Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.07 MB, 77 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS Nguyễn Đức Minh
HÀ NỘI - 2014
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">trong luận văn được trích dẫn theo ngn đã cơng bơ. Những kết luận khoa học
<small>của luận văn chưa từng được ai cơng bơ trong bât kỳ cơng trình nào trước đây.Tác giả luận văn</small>
Nguyễn Thị Thanh Mai
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Với lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Nguyễn Đức Minh, các thầy cơ giáo, gia đình và bạn bè đã động viên, tận tình giúp đỡ tơi trong suốt q trình hoàn thành luận văn này.
<small>Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014Tác giả luận văn</small>
Nguyễn Thị Thanh Mai
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">CHUONG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CUA THỦ TỤC THANH LÝ TÀI SAN, CÁC KHOẢN NO CUA DOANH NGHIỆP LAM VÀO TINH TRANG
PHÁ SẢN
<small>1.1. Khái niệm tài sản và các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phásản</small>
<small>1.1.1. Khải niệm tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng pha san1.1.2. Các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tinh trạng pha san</small>
<small>1.2.Khái niệm thủ tục thanh lý tài sản và các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vàotình trạng phá sản</small>
<small>1.3.Vai trị của thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tìnhtrạng phá sản</small>
Tiểu kết chương 1
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VE THANH LY TAI SAN, CÁC KHOẢN NO CUA DOANH NGHIỆP
LAM VÀO TINH TRANG PHA SAN
2.1. Thực trạng pháp luật về thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm
<small>vào tình trạng phá sản</small>
2.1.1. Chủ thể tham gia thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm
<small>vào tinh trạng pha san</small>
<small>2.1.2. Cac biện pháp bao toàn tài san cua doanh nghiệp lâm vào tình trang phasan</small>
2.1.3. Nguyên tắc, thủ tục thanh lý tài sản và các khoản nợ va thứ tự wu tiéu
<small>thanh toản</small>
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh
<small>nghiệp lâm vào tình trạng phá sản</small>
2.2.1. Tình hình thực hiện pháp luật pha sản về thanh ly tài sản, các khoản nợ
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng thực hiện pháp luật thanh lý tài sản, cáckhoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tinh trạng pha san</small>
Tiểu kết chương 2
CHƯƠNG 3: MỘT SĨ KIÊN NGHỊ HỒN THIỆN THỦ TỤC THANH LÝ TAI SAN, CÁC KHOẢN NO CUA DOANH NGHIỆP LAM VÀO
TINH TRANG PHA SAN
3.1. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật về thanh lý tài sản, các khoản nợ
<small>của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản</small>
3.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản dựa trên cơ sở hồn thiện đồng bộ hệ thong pháp luật phá san
3.1.2. Hoàn thiện hệ thống pháp về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải phù hợp với chiến lược theo Nghị quyết số 48-NO/TW của Bộ Chính trị
3.1.3. Hồn thiện hệ thong pháp luật về thanh by tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải đáp ứng yêu cau cải cách môi
<small>trường kinh doanh</small>
3.1.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phải đảm bảo sự hài hịa về lợi ích cho các chủ thể tham gia thủ tục
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản
<small>nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản</small>
3.3. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định của pháp luật về thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Phá sản là một hiện tượng tất yếu tơn tại trong nền kinh tế thị trường, nó hiện hữu như một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải trong chính nền kinh tế đó, bất kế đó là nền kinh tế thị trường của các nước phát triển
trên thế giới hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Luật Pha sản là một trong những cơng cụ pháp ly quan trong nhăm thé chế hóa chính sách phát triển nền kinh tế của Đảng và Nhà nước ta; tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong tình trạng sản xuất, kinh doanh
gặp khó khăn, thua lỗ có cơ hội để rút khỏi thị trường một cách có trật tự, góp
phan tái phân phối tài sản; thúc day sự lưu thông vốn trong nền kinh tế thị
trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và các chủ nợ. Đồng thời, Luật Phá sản cũng là cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước giải quyết hậu quả pháp lý mà các doanh nghiệp, hợp tác xã
<small>kinh doanh không đạt hiệu quả tạo ra.</small>
Sự đào thải các doanh nghiệp kinh doanh không còn khả năng tồn tại trong
nên kinh tế được thé hiện thơng qua nhiều hình thức, cơ chế khác nhau và thủ tục
pha sản là một trong những cơ chế phổ biến nhất. Các doanh nghiệp trong nền kinh tế ở nước ta ra đời, tồn tại và phát triển cũng không tránh khỏi trường hợp những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, khi đó họ cần có một hành lang pháp lý đảm bảo sự chấm dứt tồn tại của các doanh
nghiệp đó một cách phù hợp nhất, có trật tự nhằm giải quyết được quyền lợi cho ban thân doanh nghiệp và các chủ thé có liên quan, qua đó góp phần ồn định va
tái cơ cau nền kinh tế.
