Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Bán đấu giá tài sản một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THỊ TÂM

BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN - MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Minh Tuấn

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Đặng Thị Tâm




LỜI CẢM ƠN
Đấu giá tài sản là một hình thức mua bán tài sản đặc biệt. Để đáp ứng yêu
cầu phát triển của thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật về đấu giá của
Việt Nam từng bước được xây dựng và dần hoàn thiện. Với đề tài nghiên cứu “Bán
đấu giá tài sản – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đặt ra trong bối cảnh cảnh bán
đấu giá tài sản với nhiều biến động, ngày càng trên diện rộng nhưng thiếu hành lang
pháp lý. Vấn đề nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho bán đấu
giá tài sản đấu đang đặt ra hết sức cần thiết và đang là sự trông đợi của cả xã hội.
Trong quá trình nghiên cứu, do vấn đề khá rộng và chưa thu hút được sự chú ý của
nhiều nhà nghiên cứu nên tác giả gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, tác giả đã nhận
được sự giúp đỡ tận tình của các Thầy Cô giáo trường Đại học Luật Hà Nội. Và đặc
biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo – TS. Nguyễn Minh
Tuấn đã tận tình hướng dẫn để hoàn thành luận văn này.

Tác giả luận văn

Đặng Thị Tâm


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .................................................................................................................5
1.1.Khái niệm bán đấu giá tài sản ........................................................................5
1.2. Đặc điểm bán đấu giá tài sản: ........................................................................7
1.2.1. Chủ thể bán đấu giá tài sản: ......................................................................7
1.2.2. Về nội dung bán đấu giá tài sản: ...............................................................8

1.2.3. Phương thức đấu giá tài sản ......................................................................8
1.2.4. Hình thức đấu giá tài sản: ..........................................................................9
1.3. Ý nghĩa của việc BĐGTS: ............................................................................10
1.3.1. Đối với cá nhân, tổ chức: .........................................................................10
1.3.2. Đối với Nhà nước: ....................................................................................10
1.3.3. Đối với thị trường bất động sản: ..............................................................11
1.4. Hợp đồng bán đấu giá tài sản: .....................................................................11
1.4.1. Chủ thể của hợp đồng bán đấu giá tài sản...............................................13
1.4.2. Địa vị pháp lý của các chủ thể trong hợp đồng BĐGTS: .......................14
1. 5. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật BĐGTS ở Việt Nam:......19
1.5.1. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1996 .....................................................19
1.5.2. Giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2005 .....................................................20
1.5.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010: ....................................................21
1.5.4. Giai đoạn từ năm 2010 đến nay: ..............................................................24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ....................................................................................29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BÁN ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................................................30
2.1. Thực trạng pháp luật bán đấu giá tài sản: .................................................30
2.1.1. Về tính hệ thống của pháp luật đấu giá: ..................................................30
2.1.2. Về tài sản bán đấu giá:.............................................................................31


2.1.3. Về phương thức đấu giá và hình thức đấu giá: ........................................34
2.1.4. Về người có tài sản bán đấu giá...............................................................37
2.1.5. Người tham gia đấu giá ............................................................................38
2.2. Thực tiễn thực thi pháp luật bán đấu giá tài sản .......................................39
2.2.1. Bất cập trong thực hiện pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất: ..........39
2.2.2. Thực tiễn bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự: ..................................47
2.2.3. Việc thành lập hội đồng BĐGTS trong trường hợp đặc biệt: ..................52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ....................................................................................55

CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ......56
3.1. Một số nguyên nhân dẫn đến những bất cập trong BĐGTS: ...................56
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về BĐGTS: ............61
3.2.1. Xây dựng Luật đấu giá và các văn bản pháp luật về đấu giá một cách
thống nhất: .........................................................................................................61
3.2.2. Một số vấn đề cần pháp điển hóa khi xây dựng Luật đấu giá .................62
3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực đấu giá quyền sử dụng đất .... 64
3.2.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực BĐGTS thi hành án: ......64
3.2.5. Củng cố, kiện toàn tổ chức bán đấu giá tài sản .......................................65
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ....................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................69


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BĐGTS

: Bán đấu giá tài sản

2. BLDS

: Bộ luật dân sự

3. HĐND

: Hội đồng nhân dân

4. TAND

: Tòa án nhân dân


5. THADS

: Thi hành án dân sự

6. UBND

: Ủy ban nhân dân

7. VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, tài sản vừa có giá trị sử dụng vừa
có giá trị kinh tế, nó trở thành yếu tố quan trọng trong giao lưu dân sự. Với vai trò và
ý nghĩa to lớn đó, theo quy định của BLDS, để phát huy quyền chủ động của các cơ
quan nhà nước và cá nhân, hạn chế những tiêu cực phát sinh trong quá trình quản lý
và sử dụng tài sản cần thiết phải có những quy định chặt chẽ hơn. Ở nước ta BĐGTS
với tư cách là một chế định pháp lý đã ra đời rất sớm và ngày càng khẳng định vai trò
của nó trong đời sống xã hội theo yêu cầu đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý Việt Nam, nội dung BĐGTS vẫn chưa
được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện.
Chẳng hạn, dưới góc độ khoa học, hàng loạt vấn đề cần được làm sáng tỏ để có
quan điểm thống nhất và đầy đủ như lịch sử, khái niệm, bản chất pháp lý và các loại
tài sản bán đấu giá, lịch sử phát triển của các quy phạm về lĩnh vực này hay việc tổng
kết và đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định về BĐGTS, các giải pháp nâng cao

hiệu quả áp dụng... Chính phủ đã ban hành Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về BĐGTS
và Thông tư số 03/2005/TT-BTP hướng dẫn một số Quy định của Nghị định số
05/2005/NĐ-CP. Sau 05 năm thực hiện Nghị định 05/2005/NĐ-CP đã bộc lộ một số
bất cập, vướng mắc và có nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn, để đáp ứng yêu cầu
này, Chính phủ đã ban hành nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 về
BĐGTS (sau đây gọi tắt là Nghị định 17/2010/NĐ-CP) thay thế nghị định số
05/2005/NĐ-CP có hiệu lực ngày 1/7/2010. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu
sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn về BĐGTS, sự thể hiện chúng
trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đánh giá việc áp dụng những
quy định của pháp luật trong thực tiễn để hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy phạm về lĩnh vực này trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa
lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Tác
giả cố gắng trong chừng mực nhất định làm sáng tỏ một số vấn đề được coi là điểm
nóng hiện nay- “Bán đấu giá tài sản - những vấn đề lý luận và thực tiễn”.


