dung của hợp đồng về co bản quy định trách nhiệm,

<small>quyên và nghĩa vụ của bên có tài sản bán dau giá, một sơ điêu khoản có liên quan</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

đến người thứ ba trong hợp đồng như người giữ tài sản, người tham gia đấu giá tài sản. Theo quy định tại Khoản 2 - Điều 25 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thì hợp đồng BĐGTS phải được lập thành văn bản và có các nội dung chủ yếu sau đây: Họ, tên, địa chỉ của người có tài sản bán dau giá; tên, địa chỉ cua người BDGTS; Thời hạn, địa điểm BĐGTS; Liệt kê, mô tả tài sản ban đấu giá; Gia khởi điểm của tài sản bán dau giá; Thời hạn, địa điểm, phương thức giao tài sản dé bán dau gia; Viéc thanh toán tiền bán tài san trong trường hop bán đấu giá thành; Các chi phí thực tế, hợp lý cho việc BĐGTS; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm

hợp đồng: Các thoả thuận khác.

1.4.1. Chủ thể của hợp đồng bán đấu giá tài sản

Thông thường, một bên trong hợp đồng BDGTS chính là chủ sở hữu tài sản, tuy nhiên tùy từng trường hợp mà người có quyền bán tài sản có thể khơng phải là chủ sở hữu tài sản, vi dụ: chấp hành viên có thâm quyên xử lý tài sản (với tài sản dé thi hành án); cơ quan nhà nước có thâm quyền quyết định bán tài sản nhà nước theo <small>quy định của pháp luật (với tài sản nhà nước); các chủ sở hữu chung hoặc người đại</small> diện của họ (với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất); người có quyền xử lý tài sản (với tài sản cầm có, thé chấp, bảo lãnh); thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản (với tài sản là tang chứng, vật chứng trong quá trình tổ tụng) (khoản 1 Điều 26 Nghị định số 17/ND-CP). Do sự đa dạng về chủ thé này mà bên có tài sản cần bán trong hợp đồng BĐGTS được gọi chung là bên có quyền bán tài sản.

Bên cịn lại trong hợp đồng, cũng chính là bên cung cấp dịch vụ bán đấu giá, có thé là trung tâm dịch vụ BDGTS hoặc doanh nghiệp BĐGTS, doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề có kinh doanh dịch vụ BĐGTS (Điều 14 Nghị định số

<small>17/ND-CP). Pháp luật quy định: trung tâm dich vụ BDGTS do Chủ tịch UBND tỉnh, thành</small>

phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc

<small>Trung ương chỉ thành lập một Trung tâm. Doanh nghiệp BĐGTS được thành lập,</small>

hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và quy định tại Nghị định sỐ 17/2010/NĐ-CP. Cũng như sự đa dạng của bên có qun bán tài sản, khơng phải trong mọi trường hợp bên cung cấp dịch vụ bán đấu giá đều là tổ chức bán đấu giá

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<small>chuyên nghiệp, ví dụ: Với tai sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị</small>

tịch thu theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh sẽ thành lập hội đồng BĐGTS cấp huyện; với tài sản nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất giá có giá trị lớn, phức tạp hoặc trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện việc bán đấu giá, hội đồng BĐGTS trong trường hợp đặc biệt sẽ được thành lập, bao gồm đại diện của cơ quan có thâm quyền quyết định BDGTS, cơ quan tài chính, cơ quan tư pháp cùng cấp và đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan,v..v... Như vậy, nếu trong bán hàng hố, người tổ chức bán có thé là cá nhân hoặc các chủ thé khác tự bán tài sản của mình thi trong BDGTS, người tơ chức bán đấu giá phải là một trong ba loại hình tổ chức được pháp luật quy định. Hon thé nữa, pháp luật dân sự còn quy định rất chặt chẽ về điều kiện của các tổ chức này, đó là:

- Doanh nghiệp được tiễn hành kinh doanh dịch vụ BĐGTS phải có đủ các điều kiện sau đây: có đăng kí kinh doanh dịch vụ BDGTS; có it nhất một dau giá viên; có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện BĐGTS.

- Đối với Trung tâm dịch vụ BĐGTS sẽ do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập giao cho Sở chun mơn có chức năng quản lí nhà nước về công tác BĐGTS tại địa phương trực tiếp quản ly. Trung tâm là don vị sự nghiệp có thu, có trụ sở, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng. Trung tâm có giám đốc, kế tốn, thủ quỹ, thủ kho và ít nhất một dau giá viên. Giám đốc Trung tâm phải là đấu giá viên.

- Hội đồng BDGTS cap huyện do Chu tịch UBND quận, huyện, thi xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là UBND cấp huyện) quyết định thành lập dé

<small>BDGTS là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu theo quy định cua</small>

pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Hội đồng BĐGTS cấp huyện gồm có đại diện của cơ quan có thâm quyền quyết định tịch thu tài sản, đại điện phòng Tài chính, phịng Tư pháp cấp huyện và đại diện các cơ quan có liên quan.

1.4.2. Địa vị pháp lý của các chủ thể trong hop đồng BĐGTS:

Hợp đồng BĐGTS là hợp đồng dịch vụ va là hợp đồng song vu. Địa vị pháp lý của các chủ thé trong hợp đồng này chính là quyền và nghĩa vụ của họ được pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

luật quy định, quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Trước tiên, hợp đồng BĐGTS phải tuân thủ các điều kiện đối với hợp đồng nói chung, được quy định trong BLDS năm 2005, từ Điều 517 đến hết Điều 526. Tiếp đó, những quyền và nghĩa vụ này được cụ thê hóa tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về BĐGTS.

<small>1.4.2.1 .Đĩịa vi phap ly của bên co tài sản</small>

Trước hết, bên có tài sản có quyền lựa tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp cũng như lựa chọn hình thức bán dau giá, có thé là dau giá trực tiếp băng lời nói; Dau giá băng bỏ phiếu; hoặc các hình thức khác do người có tài sản bán đấu giá và tô chức BĐGTS thỏa thuận (Điều 22 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP). So với quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì tơ chức bán đấu giá là bên được lựa chọn hình thức BĐGTS (khoản 1 Điều 17), việc quy định bên có tài sản cũng có quyền lựa chọn hình thức ban dau giá hoặc các bên có thê thỏa thuận về hình thức bán đấu giá là một bước dé mở rộng quyền của người có tai sản.