Pha sản là một hiện tượng kha mới mẻ ở nước ta, đồng thời nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần đang trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trường
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">hành Luật Phá sản còn nhiều bất cập. Thực tiễn cho thấy, hiệu lực thi hành Luật Phá sản năm 2004 đã có những chuyên biến song vẫn còn thấp và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Một trong những hạn chế còn tổn tai của luật là
các quy định về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cịn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn khiến cho các
chủ thé có liên quan gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, trực tiếp ảnh hưởng
đến hiệu quả của thủ tục phá sản. Đồng thời nhiều nội dung trong các quy định
về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản cịn chưa thê hiện được tinh than hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Chính
vi vậy việc sửa đơi, bố sung và hoàn thiện các quy định trong Luật Phá sản về
<small>thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá</small>
sản là một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động của các chủ thé có liên quan, giúp cho vu phá sản được giải quyết nhanh chóng, thuận lợi, qua đó nâng cao hiệu lực của Luật Phá sản. Điều này địi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện về thủ tục này cả về lý luận cũng như thực tiễn hoạt động nhằm có sự đối chiếu, so sánh với pháp luật các nước, dé thay rõ được những ưu điểm cũng như bất cập trong các quy định của pháp luật và đưa ra những giải pháp cần thiết nhăm xây dựng những quy định hợp lý, đáp ứng yêu cầu thực thi Luật Phá sản ở nước ta. Đây chính là lý do để người viết lựa chọn dé tài “Thú tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào
<small>tình trạng phá sản theo quy định của pháp luật Việt Nam”</small>
2. Tình hình nghiên cứu dé tài
Ké từ khi ban hành Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 đến nay đã có rất nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về phá sản cũng như pháp luật về phá
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">phân tích, đánh giá các quy định về điều kiện, phạm vi và trình tự, thủ tục giải quyết vụ phá sản trong Luật Phá sản nói chung mà có rất ít những cơng trình nghiên cứu một cách day đủ, tồn diện và có hệ thống về thủ tục thanh lý tài sản,
các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Vi vậy nam trong
yêu cầu sửa đổi bổ sung các quy định của Luật Phá san thì việc nghiên cứu đề tài nay là điều rất cần thiết và bổ ích. Các cơng trình khoa học đã được cơng bố có
thé ké đến:
- Cơng trình nghiên cứu khoa hoc cấp bộ của TS.Nguyén Van Dũng về “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng các quy định của Luật Phá sản về
<small>thủ tục phá sản” năm 2004;</small>
<small>- Cơng trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” (2005) của</small>
PGS.TS Dương Đăng Huệ, Nhà xuất bản tư pháp. Đây là cơng trình chun khảo
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện các vẫn đề liên quan đến phá sản như một hạ tầng của kinh tế thị trường và pháp luật về phá sản với tư cách là một công cụ pháp lý dé giải quyết hậu quả của doanh nghiệp bị toà án tuyên bố pha sản. Cơng
<small>trình này cũng đã đi sâu nghiên cứu các quy định mới của Luật Phá sản năm</small>
<small>2004 so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Tuy nhiên, do tính bao qt</small>
của nó nên cơng trình đã khơng đi sâu nghiên cứu một cách chi tiết các thủ tục
<small>phá sản theo Luật Phá sản năm 2004.</small>
- Luận án tiễn sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và thanh
lý tài sản phá sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân, được bảo vệ thành công tại khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2008. Đây là một cơng trình nghiên cứu chun sâu về các hạn chế, yếu kém trong các quy định của pháp luật có liên
quan đến cơng tác quản lý, thanh lý tài sản phá sản và Tổ quản lý, thanh lý tài
<small>sản;</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><small>pháp bảo vệ năm 2009...</small>
Ngoài ra, cịn có nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các báo cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá
<small>sản như:</small>
- “Phá sản doanh nghiệp - Một số van đề lý luận và thực tiễn” (2005) của
Nguyễn Tan Hon, Nhà xuất bản chính trị quốc gia;
- _ Đặc san chun dé về Luật Pha sản của Tạp chí Tồ án nhân dân, tháng
- Báo cáo rà soát, đánh giá thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2004, Bộ Tu
<small>pháp, năm 2008.</small>
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài
<small>Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa </small>
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, bao gồm phương
<small>pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các</small>
văn kiện của Đảng, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động của doanh nghiệp nói riêng.
Các phương pháp cụ thé được vận dụng để giải quyết các van dé trong
luận văn là phương pháp phân tích tơng hợp các quy định trong các văn bản pháp
luật của Việt Nam về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu, quy nạp, diễn giải... Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị về
việc hoàn thiện các quy định về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh
<small>nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản với tư cách là thủ tục tố tụng phá sản, thực trạng pháp luật về thủ tục này, chỉ ra những bat cập, hạn chế và đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện các quy định về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, đảm bảo được quyên lợi của chủ nợ, con nợ và người lao động một cách tồn diện nhất.
Với mục đích đó, nhiệm vụ đề ra của luận văn là:
- Lam sang tỏ một số van dé ly luận vé thu tuc thanh ly tai san, cac khoan nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá san trong chỉnh thé các thủ tục của quá trình giải quyết vụ phá sản, mối quan hệ giữa thủ tục này với các thủ tục còn
lại. Luận văn đã tập trung nghiên cứu các mơ hình về van đề này theo Luật Pha
sản của một số nước trên thế giới, chỉ rõ cơ sở của việc xây dựng mơ hình đó và điều kiện áp dụng có chọn lọc ở Việt Nam.