2
2. Tình hình nghiên cứu:
Vấn đề BĐGTS không còn là mới về mặt lý luận nhưng luôn mang tính mới mẻ
về mặt thực tiễn. Ở nước ta hiện nay, liên quan tới vấn đề này hiện có một số bài
nghiên cứu từ các tạp chí, cụ thể là Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư Pháp
số 2/2012 với bài viết của ThS. Đinh Duy Bằng: “Một số vướng mắc bán đấu giá tài
sản để thi hành án”; Tạp chí Dân chủ và pháp luật của Bộ Tư Pháp số 6/2012 với
bài viết của tác giả ThS. Lê Ngọc Thạnh với đề tài: “Hoạt động đấu giá – góc nhìn
so sánh pháp luật thương mại và pháp luật dân sự”; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
6/2012 của tác giả Nhân Kiệt với bài viết: “Hội đồng bán đấu giá tài sản trong
trường hợp đặc biệt – nên hay không”; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 7/2013 của
ThS. Lê Thị Hương Giang với bài viết: “Tại sao tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp
không muốn bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự”; Tạp chí dân chủ và pháp luật
số 12/2013 của tác giả ThS. Trần Tiến Hải với bài viết: “ Bất cập trong thực hiện

pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất”; Tạp chí Dân chủ và Luật học số 6/2011
của tác giả Hải Dương với đề tài:”Cần sớm khắc phục một số bất cập về bán đấu giá
tài sản”; Tạp chí Kiểm sát số 23 (tháng 12/2011) của tác giả Nguyễn Hồng Sinh với
bài viết: “Những khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát việc bán đấu giá tài
sản thi hành án”; Tạp chí Nghề luật số 2 (tháng 4/2012) của tác giả Hà Thị Lan Anh
với bài viết: “Những vướng mắc cần được tháo gỡ khi thực hiện bán đấu giá tài
sản”; Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Thanh Nga với đề tài “Một số vấn
đề về quản lý nhà nước đối với hoạt động bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay”
năm 2012; Mặc dù bán đấu giá tài sản đang được thực hiện khá phổ biến, tuy nhiên
những vấn đề pháp lý về bán đấu giá tài sản vẫn chưa được luận giải một cách có hệ
thống, sâu sắc và đầy đủ của khoa học pháp lý.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng nghiên cứu của luận văn:
3.1.

Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng kết các quan hệ về BĐGTS để làm sáng tỏ
một cách có hệ thống về mặt lý luận và thực tiễn các những nội dung cơ bản của
nghiệp vụ BĐGTS theo Luật dân sự Việt Nam và việc áp dụng những quy định này
trong thực tiễn, từ đó xác định những bất cập để đề xuất hoàn thiện pháp luật .


3
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ
nghiên cứu chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của nghiệp vụ BĐGTS

cho đến nay, phân tích khái niệm, các loại tài sản bán đấu giá, chủ thể tham gia bán
đấu giá, các đơn vị đựơc tiến hành bán đấu giá, trình tự và thủ tục bán đấu giá trong
các quy định hiện hành để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản
của nghiệp vụ bán đấu giá theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật về
nghiệp vụ bán đấu giá trong thực tiễn nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại
xung quanh việc quy định nghiệp vụ bán đấu giá và thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất
và luận chứng sự cần thiết phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy phạm về nghiệp vụ này trong pháp luật Việt Nam.
3.3.

Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bán
đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam cụ thể là: lịch sử hình thành và khái niệm
BĐGTS, chủ thể tham gia bán đấu giá, hình thức và trình tự, thủ tục bán đấu giá
trong các quy định hiện hành.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nghiệp vụ BĐGTS.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Chủ nghĩa duy vật biện chứng,
phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật
- Các phương pháp cụ thể: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về bán đấu giá.
- Phân tích thực trạng bán đấu giá tài sản hiện nay.
- Phân tích được nguyên nhân dẫn đến bất cập trong BĐGTS.



4
- Đánh giá được những điểm mới của Nghị định 17/2010/NĐ-CP.
- Tìm một số bất cập của Nghị định 17/2010/NĐ-CP, trên cơ sở đó đưa ra hướng
hoàn thiện Nghị định 17/2010/NĐ-CP và ban hành văn bản hướng dẫn Nghị
định 17/2010/NĐ-CP.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung của luận văn được
chia làm ba phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bán đấu giá tài sản ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn về bán đấu giá tài sản ở Việt
Nam Chương 3: Hoàn thiện pháp luật bán đấu giá tài sản ở Việt Nam


5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1.Khái niệm bán đấu giá tài sản
Đấu giá tài sản là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế-xã hội. Đây là một trong những cách thức linh hoạt để chuyển quyền sở
hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế
nói chung, hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá nói riêng phát triển một cách đa
dạng. Trong những năm qua, hoạt động BĐGTS ở nước ta đã từng bước phát triển,
có những đóng góp quan trọng trong công tác thi hành pháp luật, đặc biệt là công tác
thi hành án dân sự và xử lý vi phạm hành chính.
Trên thế giới, đấu giá có lịch sử lâu đời (hình thành từ thời kỳ văn minh Hy Lạp
cổ đại – khoảng 500 năm trước công nguyên)2 và trong nền kinh tế thị trường, bên
cạnh các phương thức mua bán thông thường, mua bán tài sản thông qua đấu giá ngày
càng phổ biến. Có nhiều mục đích được đặt ra khi các bên lựa chọn phương thức mua
bán này, nhưng mục đích thường được hướng tới là nhằm đưa tài sản tiếp cận với đại
chúng người mua, qua đó phát huy cao nhất giá trị hàng hóa của tài sản hoặc đáp ứng

cao nhất mục đích khác mà người bán tài sản đấu giá mong muốn đạt được.
Theo quan niệm truyền thống thì bán đấu giá là việc bán hàng hoá hoặc tài
sản công khai có nhiều người cùng muốn mua một tài sản, cho nên mỗi người trả
một giá theo nhu cầu, điều kiện kinh tế của mình, người trả giá cao nhất phù hợp
với nhu cầu của người bán sẽ được mua tài sản.
Ở Việt Nam, theo Từ điển Luật học thì “BĐGTS là hình thức bán công khai một
tài sản, một khối tài sản; theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người
trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản”.
Theo khoản 1 Điều 2, Nghị định 17/2010/NĐ–CP thì “BĐGTS là hình thức bán
tài sản công khai theo phương thức trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu
2