Sau khi đã lựa chọn được tổ chức bán dau giá và hình thức bán đấu giá, các bên sẽ bàn bạc định giá khởi điểm bán đấu giá, giá này do người bán tài sản quyết định. Quá trình này được thực hiện trước khi ký kết hợp đồng BĐGTS hoặc trước khi chuyên giao tài sản cho tổ chức bán đấu giá. Tuy nhiên, bên có tài sản cần phải tham khảo ý kiến của người bán đấu giá để định giá tài sản phù hợp với giá thị trường mà có thể tơ chức bán đấu giá thành cơng. Với trường hợp xử lý tài sản cẦm có, thế chấp đề thực hiện nghĩa vụ dân sự thì người bán tài sản là người cầm có, thế chấp và người nhận cầm có, thế chấp. Nếu khi kí hợp đồng cầm có, thế chấp mà các bên có thỏa thuận về xử lí cầm cố, thé chấp băng biện pháp bán đấu giá thì cả hai bên cùng kí hợp đồng bán đấu giá với người bán đấu giá. Người cầm có, thế chấp và người nhận cầm có, thế chấp là một bên của hợp đồng bán đấu giá, vì vậy họ đều có quyền tham gia định giá khởi điểm bán đấu giá. Nếu trong hợp đồng cầm có, thé chấp mà các bên có thỏa thuận xử lí tài sản bằng biện pháp bán đấu giá và người cam có, thé chấp khơng chịu kí hợp đồng bán dau giá thì theo quy định về xử lý tài

<small>sản bảo đảm người nhận cam cô, thê chap sẽ là người bán tai sản.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Về nghĩa vụ của bên có tài san, BLDS 2005 quy định bên thuê dich vu (người có tài sản bán đấu giá) có nghĩa vụ cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ (tổ chức bán dau giá) các thông tin, tài liệu và các phương tiện cần thiết khác dé thực hiện cơng việc, nếu có thỏa thuận hoặc việc thực hiện cơng việc địi hỏi (khoản 1 Điều 520 BLDS). Nghĩa vụ này được cụ thé hóa tại khoản 2 Điều 26 Nghị định số 17/NĐ-CP, theo đó khi ký kết hợp đồng BĐGTS, người có tài sản bán đấu giá có trách nhiệm cung cấp cho tổ chức BĐGTS giấy chứng nhận hợp pháp hoặc bằng chứng khác chứng minh quyên sở hữu hoặc quyền được bán tài sản theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các băng chứng đó, thêm vào đó, việc liệt kê, mơ tả tài sản cũng là một trong những nội dung bắt buộc của hợp đồng BĐGTS. Tổ chức BĐGTS không chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng của tài sản đã bán đấu giá, trừ trường hợp không thông báo day đủ, chính xác cho người tham gia đấu giá tài sản những thơng tin cần thiết có liên quan đến giá trị, chất lượng của tài sản đã bán đấu giá theo hợp đồng BĐGTS.

Tuy Nghị định số 17/2010/NĐ-CP không quy định cụ thể nhưng thông qua quy định về nội dung của hợp đồng bán đấu giá tại điểm đ khoản 2 Điều 25 yêu cầu các bên phải thỏa thuận về thời hạn, địa điểm và phương thức giao tài sản đấu giá thì việc chuyên giao tài sản bán đấu giá cũng được coi là một nghĩa vụ của bên có tài sản. Đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình BĐGTS, tổ chức bán đấu giá ngoài việc quan lý các giấy tờ chứng minh nguồn gốc của tài sản còn có thể năm bắt được hiện trạng của tài sản, thuận tiện trong việc công bố thông tin đến người tham gia đấu giá khi có yêu cầu, đồng thời người tham gia đấu giá cũng có thé yên tâm với tài sản họ định mua. Tuy nhiên việc coi chuyên giao tài sản bán đấu giá là một nghĩa vụ của bên có tài sản có thực sự cần thiết hay không? Với những tài sản là động sản có giá tri lớn hoặc quý hiếm, việc chuyển giao tài sản trước khi bán đấu giá đôi khi lại làm nảy sinh những rủi ro khơng đáng có. Hợp đồng bán đấu giá là hợp đồng dịch vụ, đối tượng của hợp đồng là công việc phải thực hiện, do đó khơng quy định rõ trách nhiệm chịu rủi ro đối với tài sản. Đặt giả thiết khi tài sản đang trên đường được chuyên giao đến địa điểm do tô chức ban đấu giá quản lý mà

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

xảy ra thất lạc hoặc bị đánh cắp thì trách nhiệm chịu rủi ro lúc này thuộc về ai? Tình huống này liên quan đến hợp đồng giữa bên có tài sản với một bên thứ ba, đó là bên có trách nhiệm vận chuyên tài sản, tuy nhiên khi tài sản bán đấu giá khơng cịn, việc bán dau giá khơng thé thực hiện được thì theo quy định cho phép bat cứ bên có tài sản hoặc tổ chức BĐGTS đều có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng BĐGTS. Lúc này tơ chức BĐGTS có quyền u cầu bên có tài sản thanh tốn những chi phí đã phát sinh trong q trình chuẩn bị dé đem tài sản ra bán đấu giá (chi phi trong việc thuê sân, kho bãi để trưng bày tài sản bán đấu giá hoặc các chi phí liên quan đến việc công khai, niêm yết thông tin và thông báo bán đấu giá, v..v...) hay không? Nếu tổ chức bán đấu giá có quyền này thì thiệt hại thuộc về bên có tài sản bán đấu giá là rất lớn, khi vừa mắt đi tài sản lại vừa phải thanh tốn các chi phí phát sinh cho tổ chức bán đấu giá, như vậy đã thực sự đảm bảo quyền lợi cho bên này