<small>- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng các quy định của Luật Pha sản hiện hành</small>
và các văn bản hướng dẫn thi hành, chỉ rõ những khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai các quy định về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trong thực tế và nguyên nhân của những khó khăn bat cập đó.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy chế pháp lý về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, trong đó đề xuất các quy định liên quan đến thủ tục cũng như
<small>những yêu câu đê đảm bảo hiệu quả của thủ tục này trên thực tiên.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><small>tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản,</small>
phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về những vấn đề pháp lý có liên quan
đến thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
<small>phá sản.</small>
<small>6. Những dong góp mới của luận van</small>
Hiện nay, mặc dù đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu Luật Phá
sản năm 2004 nhưng chủ yếu chỉ tập trung nghiên cứu một cách khái quát về
trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Dé tài “Thi
<small>tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản</small>
theo quy định của pháp luật Việt Nam” nghiên cứu một van đề mang tính cụ thé hơn, và có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản. Trong khi pháp luật phá sản ở Việt Nam nói chung cũng như những quy định về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản nói riêng hiện nay đã có hiệu lực nhưng thực tiễn địi hỏi những kiến giải nhằm hồn thiện và phát huy hơn nữa hiệu lực của nó. Với mong
muốn đóng góp những giải pháp của mình vào q trình hồn thiện hệ thống pháp luật phá sản, luận văn đã đưa ra được những điểm mới:
- Luận văn đưa ra khái niệm về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản dựa trên cơ sở phân tích các dấu hiệu
<small>pháp lý của thủ tục này, cũng như tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các</small>
quốc gia trên thế giới có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng với Việt Nam. - Luận văn phân tích những nội dung của pháp luật về thủ tục thanh lý tài
<small>sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, đông thời chỉ ra</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">- Luan văn đã có những đánh giá thực trang áp dụng các quy định về thủ tục
thanh lý tài sản, các khoản nợ, đồng thời đi sâu nghiên cứu những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục này, trên cơ sở đó tìm
<small>ra những ngun nhân của thực trạng đó.</small>
- Luận văn dé ra một số định hướng cơ bản nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản. Đồng thời đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cụ thể góp phần
hồn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục này. 7, Kết cau của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết câu gồm 3 chương:
<small>Chương I : Cơ sở lý luận của thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ củadoanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.</small>
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về thanh lý tài sản,
<small>các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.</small>
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện thủ tục thanh lý tài sản, các khoản
<small>nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">NO CUA DOANH NGHIỆP LAM VÀO TINH TRẠNG PHA SAN
<small>1.1. Khai niệm tai san và các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tinh</small>
<small>trạng phá sản</small>
<small>1.1.1. Khái niệm tài san của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản</small>
Việc xác định phạm vi khối tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có ý nghĩa rất quan trọng, bởi điều này khơng chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ mà còn là cơ sở để tòa án quyết định phương hướng giải quyết phá san và có thể tiến hành xử lý nợ một cách triệt dé. Việc xác định khối tài sản
<small>của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được quy định khác nhau ở những</small>
quốc gia khác nhau dựa trên tiêu chí như thời điểm tiến hành các thủ tục giải quyết phá sản, phạm vi không gian tài sản hiện hữu hay nguồn tài sản...
Theo Luật Phá sản của Nhật Bản, phạm vi khối tài sản phá sản bao gồm tất
cả các tài sản còn lại của con nợ. Khối tài sản này bao gồm tài sản của con nợ và quyền phủ nhận về tài sản. Luật Phá sản của Nhật Bản quy định “Bất kỳ tài sản nao và tat cả những tài sản do bên bị phá sản giữ tại thời điểm tuyên bó phá sản” đều thuộc khối tài sản phá sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản của Nhật Bản lại có quy định về một loại tài sản được miễn trừ khỏi khối tài sản phá sản đó là “tài sản tự do”, tham khảo quy định tại Điều 34 Luật Phá sản Nhật Bản, Điều 131 và 132
<small>Luật thực thi dân sự Nhật Bản, theo đó “tài sản tự do” được xác định là tài sản</small>
mới thiết lập quyền sở hữu, tài sản không được phép cho vào danh sách tịch thu,
tiền dưới 100 yên Nhật, tai sản không phải là tài sản tự do nhưng được xếp làm
tài sản tự do và tài sản mà người làm thủ tục thanh lý xếp ở ngoài danh sách
<small>thanh lý [17].</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">nghiệp mà được xếp vào loại tài sản mở rộng với lý do là: nêu đưa vào loại tài
<small>sản phát sinh này sẽ tạo ra sự phức tạp cũng như khó khăn trong tính tốn và</small>
đồng thời cũng tạo ra tính khơng cơng bằng trong việc xác định quyền và trách nhiệm của các bên có liên quan đến khối tài sản đó. Một điều đặc biệt được quy
<small>định trong Luật Phá sản của Nhật Bản đó là: Những tài sản nào ở ngoài phạm vi</small>
lãnh thổ Nhật Bản không được coi là một bộ phận cua khối tài sản phá sản. Bởi
vì người Nhật cho răng khả năng giám sát, đánh giá và thu hồi khối tài sản này
rất khó khăn, thậm chí là khơng thé thu hồi được [6].
<small>Ngoài ra, pháp luật phá sản của Nhật Bản lại có những quan niệm của</small>
riêng mình khi cho rằng những tài sản con nợ có được trong giai đoạn giữa thời
điểm nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với con nợ và ngày ban hành quyết
định giải quyết đơn thuộc về khối tài sản phá sản, cịn tài sản con nợ có được sau
khi bắt đầu vụ kiện phải được miễn trừ khỏi khối tài sản phá sản với mong muốn của các nhà làm luật là nhằm tạo cho con nợ một sự khởi đầu mới.
Cũng trong pháp luật phá sản của Nhật Bản, khối tài sản phá sản bao gồm tài sản của con nợ tại thời điểm tuyên bố phá sản là đối tượng của thủ tục tư pháp. Những tài sản mà người được ủy thác thu hồi được thông qua quyền phủ nhận cũng thuộc về khối tài sản phá sản. Quyền chủ sở hữu cũng là một loại tài sản thuộc khối tài sản phá sản. Tài sản này khơng nhất thiết phải nhìn thấy được và khơng nhất thiết phải được thê hiện trên số sách hoặc tài khoản của con nợ. Tài san cam có cũng là một tài sản trong khối tài sản phá sản [8].