Nghề đấu giá được hình thành ở một số nước Châu Âu, như Hà Lan… từ thế kỷ XV và thực sự phát triển từ

thế kỷ XVII ở nhiều nước Châu Âu;


6
giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục được quy định tại Nghị định này. Phương
thức trả giá lên là phương thức trả giá từ thấp lên cao cho đến khi có người trả giá
cao nhất”. Đồng thời Nghị định 17/2010/NĐ – CP cũng xác định các loại tài sản
bán đấu giá chỉ bao gồm:
 Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà
nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
 Tài sản bảo đảm trong trường hợp pháp luật về giao dịch bảo đảm quy định
phải xử lý bằng bán đấu giá;
 Tài sản nhà nước được xử lý bằng bán đấu giá theo quy định của pháp luật
về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản là quyền sử dụng đất trong
trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất được
bán đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

 Các tài sản khác phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
 Trong trường hợp cá nhân, tổ chức lựa chọn tổ chức bán đấu giá chuyên
nghiệp để bán tài sản thuộc sở hữu của mình thì áp dụng nguyên tắc, trình tự,
thủ tục bán đấu giá tài sản quy định của nghị định.
Đấu giá tài sản về cơ bản khác biệt so với đấu giá hàng hoá ở chỗ, nếu như ở
BĐGTS chỉ thừa nhận phương thức trả giá lên thì bán đấu giá hàng hóa được thực
hiện theo hai phương thức là phương thức trả giá lên và phương thức đặt giá xuống.
Thông qua hình thức BĐGTS, quyền lợi của người có tài sản được thỏa mãn
một cách tốt nhất, còn người mua sẽ mua được tài sản với giá cả phù hợp, các
quyền lợi của người mua liên quan đến tài sản đã mua được đáp ứng một cách
nhanh chóng.
Vậy, BĐGTS là hình thức mua bán tài sản được tổ chức công khai theo trình tự,
thủ tục luật định và được tiến hành qua phương thức trả giá lên, người trả giá cao
nhất không thấp hơn giá khởi điểm sẽ đựơc mua tài sản. Thông qua các tổ chức bán
đấu giá, quan hệ mua bán tài sản giữa người có tài sản bán đấu giá và người mua
được tài sản phát sinh, tổ chức bán đấu giá có nghĩa vụ làm các thủ tục chuyển
giao tài sản và quyền sở hữu tài sản cho người mua được tài sản.


7
1.2. Đặc điểm bán đấu giá tài sản:
1.2.1. Chủ thể bán đấu giá tài sản:
Theo Điều 14 Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định về Tổ chức bán đấu giá
chuyên nghiệp bao gồm: “1. Trung tâm dịch vụ BĐGTS. 2. Doanh nghiệp BĐGTS,
doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề có kinh doanh dịch vụ BĐGTS (sau đây gọi
chung là doanh nghiệp BĐGTS)”.
Từ quy định trên cho thấy, người tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp phải là một
trong hai loại hình tổ chức được pháp luật quy định là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá
hoặc doanh nghiệp BĐGTS.
Các Trung tâm và doanh nghiệp BĐGTS bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong

việc BĐGTS theo quy định của Nghị định này, trừ việc BĐGTS là tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính phải được chuyển giao cho Trung tâm bán theo quy định
của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Để đảm bảo phù hợp với nhu cầu phát
triển dịch vụ BĐGTS trong nền kinh tế thị trường, Nghị định cũng giao trách nhiệm
cho Sở Tư pháp xây dựng đề án về lộ trình chuyển đổi các Trung tâm dịch vụ
BĐGTS sang mô hình doanh nghiệp đối với tỉnh, thành phố có từ 02 doanh nghiệp
BĐGTS trở lên và trình UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê
duyệt (Điều 53 Nghị định 17/2010/NĐ-CP).
Ngoài các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp, Điều 19, Điều 20 Nghị định
17/2010/NĐ-CP cũng quy định 02 loại Hội đồng:
Một là: Hội đồng BĐGTS cấp huyện do Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là UBND cấp huyện) quyết định thành lập
để BĐGTS là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính do cơ quan tịch thu từ cấp
huyện trở xuống ra quyết định tịch thu theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính. Hội đồng BĐGTS cấp huyện gồm đại diện cơ quan có thẩm quyền quyết
định tịch thu tài sản, đại diện phòng Tài chính, phòng Tư pháp cấp huyện và đại diện
các cơ quan có liên quan. Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định rõ trách nhiệm của
Hội đồng BĐGTS, trong đó, có trách nhiệm phải “ký hợp đồng với tổ chức bán đấu
giá chuyên nghiệp để tổ chức này cử đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá tài sản
của Hội đồng” (Điểm b khoản 1, Điều 21 Nghị định 17/2010/NĐ-CP).


8
Hai là: Hội đồng BĐGTS trong trường hợp đặc biệt do Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan trung ương, UBND cấp tỉnh quyết định thành lập để bán các tài sản có giá
trị lớn, phức tạp bao gồm tài sản là trụ sở làm việc, tài sản khác gắn liền với đất
(bao gồm cả quyền sử dụng đất) có nguyên giá theo sổ kế toán từ 1.000 (một ngàn)
tỷ đồng trở lên; tài sản khác không phải là trụ sở làm việc, không phải là tài sản
khác gắn liền với đất có giá khởi điểm để bán đấu giá từ 100 (một trăm) tỷ đồng trở
lên; tài sản có nguồn gốc phức tạp, tài sản đặc biệt quý hiếm, có yêu cầu quản lý đặc