<small>hay chưa?</small>

Mặt khác, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP có những quy định tương đối mở theo hướng tạo điều kiện tốt nhất để cuộc bán đấu giá tài sản được diễn ra thuận tiện, ví dụ: “Cuộc BĐGTS có thé được tơ chức tại trụ sở của tơ chức BĐGTS, tại nơi có tài sản, hoặc tại một địa điểm khác theo thỏa thuận của tô chức BĐGTS và người có tai sản bán đấu giá” (Điều 32) hay quy định Tổ chức bán đấu giá có nghĩa vụ “yêu cầu người có tài sản bán đấu giá giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá trong trường hợp người có tài sản bán đấu giá đang trực tiếp quản lý tài sản đó” (khoản 3 Điều 18), như vậy có thé thay việc dau giá hồn tồn vẫn có thể diễn ra dù người có tài sản khơng chuyền giao tài sản cho tô chức bán đấu giá, tài san bán đấu giá vẫn có thể hồn tồn thuộc sự quản lý của bên có tài sản miễn là bên này thực hiện đầy đủ các quy định về trưng bày tài sản cũng như để những người tham gia dau giá được xem tài san. Hop đồng dân sự tôn trọng tối đa sự thỏa thuận của các bên, việc quy định quá cụ thể nội dung của hợp đồng vô hình chung lại hạn chế sự thỏa thuận ấy và làm nảy sinh những phức tạp khơng đáng có trong q trình thực hiện hợp đồng, thiết nghĩ có nên quy định việc chuyên giao tài sản bán đấu giá như

<small>một nghĩa vụ của bên có tài sản như hiện nay hay không?</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>1.4.2.2.Dia vị phap lý của bên BDGTS</small>

Bên BDGTS là trung tâm dich vụ BĐGTS do sở tư pháp trực tiếp quản lý hoặc các tơ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá có tư cách pháp nhân.

Bên bán đấu giá có nghĩa vụ thơng báo, niêm yết cơng khai, đầy đủ, chính xác thơng tin cần thiết có liên quan đến tài sản dau giá. Các thông tin về bán dau giá như: ngày tháng bán đấu giá, loại tài sản, chất lượng giá khởi điểm....phải được niêm yết tại trụ sở của tổ chức bán đấu giá. Như vậy, số lượng người biết về việc BĐGTS sẽ nhiều hơn và việc bán đấu giá sẽ khách quan hơn.

Bên bán đấu giá phải bảo quản tài sản được giao, không được sử dụng tài sản, nếu làm hư hỏng, mat mát thì phải bồi thường thiệt hại. Trước khi bán dau giá phải trưng bày, cho xem hồ sơ tài sản bán đấu giá. Đặc biệt đối với tài sản như nhà ở, quyền sử dụng đất phải có day đủ các giấy tờ hợp pháp về sở hữu nha ở và quyền sử dụng đất. Bên bán đấu giá phải đảm bảo quyền sở hữu cho người mua về nhà ở, đảm bảo quyền sử dụng đất cho người mua theo các quy định về chuyển quyền sử dụng dat trong BLDS và các quy định pháp luật về đất đai.

Sau khi bán đấu giá, bên bán đấu giá phải giao ngay tài sản cho người mua tài sản bán dau giá nếu là động sản. Đối với tài sản phải đăng kí quyền sở hữu, bên bán dau giá phải giao cho người mua sau khi người mua thanh toán xong tiền mua. Bên bán đấu giá có nghĩa vụ làm thủ tục chuyên quyên sở hữu tai sản cho người mua. Trong thời hạn mười lăm ngày đối với động sản, ba mươi ngày đối với bất động sản, việc chuyên quyền sở hữu tài sản bán dau giá phải hồn thành.

Tương ứng với nghĩa vụ của người có tài sản, bên bán đấu giá có quyền yêu cầu người bán tài sản cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin liên quan đến tài sản bán dau giá. Thông thường, nếu người ban tài sản tự nguyện bán dau giá thì các thơng tin do họ cung cấp sẽ đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên, người bán đấu giá vẫn phải xem xét, điều tra các thông tin đó là chính xác, hợp pháp hay khơng? Trường hợp người có tài sản khơng muốn bán tài sản nhưng bị cưỡng chế bán tài sản dé thi hành án thi việc xác định thơng tin về tình hình tài sản sẽ gặp nhiều khó khăn như: các loại giấy tờ liên quan đến tài sản, nguồn gốc tài sản hợp pháp hay do hành vi bất hợp pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

mà có, điều này rất khó xác định. Nếu tài sản bán đấu giá do chiếm hữu bat hợp pháp mà có và sau khi bán đấu giá, người mua bị người khác khởi kiện và đòi lại tài sản thì bên bán đấu giá phải bồi thường thiệt hại cho người mua tài sản. Đặc biệt những tài sản cầm đồ là động san rất khó xác định nguồn gốc tai sản. Vì rủi ro của người bán đấu giá là rất lớn nên người bán đấu giá cần phải điều tra cân thận nguồn gốc tài sản bán đấu giá.

Người BĐGTS có quyên yêu cầu người mua phải thực hiện đúng hop đồng đã kí kết. Thời điểm kí kết hợp đồng bán đấu giá chính là thời điểm khi người điều hành bán đấu giá tuyên bố giá cao nhất lần thứ ba mà không ai trả giá nữa. Người mua phải thực hiện nghĩa vụ, nếu họ khơng thực hiện nghĩa vụ thì người bán dau giá có quyền xử lí tiền lệ phí bán đấu giá mà người mua đã đóng.

<small>Ngồi ra, bên BDGTS còn phải thực hiện nghiêm túc những nghĩa vụ cua</small>

bên cung ứng dịch vụ được quy định tại Điều 522 BLDS, đó là: Khơng được giao cho người khác thực hiện thay cơng việc nêu khơng có sự đồng ý của bên thuê dich vụ; báo ngay cho bên thuê dịch vụ về việc thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương

tiện không đảm bảo chất lượng dé thực hiện cơng vIỆC.V..V...

1. 5. Q trình hình thành và phát triển pháp luật BĐGTS ở Việt Nam: 1.5.1. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1996

Dich vụ BĐGTS tại Việt Nam được hình thành và phát triển từ việc BĐGTS đề THADS. Bởi lẽ, các quy định về BĐGTS được xuất hiện đầu tiên trong pháp luật về

Pháp luật về BĐGTS được đánh dấu băng sự ra đời của Pháp lệnh THADS ngày 28 thang 8 năm 1989 (Pháp lệnh năm 1989), quy định về BĐGTS để thi hành án. Khoản 1, Điều 28 của Pháp lệnh năm 1989 quy định về BĐGTS đã kê biên. Đối với các loại tài sản này, thời gian bán đấu giá phải được niêm yết cơng khai tại trụ sở Tịa án và UBND xã, phường, thị tran nơi có tài sản và thông báo cho đương sự, chậm nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá.