Luật Phá sản của Hoa Kỳ tại Điều 401 lại ghi nhận “Tài sản phá sản là
khối sản nghiệp của doanh nghiệp”, theo đó, tài sản phá sản bao gồm:
1. Tất cả số tài sản của con nợ (bao gồm quyên và nghĩa vụ tai sản) ma
không được miễn trừ tại thời điểm bắt đầu vụ phá sản đó;
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">2. Tài sản phá sản còn bao gồm những tài sản mà con nợ có được trong vịng 180 ngày sau khi vụ án bắt đầu bằng việc thừa kế những lợi ích
từ chính sách bảo hiểm và bất kỳ một lợi ích nào đối với tài sản có được
sau khi vụ án bắt đầu;
3 Tài sản phá san cũng bao gồm những tai san do Tín thác viên thu hồi được theo thấm quyền do luật định trong các trường hợp sau:
+ Quy định xiết nợ (đại diện cho chủ nợ): Tín thác viên có quyền xiết nợ đối với con nợ của doanh nghiệp mà không cần sự đồng ý của con nợ - Khoản 544a;
<small>+ Các tài sản có được từ những giao dịch ưu tiên trả nợ bị vơ hiệu: Tín thác</small>
viên có quyền thu hồi bat kỳ một sự chuyển nhượng, thanh toán bằng bất kỳ tai sản nào của con nợ trước ngày phá sản nhằm bảo toàn tài sản của doanh nghiệp
và bảo đảm sự phân chia công bằng khối tài sản này (trừ những giao dịch mà
pháp luật thừa nhận theo Điều 574);
+ Các tài sản có được do Tín thác viên đã thực hiện việc xiết nợ người khác đối với tài sản của doanh nghiệp mà người tín thác này đang quản lý [20].
<small>+ Bên cạnh đó, pháp luật pha sản cua Hoa Ky còn quy định tai sản pha sản</small>
bao gồm cả những tài sản có được trong vịng 180 ngày ké từ ngày có đơn khởi kiện do thừa kế qua chúc thư, được chia, được thừa kế: là kết quả của một phán quyết về hôn nhân; giải quyết vụ việc đối với người hôi phối; hay theo một hợp đồng bảo hiểm hoặc những thỏa thuận tương tự [20].
Luật Phá sản doanh nghiệp của Nga lại xác định tài sản phá sản bao gồm: - Tất cả tài sản của người mắc nợ thể hiện trong bảng cân đối kế toán hoặc các tài liệu kế toán thay thế là cơ sở để xác định tài sản phá sản;
- Trong tài sản phá sản còn bao gồm đối tượng thuộc lĩnh vực công cộng năm trong bảng cân đối của người mắc nợ, trừ quỹ nhà ở, các trường mẫu giáo
<small>và các cơng trình sản xuât hạ tâng quan trọng đôi với đời sông khu vực, cân được</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">đưa vào bảng cân đối của các cơ quan tự quản địa phương hoặc cơ quan quyền lực Nhà nước hữu quan, nếu pháp luật của Liên bang quy định khác...
- Tài sản phá sản không bao gồm tài sản là vật bảo đảm. Tài sản phá sản không bao gồm tài sản không thuộc quyền sở hữu của người mắc nợ, trong đó có: tài sản do mắc nợ thuê; tài sản mà người mac nợ có trách nhiệm bao quản; tài
sản riêng của công nhân doanh nghiệp mắc nợ; trừ tài sản mà theo quy định của
pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp có thé được thu hồi dé thực hiện các
nghĩa vụ của người mac nợ (theo quy định tại Điều 26, Luật Phá sản Nga) [3]. Trong hệ thống pháp luật về pha sản của Đức cũng có cách xác định tai
sản phá sản theo hướng toàn bộ tài sản mà con nợ có được vào thời điểm tịa án ra quyết định thụ lý và những tài sản con nợ có thêm được từ thời điểm thụ lý
được gọi là khối tai san phá sản. Nước này thừa nhận những tài sản cầm cố của
các chủ nợ có bảo đảm cũng thuộc khối tài sản phá sản. Ngoài ra, pháp luật phá sản của Đức cũng quy định những tài sản thuộc diện loại trừ ra khỏi khối tài sản phá sản bao gồm:
<small>- - Những tài sản không thuộc phạm vi tài sản bị cưỡng bức tịch thu (các</small>
quyền liên quan đến cá nhân như sức lao động); các tài sản nhất định theo quy định của Luật Tố tụng dân sự và Luật gia đình thì không thuộc khối tài sản phá
- Cac tài sản của con nợ nằm ở nước ngoài thuộc phạm vi khối tài sản phá
<small>- “Tai sản loại trừ” là tai sản của chủ nợ đang cho con nợ sử dụng mà khơng</small>
thuộc về khối tài sản phá sản và phải hồn trả lại cho chủ nợ; “tài sản tách ra” là
<small>các khoản nợ có đảm bảo.</small>
<small>Ngồi ra pháp luật phá san của Đức khơng có sự phân biệt các khái niệm</small>
“tài sản của doanh nghiệp mắc nợ” và “tài sản còn lại của doanh nghiệp mặc
<small>nợ ”† |.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>Pháp luật phá sản Việt Nam sử dụng phương pháp liệt kê loại hình tài sản</small>
dé xác định khối tài sản phá sản.
Theo Điều 49, Luật Phá sản năm 2004 quy định, tài sản của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản bao gồm:
<small>a) Tài sản và quyên về tài sản mà doanh nghiệp, hop tác xã có tại thời</small>
điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
<small>b) Các khoản lợi nhuận, các tài sản và các quyên vé tài sản mà doanhnghiệp, hợp tác xã sẽ có do việc thực hiện các giao dịch được xác lập trước khi</small>
Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản;
<small>c) Tai sản là vật bao đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã.Trường hợp thanh toán tài sản là vật bảo đảm được trả cho các chủ nợ có bảo</small>
đảm, nếu giá trị của vật bảo đảm vượt quá khoản nợ có bảo đảm phải thanh tốn thi phần vượt q đó là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
d) Giá trị quyền sử dụng đất của doanh nghiệp, hợp tác xã được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai.