biệt của Nhà nước hoặc các trường hợp đặc biệt khác theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền; tài sản khác mà không thuê được tổ chức BĐGTS chuyên
nghiệp thực hiện việc bán đấu giá. Đại diện BĐGTS trong trường hợp đặc biệt bao
gồm đại diện cơ quan có thẩm quyền quyết định BĐGTS, cơ quan tài chính, cơ
quan tư pháp cùng cấp và đại diện cơ quan, tổ chức có liên quan.
1.2.2. Về nội dung bán đấu giá tài sản:
BĐGTS được tổ chức bán công khai, có nhiều người tham gia trả giá để cho
những người có nhu cầu có thể tham gia đấu giá để mua tài sản. Pháp luật dân sự
quy định đấu giá là hình thức công khai lựa chọn người mua nên mọi vấn đề có liên
quan đến cuộc bán đấu giá và những thông tin về tài sản, hàng hoá bán đấu giá phải
được công khai cho tất cả những người muốn mua biết bằng hình thức: niêm yết,
thông báo, trưng bày, giới thiệu về tài sản; công khai về thời gian, địa điểm tiến
hành bán đấu giá; tên loại tài sản bán đấu giá; số lượng, chất lượng, giá khởi điểm;
địa điểm trưng bày, các hồ sơ tài liệu liên quan đến tài sản; công khai họ tên người
bán hàng, tên tổ chức bán đấu giá và cá nhân, tổ chức đăng kí mua và tại phiên đấu
giá, người điều hành bán đấu giá phải công khai các mức giá được trả và họ tên
người mua trả giá cao nhất của mỗi lần trả giá...
1.2.3. Phương thức đấu giá tài sản
Theo BLDS, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP quy định, phương thức trả giá lên và
người trả giá cao nhất, cao hơn hoặc ngang bằng với giá khởi điểm là người được
mua tài sản đấu giá là phương thức duy nhất được quy định về mặt pháp lý. Đây là
cách thức mà tại cuộc bán đấu giá, nhân viên điều hành bán đấu giá nêu lên giá khởi


9
điểm thấp nhất của tài sản bán đấu giá. Sau đó những người mua sẽ trả giá nâng dần
lên theo từng mức mặc cả nhất định. Người trả giá cao nhất theo sự kết luận của
nhân viên điều hành đấu giá sẽ được quyền mua tài sản đó. Phương thức này được
áp dụng phổ biến nhất trong các cuộc đấu giá vì nó có lợi cho cả bên mua và bên
bán. Bên mua được chủ động đề xuất giá đặt mua nên quan hệ mua bán mang tính

tự nguyện rất cao. Còn bên bán thường được lợi về giá cả vì luôn có sự trả giá cao
hơn giá khởi điểm mà mình đưa ra.
1.2.4. Hình thức đấu giá tài sản:
Theo Điều 33 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP, tổ chức BĐGTS có thể lựa chọn
một trong các hình thức đấu giá sau đây để tiến hành cuộc bán đấu giá tài sản: (1)
đấu giá trực tiếp bằng lời nói; (2) đấu giá bằng bỏ phiếu; (3) các hình thức khác do
người có tài sản bán đấu giá và tổ chức BĐGTS thỏa thuận.
Như vậy, về nguyên tắc, ngoài hai hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói, đấu
giá bỏ phiếu thì người có tài sản bán và tổ chức bán đấu giá có quyền lựa chọn hình
thức đấu giá khác, ví dụ: đấu giá qua internet hoặc hệ thống nhắn tin SMS, MMS
được thực hiện tương đối phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành còn
chưa có quy định cụ thể về hình thức đấu giá này, trong khi đây là hình thức đấu giá
mang tính kỹ thuật rất cao và cũng có rất nhiều rủi ro pháp lý, đặc biệt trong việc
bảo vệ quyền, lợi ích của người tham gia đấu giá.
Ta thấy, hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói là khi bắt đầu phiên đấu giá,
nhân viên điều hành đấu giá dùng lời nói của mình để đưa ra giá khởi điểm. Những
người mua sẽ đặt giá cũng bằng lời nói hoặc bằng việc làm dấu hiệu để người điều
hành đấu giá biết. Hình thức đề nghị giao kết hợp đồng trong đấu giá dùng lời nói
có ưu điểm là sự trả giá của mọi người mua đều công khai, người trả giá cao nhất
được xác định ngay mà không phải mất nhiều thời giờ để so sánh, vì thế mà cuộc
đấu giá nhanh chóng kết thúc.
Còn hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu thì được viết ra giấy. Nhân viên điều hành
sẽ thông báo mức giá cao nhất qua mỗi lần trả giá trên cơ sở so sánh các mức giá
chấp nhận mà họ được thông báo. Việc đấu giá kéo dài cho tới lần trả giá liền trước


10
đó. Tuy thủ tục có phức tạp và làm mất nhiều thời gian hơn nhưng hình thức này
hạn chế được tình trạng chạy đua của những người mua nâng giá lên một cách quá
cao so với giá trị. Sau khi người trả giá cao nhất được mua tài sản sẽ ký hợp đồng

với tổ chức bán đấu giá bằng văn bản. Nếu tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử
dụng thì văn bản bán đấu giá phải công chứng.
1.3. Ý nghĩa của việc BĐGTS:
1.3.1. Đối với cá nhân, tổ chức:
Bản chất của BĐGTS là quan hệ dân sự về mua bán tài sản thông qua hình thức
đấu giá nhằm bán được tài sản với giá cao nhất. Hoạt động BĐGTS được diễn ra
theo ý chí của chủ sở hữu và người được chủ sở hữu ủy quyền yêu cầu tổ chức có
chức năng BĐGTS thực hiện việc bán đấu giá.
Tài sản trong đấu giá rất đa dạng. Căn cứ vào trình tự, thủ tục quy định cho
việc BĐGTS thì các loại tài sản bán đấu giá có thể được chia ra hai loại tài sản: tài
sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức được bán theo hình thức tự nguyện và tài sản
tư pháp được bán theo hình thức bắt buộc. Tài sản thuộc sở hữu của cá nhân, tổ
chức là những tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật, ví dụ như
hàng hóa, một số loại đồ cổ, tác phẩm nghệ thuật, đồ sưu tầm, phương tiện giải trí,
bất động sản, đồ dùng gia đình, hàng tiêu dùng, đồ văn phòng, máy tính, v.v. Do
vậy đấu giá tài sản là một trong những cách thức linh hoạt để chuyển quyền sở hữu
tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói
chung, hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá nói riêng phát triển một cách đa dạng.
1.3.2. Đối với Nhà nước:
Tài sản tư pháp bao gồm tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về
thi hành án; tài sản là tang vật phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ
nhà nước theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; tài sản bảo đảm
theo quy định của pháp luật về giao dịch có bảo đảm; hàng hoá lưu giữ do người
vận chuyển đường biển, đường hàng không; đường bộ lưu giữ tại cảng, kho; tài sản
nhà nước phải BĐGTS theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước.