Đề thực hiện Pháp lệnh năm 1989, TAND Tối cao, VKSND Tối cao và Bộ Tư pháp có Thơng tư liên ngành số 06-89/TTLN ngày 07 tháng 12 năm 1989 hướng

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh 1989. Mục VI của Thơng tư có quy định về BĐGTS đã kê biên theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Pháp lệnh năm 1989 thì khi kê biên tài sản, nếu các bên đương sự không thoả thuận được về giá hoặc việc định giá có khó khăn, chấp hành viên mời Hội đồng định giá để định giá sơ bộ tài sản đã kê biên. Quy định này nhăm giúp Chấp hành viên ước lượng số tài sản cần kê biên tương ứng với mức đủ dé thi hành án và thanh tốn các chi phí về thi hành án; đồng thời, nhăm xác định trách nhiệm của người được giao bảo quản tài sản đã kê biên. Tài sản bán đấu giá được trưng bày cơng khai, có ghi rõ số thứ tự và giá đã định. Chấp hành viên khai mạc cuộc bán đấu giá, giới thiệu đại diện chính

quyền, đồn thể được mời tham gia chứng kiến việc bán đấu giá, đại diện VKSND

(nếu có) và công bố thé thức ban đấu giá. Chấp hành viên lần lượt bán tài sản của từng người phải thi hành án và công bố giá đã định của từng tài sản để người mua trả giá. Tài sản được bán cho người trả giá cao nhất. Nếu khơng có ai trả giá cao hơn giá khởi điểm thì bán cho người mua nếu người đó đồng ý mua theo giá khởi điểm. Khi số tiền bán tài sản đã đủ dé thi hành án và thanh toán các chi phí về thi hành án thì chấp hành viên ngừng bán và số tài sản còn lại sẽ được trả lại cho người

<small>phải thi hành án.</small>

Năm 1994, Pháp lệnh THADS được ban hành mới thay thế cho Pháp lệnh THADS năm 1989 (Pháp lệnh năm 1994). Pháp lệnh năm 1994 bổ sung thêm một số quy định về BĐGTS thi hành án. Quy định cụ thé hơn về thành phần Hội đồng định giá gồm đại diện cơ quan tài chính, cơ quan chun mơn có liên quan và do chấp hành viên chủ trì để đánh giá sơ bộ tài sản đã kê biên (Điều 34 của Pháp lệnh năm 1994), người được thi hành án, người phải thi hành án được tham gia ý kiến vào việc định giá, nhưng quyền quyết định giá thuộc Hội đồng định giá. Tài sản khơng ban được thì được định giá lại dé tiếp tục bán đấu giá.

1.5.2. Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2005

BLDS đầu tiên ở nước ta được Quốc hội khóa IX, ky họp thứ 8 thơng qua vào năm 1995. Đây là một văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ giao kết dân sự trong đó có quan hệ về BĐGTS. BLDS năm 1995 đã quy định giao cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Chính phủ ban hành quy chế ban đấu giá. Trên cơ sở đó, ngày 19/12/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/1996/CP về việc ban hành quy chế BĐGTS. Đây là văn bản pháp lý chuyên ngành đầu tiên điều chỉnh về lĩnh vực BĐGTS với những quy định về tài sản bán đấu giá, người bán đấu giá, trình tự, thủ tục bán đấu giá, giải quyết khiếu nại, tranh chấp về bán đấu giá. Có thể nói hoạt động BĐGTS chun

<small>nghiệp ở nước ta được hình thành từ năm 1997 trên cơ sở của BLDS và Nghị định</small>

số 86/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ ban hành Quy chế BĐGTS.

Ngày 07 tháng 04 năm 1997 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 399/PLDSKT hướng dẫn một số quy định về BĐGTS. Ở đa số địa phương, quán triệt tỉnh thần Nghị định số 86/CP va Thông tư số 399/PLDSKT ngày 07 tháng 4 năm 1997 của Bộ Tư pháp, các Trung tâm đã tô chức bán đấu giá cơng khai, rộng rãi, đúng trình tự, thủ tục; khách hàng tham gia đấu giá ngày càng nhiều. Giá tài sản bán được phần lớn tăng hơn nhiều so với giá khởi điểm, làm lợi cho người có tài sản bán đấu giá. Khoản lệ phí nộp ngân sách đạt được chỉ tiêu mà các Trung tâm đề ra, đảm bảo cho hoạt động bán dau gia được liên tục va có hiệu qua.

Nghị định số 86/1996/CP là van bản pháp luật quan trọng đặt nền móng cho dich vụ đấu giá trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nội dung của Nghị định số 86/1996/CP được ban hành trong những năm đầu của nên kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam nên vẫn chứa đựng các điều khoản bất cập, hạn chế nhất định, khơng cịn phù hợp cần thay đổi cho phù hợp với thực tế.

1.5.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010:

Ngày 18/01/2005, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về BDGTS được ban hành thay thế Nghị định số 86/1996/CP. Ngay sau khi Nghị định số 05/2005/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP.

Nghị định số 05/2005/NĐ-CP là văn bản pháp luật chuyên ngành, là cơ sở pháp ly quan trọng dé phát triển dịch vụ BĐGTS trong nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì cịn có nhiều văn bản quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh hoạt động bán đấu giá tài sản

<small>như BLDS năm 2005; Luật Thương mại năm 2005; Luật quản lý và sử dụng tài sản</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

nhà nước năm 2008; Luật kinh doanh bất động sản năm 2006; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi b6 sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, Quyết định số 216/2005/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về bán đấu giá quyền sử dụng dat dé giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất, Nghị định số 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành luật đất đai; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 quy định bồ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng dat, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV ngày 31/12/2004 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyên hạn và t6 chức của Văn phòng đăng ký quyền sử dung đất và Tổ chức phát triển quỹ đất.

Sau khi Nghị định số 05/2005/NĐ-CP được ban hành, hoạt động BĐGTS đã đạt được những kết quả đáng kể, tạo cơ sở pháp lý quan trọng đối với việc củng cô và phát triển các tổ chức BĐGTS ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, góp phan thống nhất pháp luật về trình tự, thủ tục BĐGTS va dap ứng phan lớn nhu cầu của cá nhân, tô chức trong lĩnh vực này.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật về hoạt động BĐGTS trong thời kỳ này còn nhiều van đề bat cập.