Phương pháp liệt kê các loại tài sản như trên có ưu điểm là giúp cơ quan tơ tụng cũng như các bên liên quan có thé đánh giá dé dàng và cụ thé hơn về tình
<small>hình tài sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự liệt kê đó chưa mang tính khái qt</small>
cao vì ngồi tài sản được liệt kê tại Điều 49 Luật Phá sản năm 2004, thì tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cịn có thể là tài sản được thu hồi từ giao dịch vô hiệu (Điều 43 Luật Phá sản năm 2004). Ngoài ra, những tài sản doanh nghiệp có thể có được từ các giao dịch được thực hiện sau khi tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cũng chưa được nói tới trong các quy định của
<small>Luật Phá sản năm 2004.</small>
<small>Bên cạnh đó, việc xác định tài sản của doanh nghiệp tư nhân, cơng ty hợp</small>
danh lâm vào tình trạng phá sản cũng là một vấn đề hết sức quan trọng. Điều 49,
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>Khoản 2, Luật Phá sản năm 2004 đã xác định: tài sản của doanh nghiệp tư nhân,</small>
cơng ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản còn bao gồm cả những tài sản mà
chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh không trực tiếp dùng vào hoạt
động sản xuất kinh doanh. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh có tài sản thuộc sở hữu chung thi phan tài sản
<small>của chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh đó được chia theo quy địnhcủa Bộ luật dân sự năm 2005 và các quy định pháp luật khác có liên quan.</small>
Việc xác định rõ khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng trong pha
<small>sản doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả thực thi đạo</small>
luật phá sản trong đời sống đồng thời cho chủ nợ và ngay cả con nợ. Cần phải
giải quyết một cách thỏa đáng khi phân chia tài sản riêng, tài sản chung của vợ chồng khi áp dụng thủ tục phá sản khi mà vợ hoặc chồng là chủ doanh nghiệp tư
nhân hoặc thành viên hợp danh công ty hợp danh. Theo quy định tại Điều 90
<small>Luật Phá sản năm 2004 thì chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công</small>
ty hợp danh sẽ không được miễn trừ nghĩa vụ tài sản với các chủ nợ chưa được
<small>thanh toán, nghĩa là phải dùng những tài sản khác ngồi tài sản kinh doanh thanh</small>
tốn cho chủ nợ nhằm giải phóng nợ. Quy định này sẽ dẫn tới hệ quả bắt lợi cho
bản thân con nợ không chỉ dưới góc độ kinh tế thuần túy mà cịn ảnh hưởng tới cả gia đình và xã hội. Nhận thấy những quy định bất lợi như vậy, con nợ sẽ tìm mọi kẽ hở của pháp luật dé trốn tránh nghĩa vụ.
<small>1.1.2. Các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng pha sản</small>
Căn cứ vào sự an tồn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, có thê phân loại nợ thành nợ có bảo đảm, nợ có bảo đảm một phan và nợ khơng có bảo đảm.
<small>- — Nợ có bao dam</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Nợ có bảo đảm là các khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh
<small>nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Căn cứ vào thời hạn thanh tốn nợ</small>
trước thời điểm tịa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có nợ đến hạn và nợ chưa đến hạn. Những tài sản này được đảm bảo dưới hình thức cầm có, thế chấp, bảo lãnh hoặc các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác theo quy
định của pháp luật. Trong đó, những biện pháp được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất phải kế đến như biện pháp cầm có, thế chấp và bảo lãnh. Những quy định trong Luật Phá sản năm 2004 đã có những bước tiễn bộ hơn so với Luật Phá
<small>sản doanh nghiệp năm 1993 khi xác định nghĩa vụ tài sản có đảm bảo không chỉ</small>
là khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ mà còn được bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba. Quy định này đã mở rộng quan
niệm đối với loại nợ này góp phần bảo vệ quyên và lợi ích chính đáng của các
<small>chủ nợ, đặc biệt là các chủ nợ nhận bảo lãnh.</small>
- — Nợ có bao dam một phần
Nợ có bảo đảm một phần là các khoản nợ được đảm bảo băng tài sản của
<small>doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơnkhoản nợ đó.</small>
Việc xác định rõ chủ nợ có bảo đảm hay bảo đảm một phần đến nay cịn
gặp rất nhiều khó khăn mà ngun nhân chủ yếu là do sự biến động của giá trị tài
sản bảo đảm. Thực tiễn giải quyết phá sản doanh nghiệp những năm qua cho thấy tòa án thường lúng túng khi xác định nghĩa vụ tài sản có bảo đảm bởi giá trị tài sản thường xuyên biến động tăng lên hoặc hạ xuống. Việc xác định chủ nợ có bảo đảm hay có bảo đảm một phần phải căn cứ vào ý chí của hai bên tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm, căn cứ vào giá trị tài sản bảo đảm từ thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm và căn cứ vào giá trị tài sản bảo đảm từ thời điểm chủ
nợ yêu cầu doanh nghiệp thanh toán nợ. Nếu tại thời điểm chủ nợ yêu cầu thanh
toán nợ mà giá tri tài sản bảo đảm khơng đủ dé thanh tốn nợ thì khoản nợ đó
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">được coi là nợ có bảo dam một phần, phần nợ cịn lại sẽ được thanh tốn trong
<small>q trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp.- — Nợ khơng có bao dam</small>
Nợ khơng có bảo đảm là các khoản nợ khơng được đảm bảo bằng tài sản
<small>của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Các khoản nợ khơng có bảo</small>
<small>đảm sẽ được thanh tốn nợ theo trình tự và thủ tục được quy định trong Luật Phásản.</small>
Việc phân biệt như trên một mặt giúp tòa án sớm xác định được dấu hiệu phá sản của doanh nghiệp mắc nợ (khi doanh nghiệp có số nợ khơng có bảo đảm
lớn và khơng có khả năng thanh tốn số nợ đến hạn), mặt khác tòa án sẽ sớm xác định được quyền và nghĩa vụ của các chủ nợ, cũng như cách thức xử lý các
khoản nợ nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và của doanh
nghiệp mắc nợ.