11
Trong những năm qua, hoạt động BĐGTS ở nước ta đã từng bước phát triển, có
những đóng góp quan trọng trong công tác thi hành pháp luật, đặc biệt là công tác

THADS và xử lý vi phạm hành chính.
1.3.3. Đối với thị trường bất động sản:
Đấu giá quyền sử dụng đất là một hình thức chuyển quyền sử dụng đất từ Nhà
nước sang tổ chức, cá nhân, hộ gia đình, thông qua đó Nhà nước giao đất, cho thuê
đất đối với tổ chức, hộ gia đình và cá nhân có nhu cầu.Việc đấu giá quyền sử dụng
đất là lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm, do còn nhiều cách hiểu khác nhau về cùng
một vấn đề nên đã gặp không ít khó khăn trong áp dụng pháp luật khi tác nghiệp và
trong xử lý vi phạm khi thanh tra, kiểm tra, do vậy, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ
sung các văn bản pháp luật có liên quan nhằm loại trừ các quy định chồng chéo,
mâu thuẫn, gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức trong quá trình đưa các văn bản pháp
luật về BĐGTS nói chung và đấu giá quyền sử dụng đất nói riêng vào thực tiễn
cuộc sống. Để hạn chế việc thông đồng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn thu lợi bất
chính thông qua hoạt động đấu giá quyền sử dụng đất, pháp luật cần quy định chặt
chẽ, cụ thể về điều kiện, trình tự thủ tục, yêu cầu đấu giá quyền sử dụng đất.
1.4. Hợp đồng bán đấu giá tài sản:
Có thể hiểu BĐGTS là một quá trình bao gồm 2 giai đoạn: khi tài sản bán đấu
giá được chuyển giao từ chủ sở hữu tài sản (sau đây gọi là người có tài sản) sang
bên có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để đưa tài sản ra bán đấu giá (pháp luật
quy định là các tổ chức có chức năng BĐGTS, sau đây gọi là bên bán đấu giá) và
khi cuộc đấu giá đã hoàn thành, tài sản được chuyển giao từ bên BĐGTS sang
người mua được tài sản, đồng thời quyền sở hữu tài sản (bao gồm quyền chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt) lúc này cũng được chuyển giao từ người có tài sản sang
người mua được tài sản (trừ trường hợp tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì dù
cuộc đấu giá đã hoàn thành và tài sản đã được chuyển giao nhưng người mua được
tài sản chỉ chính thức có quyền sở hữu tài sản khi bên bán tài sản hoàn thành các thủ
tục đăng ký). Mỗi giai đoạn của BĐGTS được pháp luật quy định phải lập thành
hợp đồng với hình thức bằng văn bản mà tùy từng giai đoạn chủ thể của hợp đồng
lại có những quyền và nghĩa vụ khác nhau.



12
Thực tiễn giao dịch dân sự ngày càng phong phú về hình thức cũng như đối
tượng đưa ra giao dịch, với những tài sản có giá trị lớn, chưa xác định được giá trị
hoặc có giá trị có thể thay đổi thì chủ sở hữu tài sản có thể lựa chọn hình thức
BĐGTS để thu về giá trị cao nhất của tài sản (đây là trường hợp cá nhân, tổ chức
lựa chọn tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp để bán tài sản thuộc sở hữu của mình).
Không phụ thuộc vào việc quyền sở hữu tài sản thuộc về cá nhân, tổ chức hay được
hình thành thông qua các hình thức khác, pháp luật quy định mọi cuộc bán đấu giá
đều phải do đấu giá viên điều hành theo đúng trình tự, thủ tục BĐGTS, trừ trường
hợp BĐGTS nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất có giá trị lớn, phức tạp hoặc
trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện
việc bán đấu giá (lúc này Hội đồng bán đấu giá trong trường hợp đặc biệt được
thành lập để thực hiện việc bán đấu giá). Đấu giá viên được quy định là những
người có đủ tiêu chuẩn và điều kiện luật định và làm việc thường xuyên tại một tổ
chức bán đấu giá chuyên nghiệp, như vậy có thể hiểu việc BĐGTS không phải do
người có tài sản trực tiếp thực hiện mà do tổ chức BĐGTS thực hiện dưới sự ủy
quyền của chủ sở hữu tài sản thể hiện bằng hợp đồng BĐGTS.
Hợp đồng BĐGTS là sự thoả thuận giữa bên có tài sản bán đấu giá (hoặc người
đại diện của người đó) và trung tâm dịch vụ BĐGTS hoặc doanh nghiệp có chức
năng BĐGTS (trừ trường hợp đối với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính thì Trung tâm dịch vụ BĐGTS hoặc Hội đồng BĐGTS cấp huyện căn cứ
quyết định tịch thu và biên bản chuyển giao tài sản để tổ chức bán đấu giá mà
không phải ký kết hợp đồng BĐGTS). Về bản chất, đây không phải là hợp đồng
mua bán tài sản giữa người có tài sản và tổ chức có chức năng BĐGTS mà là hợp
đồng cung cấp dịch vụ BĐGTS, theo đó bên có tài sản yêu cầu tổ chức bán đấu giá
đứng ra thay mặt mình thực hiện việc bán đấu giá theo đúng trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định, tổ chức bán đấu giá thực hiện công việc được yêu cầu và nhận
các khoản phí theo thỏa thuận (trong trường hợp bán đấu giá thành cũng như bán
đấu giá không thành). Nội dung của hợp đồng về cơ bản quy định trách nhiệm,
quyền và nghĩa vụ của bên có tài sản bán đấu giá, một số điều khoản có liên quan