Thr nhất, có nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau cùng điều chỉnh hoạt động BĐGTS. Nhiều điều khoản của các văn bản quy phạm pháp luật về BĐGTS không thống nhất với quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP, nội dung một số quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn về trình tự, thủ tục bán đấu giá, về tổ chức bán đấu giá, gây khó khăn cho các cơ quan, tô chức, cá nhân trong thi hành và áp dụng

<small>pháp luật.</small>

Thứ hai, do sự không đồng bộ, thong nhất trong các quy định của pháp luật nên có nhiều loại tổ chức thực hiện việc BDGTS và bán đấu giá theo các trình tự, thủ tục rất khác nhau, khơng chặt chẽ dẫn đến việc khó quản lý, kiểm soát hoạt động

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

này và gây that thốt tài sản, nhất là tai sản cơng. Trong số các tơ chức thực hiện việc BĐGTS thì hoạt động của các Hội đồng BĐGTS đang có nhiều bất cập. Các Hội đồng này được thành lập dé bán đấu giá theo vụ việc, khơng mang tính thường xun, chuyên nghiệp. Khi kết thúc cuộc bán đấu giá, Hội đồng tự giải thể. Do đó, khi có tranh chấp xảy ra liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, các bên khơng có cơ sở pháp ly dé khiếu nai Hội đồng. Ngoài ra, do cơ chế hoạt động (bao gồm cả cơ chế tài chính) và trách nhiệm pháp lý của Hội đồng BĐGTS không rõ ràng, nên khó kiểm sốt, dẫn đến thất thốt, thiệt hại về vật chất trong việc bán dau gia các loại tai san cua Nha nước.

Thứ ba, phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP chưa xác định rõ phạm vi áp dung của Nghị định đối với việc bán đấu giá những loại tài sản nao. Chính vì vậy, trên thực tế, các cơ quan, tổ chức còn lúng túng khi áp dụng Nghị định số 05/2005/NĐ-CP dẫn đến việc BĐGTS, nhất là tài sản công chưa được thực

<small>hiện theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ.</small>

Thứ tư, một sô quy định của Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về trình tự, thủ tục bán đấu giá cịn chưa đầy đủ và chặt chẽ, thậm chí có kẽ hở, dễ dẫn đến hiện tượng tiêu cực như thơng đồng, dìm giá, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của tơ chức, cá nhân.

Thứ nam, quy định về điều kiện cấp thẻ đấu giá viên, điều kiện hoạt động của doanh nghiệp bán dau giá còn đơn giản, dé dai; việc đăng ký hành nghề đối với dau giá viên chưa được quy định chặt chẽ. Vai trò của đấu giá viên với tư cách là chức danh chuyên nghiệp trong hoạt động bán đấu giá chưa được phát huy, nhiều cuộc bán đấu giá không do đấu giá viên điều hành. Nhìn chung, tính chun nghiệp của hoạt động BDGTS cịn thấp.

Thứ sáu, quy định về quản lý nhà nước trong Nghị định số 05/2005/NĐ-CP còn thiếu, nội dung chưa rõ ràng dẫn đến việc quản lý nhà nước đối với hoạt động

<small>BDGTS còn lỏng lẻo, vai trò của cơ quan chủ trì giúp Chính phủ và UBND các địa</small>

phương thống nhất quản lý nhà nước về BĐGTS chưa được phát huy đầy đủ. Một số Sở Tư pháp, UBND cấp tỉnh chưa nhận thức rõ chức năng, nhiệm vụ của mình

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

trong việc thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực đấu giá tài sản tại địa phương. Công tác quản lý hoạt động BĐGTS ở cấp huyện cịn bị bng lỏng.

Thứ bảy, nhận thức và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương về quản lý hoạt động BĐGTS còn chưa thống nhất, chưa chặt chẽ và đồng bộ. Một số cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản trong một số trường hợp còn từ chối hoặc chậm trong việc cấp Giấy chứng nhận quyén sở hữu, quyền sử dụng tài sản đã bán đấu giá đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyên sử dụng. Việc giao tài sản thi hành án đã được bán đấu giá nhiều khi bị chậm trễ, kéo dài làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người mua được tài sản, cũng như uy tín của các tổ chức BĐGTS.

Do vậy, việc thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP là sự cần thiết khách quan, dé thiết lập cơ sở pháp lý chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ hơn cho hoạt động BĐGTS. Ngày 04 tháng 3 năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về BĐGTS.

1.5.4. Giai đoạn từ năm 2010 đến nay:

Nghị định 17/2010/NĐ-CP về BĐGTS đang được đánh giá là có những tác động tích cực vào hoạt động BDGTS, từng bước đi vào cuộc song voi nhiéu hiéu qua thiết thực.

Tht nhất: Về tiêu chuẩn dé trở thành đầu giá viên: Nghị định 05/2005/NĐ-CP quy định điều kiện được cấp thẻ đấu giá viên tương đối đơn giản, chưa tương xứng với nhiệm vụ, trách nhiệm đấu giá viên (quy định người có bằng đại học trong bất kì lĩnh vực nào đều có thể trở thành đấu giá viên mà không cần phải qua đào tạo, bồi dưỡng). Để nhằm nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đấu giá viên, Nghị định mới quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn trở thành dau giá viên (Điều 5). Theo đó, đấu giá viên là người đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật hoặc chuyên ngành kinh tế, đã qua khóa đào tạo nghề đấu giá theo quy định. Tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề đối với đấu giá viên được nâng lên, nên trách nhiệm pháp lý của họ cũng được nâng cao. Cụ thể, đấu giá viên được sử dụng quyền của mình để xử lý trực tiếp, kịp thời các hành vi thơng đồng dìm giá hoặc vi phạm nội quy quy chế bán đấu giá đối với người tham gia đấu giá. So với Nghị định

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

05/2005/NĐ-CP, Nghị định 17/2010/NĐ-CP còn bồ sung quy định về những trường hợp cấp hoặc không được cấp chứng chỉ hành nghề đấu giá, cấp lại, thu hồi Chứng chỉ hành nghé dau giá, cấp thẻ đấu giá viên nhằm quản lý chặt chẽ hơn hoạt động của đội ngũ đấu giá viên.