Căn cứ vào thời điểm phát sinh nghĩa vụ thanh tốn, có thể chia thành: Nợ đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh toán.
Nợ đến hạn thanh tốn là khoản nợ theo đó doanh nghiệp mắc nợ phải có
nghĩa vụ thanh tốn ngay cho chủ nợ khi họ có yêu cau.
Nợ chưa đến hạn thanh tốn là khoản nợ mà theo đó doanh nghiệp chưa
phát sinh nghĩa vụ thanh toán. Khi giải quyết phá sản, tịa án khơng được coi các
khoản nợ chưa đến hạn thanh toán là căn cứ để xác định doanh nghiệp đã lâm
<small>vào tình trạng phá sản.</small>
Tuy nhiên, trong trường hợp thấm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã thì các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh lý được xử ly như các khoản nợ đến hạn, nhưng khơng được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn.
Việc phân biệt nợ đến hạn thanh toán và nợ chưa đến hạn thanh tốn giúp
tịa án có thé xác định chính xác doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng mat kha
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">năng thanh toán nợ đến han hay chưa. Doanh nghiệp, hop tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi mà doanh nghiệp có các khoản nợ đến hạn, các khoản
nợ này là các khoản nợ khơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đã được
các bên xác nhận, có đầy đủ chứng cứ chứng minh các khoản nợ này là có thật và khơng có tranh chấp. Đồng thời với đó là chủ nợ đã có yêu cầu thanh tốn nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã khơng có khả năng thanh toán. Yêu cầu của chủ nợ thanh tốn các khoản nợ đến hạn phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu nhưng khơng được doanh nghiệp thanh tốn.
<small>1.2. Khái niệm thủ tục thanh lý tài sản và các khoản nợ của doanh nghiệplâm vào tình trạng phá sản</small>
Trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, phá sản là một sản phẩm hiện hữu của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải trong chính nền kinh tế đó.
Bat kế doanh nghiệp, hợp tác xã nào cũng có thể đứng trên bờ vực phá sản nếu
như kinh doanh không hiệu quả. Và điều tất yếu là quá trình chọn lọc và đào thải
đó sẽ diễn ra. Các doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ phải thực hiện hoạt động thanh lý
tài sản, các khoản nợ của mình để rút lui có trật tự khỏi thương trường.
Theo từ điển Tiếng Việt xuất ban năm 2003 của Viện Ngơn ngữ học có nêu thì “Thanh lý là ban hoặc hủy bỏ tài sản cô định khơng dùng nữa hoặc là hồn tắt việc thực hiện một hop dong giữa bộ phan liên quan”.
Cho đến thời điểm hiện nay, trong hệ thống văn bản về pháp luật phá sản cũng như khoa học pháp lý Việt Nam chưa có khái niệm khoa học về thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Chúng ta có thé căn cứ vào những dấu hiệu pháp lý của thủ tục này cũng như tiếp thu thành tựu
khoa học và pháp luật của các nước trên thé giới dé rút ra được khái niệm về thủ
<small>tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Tại Nhật Bản, để giải quyết tình trạng một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ muốn rút khỏi thương trường, pháp luật Nhật Bản quy định về thủ tục thanh lý tài sản cụ thé trong luật và ngay tại Điều 1 Luật Phá sản Nhật Bản có quy định
<small>“Luật này quy định trình tự thanh lý tài sản của con nợ lâm vào tình trạng khơng</small>
thé thanh toán hoặc số nợ quá lớn nhằm điều chỉnh quan hệ quyền lợi nghĩa vu của con nợ với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, giữa con nợ với chủ nợ, thanh lý tài sản của con nợ một cách hợp lý và công bằng cũng như đảm bảo cho con nợ cơ hội bắt đầu cuộc sống kinh tế mới [8].
Pháp luật phá sản của Liên Bang Nga lai quy định trình tự giải quyết phá
sản bao gồm: (1) Thủ tục tổ chức lại; (2) Thủ tục thanh lý. Trong đó, thủ tục
thanh lý tài sản là nhằm đáp ứng một phan yêu cầu của các chủ nợ và giải phóng cho người mắc nợ khỏi nghĩa vụ [3].
<small>Trong thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình</small>
trạng phá sản ở Việt Nam, một số dấu hiệu pháp lý của thủ tục này chúng ta có
thê kế đến như sau:
Thứ nhất, thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng pha sản là thủ tục được điều hành bởi tịa án có thâm quyền sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Thủ tục này được tiễn hành khi hội nghị chủ nợ
lần thứ nhất không thành, hoặc không thông qua phương án phục hồi; doanh nghiệp không xây dựng được phương án phục hồi cũng như không thực hiện
đúng hoặc không thực hiện được phương án phục hồi.
Thứ hai, đôi tượng áp dụng của việc thanh lý tài sản, các khoản nợ là các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn khơng cịn khả năng phục hồi.