13
đến người thứ ba trong hợp đồng như người giữ tài sản, người tham gia đấu giá tài
sản. Theo quy định tại Khoản 2 - Điều 25 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP thì hợp
đồng BĐGTS phải được lập thành văn bản và có các nội dung chủ yếu sau đây: Họ,
tên, địa chỉ của người có tài sản bán đấu giá; tên, địa chỉ của người BĐGTS; Thời
hạn, địa điểm BĐGTS; Liệt kê, mô tả tài sản bán đấu giá; Giá khởi điểm của tài sản
bán đấu giá; Thời hạn, địa điểm, phương thức giao tài sản để bán đấu giá; Việc
thanh toán tiền bán tài sản trong trường hợp bán đấu giá thành; Các chi phí thực
tế, hợp lý cho việc BĐGTS; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm
hợp đồng; Các thoả thuận khác.
1.4.1. Chủ thể của hợp đồng bán đấu giá tài sản
Thông thường, một bên trong hợp đồng BĐGTS chính là chủ sở hữu tài sản, tuy
nhiên tùy từng trường hợp mà người có quyền bán tài sản có thể không phải là chủ
sở hữu tài sản, ví dụ: chấp hành viên có thẩm quyền xử lý tài sản (với tài sản để thi
hành án); cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định bán tài sản nhà nước theo
quy định của pháp luật (với tài sản nhà nước); các chủ sở hữu chung hoặc người đại
diện của họ (với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất); người có quyền xử lý tài sản
(với tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh); thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền xử lý tài
sản (với tài sản là tang chứng, vật chứng trong quá trình tố tụng) (khoản 1 Điều 26
Nghị định số 17/NĐ-CP). Do sự đa dạng về chủ thể này mà bên có tài sản cần bán
trong hợp đồng BĐGTS được gọi chung là bên có quyền bán tài sản.
Bên còn lại trong hợp đồng, cũng chính là bên cung cấp dịch vụ bán đấu giá, có
thể là trung tâm dịch vụ BĐGTS hoặc doanh nghiệp BĐGTS, doanh nghiệp hoạt
động đa ngành nghề có kinh doanh dịch vụ BĐGTS (Điều 14 Nghị định số 17/NĐCP). Pháp luật quy định: trung tâm dịch vụ BĐGTS do Chủ tịch UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập. Mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chỉ thành lập một Trung tâm. Doanh nghiệp BĐGTS được thành lập,
hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và quy định tại Nghị định số
17/2010/NĐ-CP. Cũng như sự đa dạng của bên có quyền bán tài sản, không phải

trong mọi trường hợp bên cung cấp dịch vụ bán đấu giá đều là tổ chức bán đấu giá


14
chuyên nghiệp, ví dụ: Với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị
tịch thu theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, Chủ tịch UBND
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh sẽ thành lập hội đồng BĐGTS cấp huyện;
với tài sản nhà nước, tài sản là quyền sử dụng đất giá có giá trị lớn, phức tạp hoặc
trong trường hợp không thuê được tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp thực hiện
việc bán đấu giá, hội đồng BĐGTS trong trường hợp đặc biệt sẽ được thành lập, bao
gồm đại diện của cơ quan có thẩm quyền quyết định BĐGTS, cơ quan tài chính, cơ
quan tư pháp cùng cấp và đại diện các cơ quan, tổ chức có liên quan,v..v… Như
vậy, nếu trong bán hàng hoá, người tổ chức bán có thể là cá nhân hoặc các chủ thể
khác tự bán tài sản của mình thì trong BĐGTS, người tổ chức bán đấu giá phải là một
trong ba loại hình tổ chức được pháp luật quy định. Hơn thế nữa, pháp luật dân sự
còn quy định rất chặt chẽ về điều kiện của các tổ chức này, đó là:
- Doanh nghiệp được tiến hành kinh doanh dịch vụ BĐGTS phải có đủ các điều
kiện sau đây: có đăng kí‎ kinh doanh dịch vụ BĐGTS; có ít nhất một đấu giá viên;
có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện BĐGTS.
- Đối với Trung tâm dịch vụ BĐGTS sẽ do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương quyết định thành lập giao cho Sở chuyên môn có chức năng quản
lí‎ nhà nước về công tác BĐGTS tại địa phương trực tiếp quản lý. Trung tâm là đơn
vị sự nghiệp có thu, có trụ sở, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
Trung tâm có giám đốc, kế toán, thủ quỹ, thủ kho và ít nhất một đấu giá viên. Giám
đốc Trung tâm phải là đấu giá viên.
- Hội đồng BĐGTS cấp huyện do Chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là UBND cấp huyện) quyết định thành lập để
BĐGTS là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu theo quy định của
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Hội đồng BĐGTS cấp huyện gồm có đại
diện của cơ quan có thẩm quyền quyết định tịch thu tài sản, đại diện phòng Tài

chính, phòng Tư pháp cấp huyện và đại diện các cơ quan có liên quan.
1.4.2. Địa vị pháp lý của các chủ thể trong hợp đồng BĐGTS:
Hợp đồng BĐGTS là hợp đồng dịch vụ và là hợp đồng song vụ. Địa vị pháp lý
của các chủ thể trong hợp đồng này chính là quyền và nghĩa vụ của họ được pháp


15
luật quy định, quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Trước tiên, hợp đồng BĐGTS phải tuân thủ các điều kiện đối với hợp đồng nói
chung, được quy định trong BLDS năm 2005, từ Điều 517 đến hết Điều 526. Tiếp
đó, những quyền và nghĩa vụ này được cụ thể hóa tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
của Chính phủ quy định về BĐGTS.
1.4.2.1.Địa vị pháp lý của bên có tài sản
Trước hết, bên có tài sản có quyền lựa tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp cũng
như lựa chọn hình thức bán đấu giá, có thể là đấu giá trực tiếp bằng lời nói; Đấu giá
bằng bỏ phiếu; hoặc các hình thức khác do người có tài sản bán đấu giá và tổ chức
BĐGTS thỏa thuận (Điều 22 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP). So với quy định tại
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP thì tổ chức bán đấu giá là bên được lựa chọn hình
thức BĐGTS (khoản 1 Điều 17), việc quy định bên có tài sản cũng có quyền lựa
chọn hình thức bán đấu giá hoặc các bên có thể thỏa thuận về hình thức bán đấu giá
là một bước để mở rộng quyền của người có tài sản.
Sau khi đã lựa chọn được tổ chức bán đấu giá và hình thức bán đấu giá, các bên
sẽ bàn bạc định giá khởi điểm bán đấu giá, giá này do người bán tài sản quyết định.
Quá trình này được thực hiện trước khi ký kết hợp đồng BĐGTS hoặc trước khi
chuyển giao tài sản cho tổ chức bán đấu giá. Tuy nhiên, bên có tài sản cần phải
tham khảo ý kiến của người bán đấu giá để định giá tài sản phù hợp với giá thị
trường mà có thể tổ chức bán đấu giá thành công. Với trường hợp xử lý tài sản cầm
cố, thế chấp để thực hiện nghĩa vụ dân sự thì người bán tài sản là người cầm cố, thế
chấp và người nhận cầm cố, thế chấp. Nếu khi kí hợp đồng cầm cố, thế chấp mà các
bên có thỏa thuận về xử lí cầm cố, thế chấp bằng biện pháp bán đấu giá thì cả hai