Thứ hai, về cơ cấu tô chức BĐGTS: thực hiện chủ trương xã hội về tổ chức BĐGTS, Nghị định 17/2010/NĐ-CP xác định rõ hơn các tơ chức BĐGTS chun nghiệp gồm có: Trung tâm dich vụ BDGTS và các doanh nghiệp BĐGTS. Ngồi các tơ chức BĐGTS chun nghiệp, cịn có hai loại Hội đồng đó là: Hội đồng BĐGTS cấp huyện chỉ được thành lập dé thực hiện bán tai sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu và Hội đồng BĐGTS trong trường hợp đặc biệt được thành lập dé BDGTS nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất có giá tri lớn, phức tạp hoặc trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện việc bán đấu giá (Điều 14 Nghị định 17/2010/NĐ-CP). Với quy định rõ ràng như trên sẽ góp phần khắc phục tình trạng thành lập Hội đồng BĐGTS

<small>một cách tràn lan ở các địa phương.</small>

Thứ ba: về quy định tăng mức tiên đặt trước: Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định, người tham gia đấu giá tài sản phải nộp phí tham gia đấu giá và khoản tiền đặt trước. Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định 05/2005 khoản tiền đặt trước do tổ chức bán đấu giá và người có tài sản đấu giá thỏa thuận tối đa không quá 5% giá khởi điểm là thấp, chưa có sự điều chỉnh cho phù hợp đối với việc BĐGTS ở từng địa phương có vị trí địa lý vùng miền khác nhau, trong thực hiện bán đấu giá nhiều trường hợp tiền đặt cọc quá nhỏ dẫn đến khách hàng có tình trả giá để được trúng đấu giá sau đó lại bỏ cuộc khơng hoàn thành nghĩa vụ sau khi trúng đấu giá. Nghị định 17/ND-CP đã nâng mức tiền đặt cọc cao hơn: tối thiểu là 1% và tối đa không quá 15% (khoản 1 Điều 29) nhằm khắc phục tình trạng những người tham gia dau gia lién kết với nhau dé dim giá hoặc họ sẵn sảng chịu mất tiền đặt trước trong trường hợp từ chối mua tài sản với mục đích gây khó khăn cho người có quyền và lợi ích liên quan vì mục đích vụ lợi. Đồng thời, quy định mức tối thiểu đến tôi đa tạo sự linh hoạt trong giới hạn pháp luật cho phép và vẫn bảo đảm phù hợp

với thực tiễn của từng địa phương.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Thứ tu: về hạn chế thông tin dim giá trong BĐGTS: Nghị định 05/2005 quy định trong trường hợp người điều hành cuộc bán đấu giá đã công bố người mua được tài sản bán đấu giá mà ngươi này từ chối mua thì tài sản được bán cho người trả giá liền kề nếu giá liền kề ít nhất bằng giá khởi điểm. Nếu người liền kề không đồng ý mua hoặc giá liền kề thấp hơn giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá không thành và khoản tiền đặt cọc của người từ chối mua thuộc về người có tài sản bán đấu giá. Tuy nhiên, quy định này đã bị lợi dụng trên thực tế, có tình trạng khách hàng trả giá rất cao, khi được tuyên bố là người mua được tài sản rồi thì lại từ chối mua thì người liền kề có giá trên mức giá khởi điểm mua được tài sản và hai bên thỏa thuận chia nhau số tiền chênh lệch đó. Ngồi ra, khả năng cuộc bán dau giá khơng thành là rất cao vì người trả giá liền kề có thể khơng đồng ý mua. Do đó nghị định mới đã sửa đơi theo hướng quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với người từ chối mua và hạn chế sự thông đồng dìm giá giữa một số người tham gia đấu giá. Cụ thể, người từ chối mua tài sản không được hoàn trả khoản tiền đặt trước, khoản tiền này thuộc về người có tài sản bán đấu giá. Đồng thời, tài sản chỉ được bán cho người trả giá liền kề nếu giá liền kề đó cộng với khoản tiền đặt trước băng giá đã trả của người từ chối mua (Điều 39 Nghị định 17). Quy định như trên sẽ góp phần đảm bảo quyền lợi của người có tài sản, không làm giảm giá trị của tài sản bán đấu giá và đảm bảo cuộc bán đấu giá thành.

Thứ năm: Việc bán dau giá trong trường hợp đặc biệt: Trên cơ sở những điều

<small>luật quy định tại BLDS 2005, Nghị định 17/2010/NĐ-CP của chính phủ đã quy định</small>

về tô chức, hoạt động, quyền hạn của các tô chức đấu giá chuyên nghiệp. Luật đất đai, Luật nhà ở quy định về giao dịch tài sản quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở, thông tư của bộ tài chính quy định về mức thu phí, lệ phí khi đấu giá tài sản đã tạo cơ sở cho việc thực hiện đấu giá tài sản nhất là dau giá quyền sử dụng đất khi chuyên đổi mục dich sử dung nhằm khai thác triệt dé nguồn tài nguyên đất đai.

Thứ sáu: Đối với quy định về nơi bán dau giá: Theo quy định tại khoản 1 Điều 457 BLDS thì: người bán dau giá phải thơng báo cơng khai tại nơi bán đấu giá và trên phương tiện thông tin đại chúng về thời gian, địa điểm, số lượng và danh mục

<small>các tài sản bán dau giá chậm nhat là ba ngày đôi với động sản, ba mươi ngày đôi với</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

bất động sản trước ngày bán đấu giá. Quy định như trên được đánh giá là chỉ tiết và rất cụ thể. Tuy nhiên quy định như vậy vẫn chưa đủ. Luật chỉ quy định việc niệm yết thông báo tại nơi bán đấu giá nên khó tạo điều kiện thu hút sự quan tâm, tham gia dau giá của những người có nhu cầu mua dau giá tài sản, rồi việc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu bao nhiêu lần để đảm bảo giá trị tài sản thông qua bán đấu giá là giá trị thực, không bị các đối tượng khác gây thiệt hại cho người có tài sản bán đấu giá và gây thất thu cho ngân sách nhà nước

Van dé này được khắc phục khi nghị định số 17/2010/NĐ-CP. Tại Điều 28 nghị định 17/2010/NĐ-CP qui định đối với hoạt động bất động sản, tô chức bán đấu giá phải niêm yết việc ban dau giá tại nơi bán đấu giá, nơi trưng bày tài sản, nơi đặt trụ trở của tô chức BĐGTS, nơi có bat động sản và UBND xã, phường, thị trần nơi có bất động sản; - ...Phải thơng báo cơng khai ít nhất hai lần, mỗi lần cách nhau 03

<small>ngày trên phương tiện thông tin đại chúng của trung ương hoặc địa phương...</small>