<small>Thư ba, quá trình áp dụng thủ tục thanh ly tài sản, các khoản nợ của doanh</small>
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có sự phân chia khối tài sản cịn lại của doanh nghiệp cho các chủ thê có liên quan theo nguyên tắc do pháp luật quy định;
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>Thứ tw, hệ quả của việc thực hiện thu tục thanh lý tài sản, các khoản nợ cuadoanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp thanh tốn được một</small>
phần hoặc tồn bộ các khoản nợ của mình với các chủ nợ dựa trên số tài sản còn
<small>lại theo thứ tự phân chia mà pháp luật quy định.</small>
<small>Thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng</small>
phá san cũng được nhìn nhận trong mỗi quan hệ so sánh với hoạt động thanh lý
<small>tài sản thông thường của các doanh nghiệp hiện nay.</small>
<small>Sự khác biệt cơ bản của thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp</small>
lâm vào tình trạng phá sản so với thanh lý tài sản cố định của các doanh nghiệp
đang hoạt động đó là: Việc bán hoặc hủy bỏ tài sản hay hợp đồng của các doanh
nghiệp đang hoạt động là biện pháp tổ chức sản xuất kinh doanh do chính doanh nghiệp chủ động thực hiện tùy theo tình hình thực tế và ý chí tự nguyện của họ.
<small>Còn thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạngphá sản lại là thủ tục tư pháp do tòa án buộc doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào</small>
tình trạng phá sản phải tiến hành, đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của tịa án cũng như tơ quản lý, thanh lý tài sản.
Hiện nay, pháp luật chưa đưa ra khái niệm về thủ tục thanh lý tài sản, các
khoản nợ của doanh nghiệp lâm vao tinh trạng phá sản. Từ những dấu hiệu pháp
lý nêu trên, chúng ta có thé hiểu Tử fục thanh lý tài sản và các khoản nợ của
<small>doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thu tục thanh toán nợ cho các chu</small>
<small>nợ từ tài san con lại của doanh nghiệp, hop tác xã lâm vào tình trạng pha sản,</small>
do tịa án có thẩm qun áp dung sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản và
<small>khi xảy ra mot trong các trưởng hop sau đáy:</small>
- _ Thứ nhất, hội nghị chủ nợ không thành (Diéu 79 Luật Phá sản);
- Thứ hai, hội nghị chủ nợ lan thứ nhất không thông qua phương án phục hôi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng pha sản (khoản 2 Diéu 80 Luật Phá sản);
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">- Thứ ba, hội nghị chủ nợ lan thứ nhất dong ý với dự kiến các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh, kế hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ và yêu cau doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản phải xây dựng phương án phục hôi hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã đó khơng xây dựng được phương án phục hơi hoạt động kinh doanh trong thời hạn do Luật Phá sản quy định tại khoản I Diéu 68 (khoản I Điều 80 Luật Phá sản);
<small>- Thi tư, doanh nghiệp, hop tác xã thực hiện không đúng hoặc không thực</small>
hiện được phương án phục hôi hoạt động kinh doanh, trừ trường hợp các bên
<small>liên quan có thoả thuận khác;</small>
- Thw năm, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bị thua lỗ đã được Nhà
nước áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hôi hoạt động kinh doanh, nhưng vẫn không phục hôi được và khơng thanh tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ
<small>no’ CĨ yeu cau.</small>
<small>1.3. Vai trị của thanh lý tài san, các khoản nợ của doanh nghiệp lam vàotình trạng phá sản</small>
<small>Việc thanh lý tài sản và các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng</small>
phá sản có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan đến việc phá sản. Mỗi thủ tục ở mức độ nhất định lại có
<small>những vai trị khơng hồn tồn trùng khớp nhau và có những nội dung khơng</small>
giống nhau.
<small>Vai trò của thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm</small>
vào tình trạng phá sản thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ nợ.
Các chủ nợ là những người có quyên lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất trong bất kì một vụ phá sản nào. Chủ nợ là đơi tượng có nguy cơ bị mất một phần thậm chí là tồn bộ tài sản đã đầu tư vào doanh nghiệp. Điều này sẽ gây một tâm lý hoang
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">mang, e ngại cho những người đã, đang và sẽ có ý định đầu tư vào doanh nghiệp.
Do đó, chủ nợ được pháp luật trao cho các quyền để họ có thê tham gia bảo vệ
lợi ích của mình, tránh tâm lý mạnh ai nấy lo nếu doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản. Về phía doanh nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đều khơng có đủ tài sản dé trả nợ, chính chủ doanh nghiệp cũng có nguy cơ mất tồn bộ tài sản đã đầu tư vào doanh nghiệp. Chính vì thế mà họ cũng có tâm lý chung là tìm cách tâu tán tài sản của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp còn câu kết với một số chủ nợ hoặc người thứ ba nhằm trốn tránh các
khoản nợ. Khi đó, các chủ nợ khác sẽ không được hưởng những quyên lợi mà
<small>đáng ra họ được nhận [27].</small>
Với vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tối đa quyên lợi cho các chủ nợ,
<small>pháp luật phá sản nói chung và thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanhnghiệp lâm vào tình trạng phá sản nói riêng sẽ đưa các vụ phá sản đi theo một</small>
trình tự nhất định, dẫn đến sự phân chia tài sản phá sản trong thủ tục thanh lý
theo một lộ trình cũng như tỷ lệ phân chia đảm bảo cơng bang và có lợi nhất cho
<small>các chu nợ. Với vai trị bảo vệ lợi ích cho các chủ nợ của minh, thu tục thanh lý</small>
<small>tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản sẽ tạo tâm lý</small>
tốt cho các chủ nợ đầu tư vào doanh nghiệp. Bởi lẽ các nhà đầu tư tin tưởng răng pháp luật sẽ bảo vệ quyền lợi cho họ, du doanh nghiệp có lâm vao tình trạng
khánh kiệt về tài sản thì các chủ nợ vẫn sẽ được thanh toán nợ theo tỷ lệ và thứ tự mà pháp luật đã quy định. Trong một vài trường hợp họ cịn có thể tính tốn
được mức độ rủi ro có thể xảy ra cũng như khoản vốn mà họ có thê thu về sau thủ tục thanh lý tài sản nếu doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả.