bên cùng kí hợp đồng bán đấu giá với người bán đấu giá. Người cầm cố, thế chấp
và người nhận cầm cố, thế chấp là một bên của hợp đồng bán đấu giá, vì vậy họ đều
có quyền tham gia định giá khởi điểm bán đấu giá. Nếu trong hợp đồng cầm cố, thế
chấp mà các bên có thỏa thuận xử lí tài sản bằng biện pháp bán đấu giá và người
cầm cố, thế chấp không chịu kí hợp đồng bán đấu giá thì theo quy định về xử lý tài
sản bảo đảm người nhận cầm cố, thế chấp sẽ là người bán tài sản.


16
Về nghĩa vụ của bên có tài sản, BLDS 2005 quy định bên thuê dịch vụ (người có
tài sản bán đấu giá) có nghĩa vụ cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ (tổ chức bán
đấu giá) các thông tin, tài liệu và các phương tiện cần thiết khác để thực hiện công
việc, nếu có thỏa thuận hoặc việc thực hiện công việc đòi hỏi (khoản 1 Điều 520
BLDS). Nghĩa vụ này được cụ thể hóa tại khoản 2 Điều 26 Nghị định số 17/NĐ-CP,
theo đó khi ký kết hợp đồng BĐGTS, người có tài sản bán đấu giá có trách nhiệm
cung cấp cho tổ chức BĐGTS giấy chứng nhận hợp pháp hoặc bằng chứng khác
chứng minh quyền sở hữu hoặc quyền được bán tài sản theo quy định của pháp luật
và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các bằng chứng đó, thêm vào đó, việc liệt kê,
mô tả tài sản cũng là một trong những nội dung bắt buộc của hợp đồng BĐGTS. Tổ
chức BĐGTS không chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng của tài sản đã bán đấu
giá, trừ trường hợp không thông báo đầy đủ, chính xác cho người tham gia đấu giá
tài sản những thông tin cần thiết có liên quan đến giá trị, chất lượng của tài sản đã
bán đấu giá theo hợp đồng BĐGTS.
Tuy Nghị định số 17/2010/NĐ-CP không quy định cụ thể nhưng thông qua quy
định về nội dung của hợp đồng bán đấu giá tại điểm đ khoản 2 Điều 25 yêu cầu các
bên phải thỏa thuận về thời hạn, địa điểm và phương thức giao tài sản đấu giá thì
việc chuyển giao tài sản bán đấu giá cũng được coi là một nghĩa vụ của bên có tài
sản. Đây là quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình BĐGTS, tổ chức
bán đấu giá ngoài việc quản lý các giấy tờ chứng minh nguồn gốc của tài sản còn có
thể nắm bắt được hiện trạng của tài sản, thuận tiện trong việc công bố thông tin đến

người tham gia đấu giá khi có yêu cầu, đồng thời người tham gia đấu giá cũng có
thể yên tâm với tài sản họ định mua. Tuy nhiên việc coi chuyển giao tài sản bán đấu
giá là một nghĩa vụ của bên có tài sản có thực sự cần thiết hay không? Với những
tài sản là động sản có giá trị lớn hoặc quý hiếm, việc chuyển giao tài sản trước khi
bán đấu giá đôi khi lại làm nảy sinh những rủi ro không đáng có. Hợp đồng bán đấu
giá là hợp đồng dịch vụ, đối tượng của hợp đồng là công việc phải thực hiện, do đó
không quy định rõ trách nhiệm chịu rủi ro đối với tài sản. Đặt giả thiết khi tài sản
đang trên đường được chuyển giao đến địa điểm do tổ chức bán đấu giá quản lý mà


17
xảy ra thất lạc hoặc bị đánh cắp thì trách nhiệm chịu rủi ro lúc này thuộc về ai? Tình
huống này liên quan đến hợp đồng giữa bên có tài sản với một bên thứ ba, đó là bên
có trách nhiệm vận chuyển tài sản, tuy nhiên khi tài sản bán đấu giá không còn, việc
bán đấu giá không thể thực hiện được thì theo quy định cho phép bất cứ bên có tài
sản hoặc tổ chức BĐGTS đểu có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng BĐGTS.
Lúc này tổ chức BĐGTS có quyền yêu cầu bên có tài sản thanh toán những chi phí
đã phát sinh trong quá trình chuẩn bị để đem tài sản ra bán đấu giá (chi phí trong
việc thuê sân, kho bãi để trưng bày tài sản bán đấu giá hoặc các chi phí liên quan
đến việc công khai, niêm yết thông tin và thông báo bán đấu giá, v..v…) hay
không? Nếu tổ chức bán đấu giá có quyền này thì thiệt hại thuộc về bên có tài sản
bán đấu giá là rất lớn, khi vừa mất đi tài sản lại vừa phải thanh toán các chi phí phát
sinh cho tổ chức bán đấu giá, như vậy đã thực sự đảm bảo quyền lợi cho bên này
hay chưa?
Mặt khác, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP có những quy định tương đối mở theo
hướng tạo điều kiện tốt nhất để cuộc bán đấu giá tài sản được diễn ra thuận tiện, ví
dụ: “Cuộc BĐGTS có thể được tổ chức tại trụ sở của tổ chức BĐGTS, tại nơi có tài
sản, hoặc tại một địa điểm khác theo thỏa thuận của tổ chức BĐGTS và người có tài
sản bán đấu giá” (Điều 32) hay quy định Tổ chức bán đấu giá có nghĩa vụ “yêu cầu
người có tài sản bán đấu giá giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá

trong trường hợp người có tài sản bán đấu giá đang trực tiếp quản lý tài sản đó”
(khoản 3 Điều 18), như vậy có thể thấy việc đấu giá hoàn toàn vẫn có thể diễn ra dù
người có tài sản không chuyển giao tài sản cho tổ chức bán đấu giá, tài sản bán đấu
giá vẫn có thể hoàn toàn thuộc sự quản lý của bên có tài sản miễn là bên này thực
hiện đầy đủ các quy định về trưng bày tài sản cũng như để những người tham gia
đấu giá được xem tài sản. Hợp đồng dân sự tôn trọng tối đa sự thỏa thuận của các
bên, việc quy định quá cụ thể nội dung của hợp đồng vô hình chung lại hạn chế sự
thỏa thuận ấy và làm nảy sinh những phức tạp không đáng có trong quá trình thực
hiện hợp đồng, thiết nghĩ có nên quy định việc chuyển giao tài sản bán đấu giá như
một nghĩa vụ của bên có tài sản như hiện nay hay không?