Thứ bảy: quy định về người chứng kiến: Theo quy định tại khoản 3 Điều 458 BLDS thì: Việc bán đấu giá được lập thành văn bản có chữ kí của người mua, người bán và hai người chứng kiến. Còn theo khoản 3 Điều 35 Nghị định 17/2010/NĐ-CP thì vấn đề này lại được quy định như sau: Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá được ký kết giữa tổ chức BĐGTS và người mua được tài sản bán đấu giá. Đối với những tài sản mà pháp luật quy định hợp đồng mua bán tài sản phải có cơng chứng hoặc phải được đăng kí thì hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá phải phù hợp với

<small>quy định đó.</small>

Thứ tám: Về quy định nơi tô chức ban dau giá bat động sản: Tại khoản 1 Điều

459 BLDS quy định: Việc bán đấu giá bat động san được thực hiện tai noi có bat

động sản hoặc nơi do người ban dau giá xác định. Trong q trình thực hiện cơng tác BĐGTS thì rất ít khi việc tổ chức bán đấu giá thực hiện tại nơi có có bất động sản đo liên quan đến các yếu tổ như: Hội trường, bàn ghế, có trang thiết bị và điều

kiện khác phục vụ cho cuộc bản đấu giá... Đại đa SỐ các phiên bán dau gia bat động sản được tô chức tại trụ sở của tổ chức bán đấu giá, trụ sở của đơn vi có bất động

<small>sản bán đâu giá hoặc nơi tô chức bán đâu giá thuê đê phù hợp cho việc tô chức</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

phiên bán đấu giá bat động sản. Do đó, BLDS quy định về nơi bán đấu giá BĐS cịn mang tính áp đặt, có lợi cho bên tơ chức bán đấu giá — điều này trái với nguyên tắc của BLDS là tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận trong quan hệ dân sự. Và dẫn đến

<small>tình trạng quy định của Luật khơng có tính khả thị.</small>

Vướng mắc của BLDS đã được các nhà làm luật khắc phục tại Điều 32 của Nghị định 17/2010/NĐ-CP, đó là cuộc BĐGTS có thé được tơ chức tại trụ sở của t6 chức BĐGTS, tại nơi có tài sản hoặc tại một địa điểm khác theo thỏa thuận của tổ chức BDGTS và người có tài sản bán dau giá. Nhu vậy, việc lựa chọn nơi tơ chức BDGTS theo Nghị định 17/NĐ-CP cần có sự đồng thuận — thỏa thuận thống nhất của cả hai bên (tổ chức bán dau giá và người có tài sản bán đấu giá), tổ chức BDGTS khơng cịn quyền áp đặt ý chí của mình trong việc chon nơi tổ chức bán dau giá. Từ đây cho thay BLDS chỉ nên quy định những van dé chung, không nhất thiết phải quy định quá cụ thể, chi tiết để đưa đến những mâu thuẫn với những quy

<small>định của luật chuyên ngành.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

KET LUẬN CHƯƠNG 1

Để giải quyết vướng mắc và phù hợp với thực tiễn, Chính phủ đã ban hành nghị định số 17/2010/NĐ-CP thay thế nghị định số 05/2005/NĐ-CP. Nghị định 17/2010/NĐ-CP về BĐGTS đang được đánh giá là có những tác động tích cực vào hoạt động BDGTS, từng bước di vào cuộc sống với nhiều hiệu quả thiết thực.

Đấu giá tài sản là một trong những cách thức linh hoạt để chuyên quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác góp phần thúc đây hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động mua bán trao đơi hang hố nói riêng phát triển một cách đa

<small>dạng. BĐGTS có những đóng góp quan trọng trong cơng tac thi hành pháp luật, đặcbiệt là công tac THADS và xử ly vi phạm hành chính.</small>

BĐGTS là hình thức mua bán tài sản được tơ chức cơng khai theo trình tự, thủ tục luật định va được tiến hành qua phương thức trả giá lên, người trả giá cao nhất không thấp hơn giá khởi điểm sẽ đựơc mua tài sản. Tô chức BĐGTS có thể lựa chọn một trong các hình thức đấu giá sau đây dé tiến hành cuộc bán dau giá tài sản: (1) đấu giá trực tiếp bang lời nói; (2) đấu giá băng bỏ phiếu; (3) các hình thức khác do người có tài sản bán đấu giá và tô chức BĐGTS thỏa thuận. Người tổ chức bán dau giá chuyên nghiệp phải là một trong hai loại hình tổ chức được pháp luật quy định là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá hoặc doanh nghiệp BĐGTS. Ngồi ra có thêm hội đồng BĐGTS cấp huyện và hội đồng BĐGTS trong trường hợp đặc biệt.

BĐGTS không phải do người có tài sản trực tiếp thực hiện mà do tổ chức BĐGTS thực hiện dưới sự ủy quyền của chủ sở hữu tai sản thé hiện bằng hợp đồng

<small>BDGTS.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<small>CHƯƠNG 2:</small>

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ

THUC TIEN BAN ĐẦU GIÁ TÀI SAN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản:

2.1.1. Về tính hệ thơng của pháp luật dau giá:

Pháp luật Việt Nam đã có nhiều quy định về đấu giá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật ở những cấp độ khác nhau như: BLDS, Luật Đất đai, Luật Thương

<small>mại, Luật Thi hành án, Luật Quản lý, sử dụng tai sản Nhà nước, Pháp lệnh xử lý vi</small>

phạm hành chính, một số Nghị định, Quyết định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và nhiều Thông tư của các Bộ, ngành trải rộng từ các quy định mang tính nguyên tắc đến các quy định điều chỉnh các thiết chế và lĩnh vực dau giá cụ thé. Tuy nhiên, xét về tong thé về hiệu lực pháp lý, sự đồng bộ, thống nhất thì chúng còn nhiều bất cap, hạn chế của một hệ thống pháp luật, như:

- Thứ nhất, ngoại trừ các quy định mang tính nguyên tắc về giao dịch đấu giá được quy định trong BLDS, Luật thương mại, còn hầu hết các quy định về tô chức và hoạt động đấu giá, đấu giá trong các lĩnh vực chuyên ngành được quy định trong văn bản dưới luật. Trong đó có cả những nội dung pháp lý mà theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền và yêu cầu về bảo đảm tính khả thi trong áp dụng, thi hành pháp

<small>luật phải là các quy định của văn bản luật nhưng lại được quy định ở văn bản dưới</small>

luật (Nghị định, thơng tư), ví dụ: ngun tắc bán đấu giá; chế định về đấu giá viên, tổ chức bán đấu giá, quyền và nghĩa vụ các bên trong đấu giá (người bán tài sản dau giá, người tham gia đấu giá, người được mua tài sản đấu giá, người bán đấu giá...).