18
1.4.2.2.Địa vị pháp lý của bên BĐGTS
Bên BĐGTS là trung tâm dịch vụ BĐGTS do sở tư pháp trực tiếp quản lý hoặc
các tổ chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá có tư cách pháp nhân.
Bên bán đấu giá có nghĩa vụ thông báo, niêm yết công khai, đầy đủ, chính xác
thông tin cần thiết có liên quan đến tài sản đấu giá. Các thông tin về bán đấu giá
như: ngày tháng bán đấu giá, loại tài sản, chất lượng giá khởi điểm….phải được
niêm yết tại trụ sở của tổ chức bán đấu giá. Như vậy, số lượng người biết về việc
BĐGTS sẽ nhiều hơn và việc bán đấu giá sẽ khách quan hơn.
Bên bán đấu giá phải bảo quản tài sản được giao, không được sử dụng tài sản,
nếu làm hư hỏng, mất mát thì phải bồi thường thiệt hại. Trước khi bán đấu giá phải
trưng bày, cho xem hồ sơ tài sản bán đấu giá. Đặc biệt đối với tài sản như nhà ở,
quyền sử dụng đất phải có đầy đủ các giấy tờ hợp pháp về sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất. Bên bán đấu giá phải đảm bảo quyền sở hữu cho người mua về nhà ở,
đảm bảo quyền sử dụng đất cho người mua theo các quy định về chuyển quyền sử
dụng đất trong BLDS và các quy định pháp luật về đất đai.
Sau khi bán đấu giá, bên bán đấu giá phải giao ngay tài sản cho người mua tài
sản bán đấu giá nếu là động sản. Đối với tài sản phải đăng kí quyền sở hữu, bên bán

đấu giá phải giao cho người mua sau khi người mua thanh toán xong tiền mua. Bên
bán đấu giá có nghĩa vụ làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua.
Trong thời hạn mười lăm ngày đối với động sản, ba mươi ngày đối với bất động
sản, việc chuyển quyền sở hữu tài sản bán đấu giá phải hoàn thành.
Tương ứng với nghĩa vụ của người có tài sản, bên bán đấu giá có quyền yêu cầu
người bán tài sản cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin liên quan đến tài sản bán
đấu giá. Thông thường, nếu người bán tài sản tự nguyện bán đấu giá thì các thông
tin do họ cung cấp sẽ đầy đủ, chính xác. Tuy nhiên, người bán đấu giá vẫn phải xem
xét, điều tra các thông tin đó là chính xác, hợp pháp hay không? Trường hợp người
có tài sản không muốn bán tài sản nhưng bị cưỡng chế bán tài sản để thi hành án thì
việc xác định thông tin về tình hình tài sản sẽ gặp nhiều khó khăn như: các loại giấy
tờ liên quan đến tài sản, nguồn gốc tài sản hợp pháp hay do hành vi bất hợp pháp


19
mà có, điều này rất khó xác định. Nếu tài sản bán đấu giá do chiếm hữu bất hợp
pháp mà có và sau khi bán đấu giá, người mua bị người khác khởi kiện và đòi lại tài
sản thì bên bán đấu giá phải bồi thường thiệt hại cho người mua tài sản. Đặc biệt
những tài sản cầm đồ là động sản rất khó xác định nguồn gốc tài sản. Vì rủi ro của
người bán đấu giá là rất lớn nên người bán đấu giá cần phải điều tra cẩn thận nguồn
gốc tài sản bán đấu giá.
Người BĐGTS có quyền yêu cầu người mua phải thực hiện đúng hợp đồng đã kí
kết. Thời điểm kí kết hợp đồng bán đấu giá chính là thời điểm khi người điều hành
bán đấu giá tuyên bố giá cao nhất lần thứ ba mà không ai trả giá nữa. Người mua
phải thực hiện nghĩa vụ, nếu họ không thực hiện nghĩa vụ thì người bán đấu giá có
quyền xử lí tiền lệ phí bán đấu giá mà người mua đã đóng.
Ngoài ra, bên BĐGTS còn phải thực hiện nghiêm túc những nghĩa vụ của
bên cung ứng dịch vụ được quy định tại Điều 522 BLDS, đó là: Không được giao
cho người khác thực hiện thay công việc nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch
vụ; báo ngay cho bên thuê dịch vụ về việc thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương

tiện không đảm bảo chất lượng để thực hiện công việc.v..v…
1. 5. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật BĐGTS ở Việt Nam:
1.5.1. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1996
Dịch vụ BĐGTS tại Việt Nam được hình thành và phát triển từ việc BĐGTS để
THADS. Bởi lẽ, các quy định về BĐGTS được xuất hiện đầu tiên trong pháp luật về
THADS.
Pháp luật về BĐGTS được đánh dấu bằng sự ra đời của Pháp lệnh THADS ngày
28 tháng 8 năm 1989 (Pháp lệnh năm 1989), quy định về BĐGTS để thi hành án.
Khoản 1, Điều 28 của Pháp lệnh năm 1989 quy định về BĐGTS đã kê biên. Đối với
các loại tài sản này, thời gian bán đấu giá phải được niêm yết công khai tại trụ sở
Tòa án và UBND xã, phường, thị trấn nơi có tài sản và thông báo cho đương sự,
chậm nhất là bảy ngày trước ngày bán đấu giá.
Để thực hiện Pháp lệnh năm 1989, TAND Tối cao, VKSND Tối cao và Bộ Tư
pháp có Thông tư liên ngành số 06-89/TTLN ngày 07 tháng 12 năm 1989 hướng


×