- Thứ hai, quy định về dau giá trong các lĩnh vực chuyên ngành tương đối đa dạng, bao gồm quy định về đấu giá hàng hóa; đấu giá quyền sử dụng đất; đấu giá chứng khoán; đấu giá quyền sử dụng tần số vô tuyến điện, quyền sử dụng kho số viễn thông, tài nguyên Internet; dau gia quyén khai thac khoang san; dau gia di vat, cô vật, bảo vật quốc gia; dau giá quyền sở hữu trí tuệ... Tuy nhiên, chồng chéo, không đồng bộ và trùng lặp thé hiện rất rõ ở các quy định nay. Ví dụ: các quy định chung về dau giá được lặp lai ở hầu hết các văn bản có quy định về dau giá chuyên ngành, trong khi

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

quy định riêng, đặc thù của đấu giá chuyên ngành: bán gì, ai bán, bán cho ai, ra giá và trả giá... thì lại khơng được quy định rõ ràng ở nhiều trường hợp;

- Thứ ba, điều chỉnh của pháp luật về đấu giá vẫn cịn ít nhiều mang dau ấn của nền kinh tế tập trung chưa thực sự phù hợp với thé chế kinh tế thị trường, đặc biệt trong việc hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển hoạt động đấu giá như là

<small>phương thức mua bán tài sản thông thường trong giao lưu dân sự, ví dụ: Nghị định</small>

số 17/2010/NĐ-CP khi quy định về phạm vi điều chỉnh về tài sản bán đấu giá vẫn chủ yếu hướng tới tài sản của Nhà nước hoặc tài sản bị đấu giá bắt buộc (không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu) mà chưa thực sự hướng tới đối tượng của đấu giá là

<small>những tài sản thông thường của giao lưu dân sự.</small>

2.1.2. Về tài sản bán đấu giá:

Điều 456 BLDS năm 2005 quy định “tài sản có thê được đem bán đấu giá theo ý muốn của chủ sở hữu hoặc pháp luật có quy định”. Quy định này đã xác định tài sản bán đấu giá như là một tài sản thông thường trong giao lưu dân sự, nó chỉ bị hạn chế khi bị cắm giao dịch hoặc phải tuân thủ những quy chế đặc biệt. Tài sản bán đấu giá có thé là vật, giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản; tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai; tài sản gốc và hoa lợi, lợi tức; tài sản tự do lưu thông hoặc tài sản bị hạn chế lưu thông (tài sản chịu những quy chế đặc biệt trong lưu thông, như: quyền sử dụng dat, cô vật, tần số vô tuyến)...

Hướng dẫn quy định của BLDS về tài sản đấu giá, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP đã liệt kê những tài sản bán đấu giá bao gồm: động sản, bất động sản, giấy tờ có giá và các quyên tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật (khoản 4 Điều 2). Quy định này của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP có thể coi là lạc hậu với quy định tại Điều 456 BLDS và quy định về hàng hóa trong Luật thương mại (khoản 2 Điều 3). Nó vừa khơng thể hiện đầy đủ nội hàm của tài sản và tài sản bán đấu giá trong BLDS, vừa không cụ thể, khó thi hành trong thực tiễn. Đặc biệt trong dau gia tài san có đặc thù về tinh chat tài san và pháp lý, như:

- Tài sản dau giá là tài sản được hình thành trong tương lai: đây là tài sản mà tại thời điểm đấu giá có thể thuộc một trong hai trường hợp: (1) chưa được tạo lập hoặc

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

dang trong quá trình tạo lập, sau thời điểm đấu giá, tai sản đó mới được hình thành và thuộc sở hữu của bên bán, vi du: bán dau giá một phương tiện vận tải thủy chưa đóng...; (2) tài sản đã tồn tại trên thực tế nhưng sau thời điểm đấu giá, tài sản mới thuộc sở hữu của bên bán. Với tính chất đặc thù như vậy, cần có một quy chế pháp lý riêng trong đấu giá để bảo đảm cho tài sản được hình thành trong tương lai trở thành đối tượng đấu giá, hạn chế rủi ro pháp ly và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

<small>của các bên.</small>

Về nguyên tắc, BLDS và Luật thương mại quy định tài sản được hình thành trong tương lai có thé là đối tượng của giao dịch. Pháp luật hiện hành về đấu giá cũng khơng cấm đưa tài sản được hình thành trong tương lai vào đấu giá. Nhưng quy định của pháp luật mới chỉ phù hợp cho đấu giá tài sản hiện có (tài sản đã được tạo lập trên thực tế và đã xác định được chủ sở hữu tại thời điểm đấu giá) còn đấu giá tài sản được hình thành trong tương lai chưa được quy định cụ thể.

Do quy định không cụ thé, loại tài sản này khó trở thành đối tượng đấu giá hoặc có quá nhiều rủi ro pháp lý, cũng như bất cập trong xác định tài sản bán; người bán tài sản; bên tham gia đấu giá; hợp đồng đấu giá và xác lập quyền đối với tài sản dau <small>giá... Ví dụ: chưa có giải pháp phù hợp cho việc cơng khai tài sản được hình thành</small> trong tương lai khi đem ra đấu giá; quyền lợi của bên được mua tài sản đấu giá và trách nhiệm của bên bán tài sản dau giá chưa có quy định cụ thé trong trường hop tài sản bán đấu giá chưa được hình thành hoặc mới hình thành một phần trên thực tế...

- Tài sản đấu giá là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia: Luật di sản van hóa quy định “việc mua bán di vật, cô vật, bảo vật quốc gia được thực hiện theo giá thỏa thuận hoặc tổ chức đấu giá. Nhà nước được ưu tiên mua di vật, cô vật, bảo vật quốc gia” (khoản 2 Điều 43). Đấu giá di vật, cô vật, bảo vật quốc gia là một lĩnh vực dau gia chuyên ngành đòi hỏi năng lực về đấu giá rất cao của người ban tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, tô chức đấu giá, đấu giá viên và cơ quan quản lý nhà nước có thầm quyền về di vật, cô vật, bảo vật quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn chưa hình thành một quy chế pháp lý đặc thù dé phù hợp với yêu cầu cao về năng lực đấu giá như vậy, cũng như trong bảo đảm đấu giá di vật, cô vật, bảo vật quốc gia thực

</div>

×