<small>Các quy định trong thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh</small>
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cho phép chủ nợ có quyền u cầu tịa án ra các quyết định cần thiết nhăm bảo toan tai sản của doanh nghiệp lâm vào tình
<small>trạng phá sản. Quy định này được xem là hợp lý khi mà chủ nợ là những người</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">có lợi ich trực tiếp phat sinh từ tai sản của doanh nghiệp lâm vào tình trang phá sản. Chính vì lẽ đó mà họ có quyền và có cả khả năng giám sát đối với tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản dé bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Ngồi ra, chủ nợ khơng có bảo đảm cịn có quyền u cầu tịa án tun bố các giao dịch của doanh nghiệp là vô hiệu (Điều 44); các chủ nợ có quyền u cầu tịa án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản (Điều 45). Bên cạnh đó, Luật Phá sản năm
2004 cũng có những quy định về các trường hợp giao dịch vơ hiệu, các biện
pháp bảo tồn tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm... chính là dé bảo tồn tài sản
của doanh nghiệp, tránh việc thất thốt, tau tán tài sản của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản hay làm hao hụt khối tài sản phá sản của doanh nghiệp.
Thứ hai, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp mac nợ, tạo cơ hội cho doanh nghiệp mac nợ rút khỏi thương trường một cách có trật tự.
Bên cạnh việc bảo vệ lợi ích cho các chủ nợ, pháp luật phá sản đã có nhiều tiễn bộ khi ghi nhận những quy định hợp lý nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp cho doanh nghiệp mắc nợ. Có thê thấy các doanh nghiệp có đủ điều kiện được tự do
thực hiện hoạt động kinh doanh của mình trong khn khổ quy định của pháp
luật, và pháp luật được xây dựng cũng nhằm đảm bảo quyền tự do đó. Và thủ tục
<small>thanh lý tài sản và các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản</small>
cũng góp phần đảm bảo quyền tự do kinh doanh đó, bởi lẽ, doanh nghiệp có thé
tự do tham gia vào thương trường thì cũng có thê tự do rút lui có trật tự khỏi
<small>thương trường khi khơng còn khả năng kinh doanh nữa. Thủ tục thanh lý tài sảnVỚI vai tro quan trọng cua mình sẽ giúp các doanh nghiệp giải phóng được các</small>
khoản nợ của mình để có một sự khởi đầu mới trong tương lai.
Thứ ba, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
<small>Phá sản một doanh nghiệp không chỉ gây nên những ảnh hưởng tiêu cựcđên các chủ nợ, con nợ mà còn cho cả người lao động. Doanh nghiệp khi lâm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27"><small>vào tình trạng phá sản có nghĩa là quan hệ lao động giữa người lao động với chủ</small>
doanh nghiệp đó sẽ khơng thể tiếp tục duy trì. Chính vì lẽ đó, pháp luật phá sản
<small>nói chung và thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào</small>
tình trạng phá sản nói riêng đều có những quy định nhăm bảo vệ tối đa quyền lợi của những người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp. Nhằm bảo vệ lợi
ích tối đa cho người lao động khi doanh nghiệp lâm vảo tình trạng phá sản, Luật
Phá san đã đưa ra những nguyên tắc nhất định dé phân chia khối tài sản phá sản như quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương và các khoản tiền hợp pháp khác
<small>mà họ được hưởng trước các khoản nợ thơng thường của doanh nghiệp...</small>
Thứ tư, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế, ôn định xã hội, lành mạnh hóa
mơi trường đầu tư, kinh doanh.
<small>Thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình</small>
trạng phá sản là cơ sở pháp lý vững chắc để xóa bỏ các doanh nghiệp kinh doanh
kém hiệu quả, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư. Thông
<small>qua thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng</small>
phá sản, những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất đều được xử lý và rút lui có trật tự khỏi thương trường. Khi đó, quy mơ những ngành nghé, lĩnh vực kinh doanh sẽ giảm di, góp phan tái cơ cau nền kinh tế, các nguồn vốn đầu tư được phân bồ hợp lý và sử dụng có hiệu quả hơn. Như vậy, thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã góp phần tạo ra một mơi trường pháp lý an toàn — lành mạnh, điều này sẽ thúc day các nhà đầu
tư mạnh đạn tham gia vào nền kinh tế vì họ cảm thấy an tồn khi được pháp luật
<small>bảo vệ [26].</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Tiểu kết chương 1
<small>Thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình</small>
trạng phá sản là một khái niệm pháp lý chưa từng xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật về phá sản ở Việt Nam. Mặc dù nội hàm của nó đã được ghi
nhận trong các quy định khác nhau của hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành,
nhưng chưa có một định nghĩa cụ thể về thủ tục này. Do đó, việc xác định vị trí
của thủ tục này trong q trình thực hiện phá sản doanh nghiệp cũng như điều kiện để áp dụng thủ tục này là có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện
<small>mục tiêu của luật phá sản. Chính vì vậy, chương | của luận văn đã tập trung phân</small>
tích những van dé quan trọng sau:
<small>1. Trên cơ sở phân tích va so sánh với khái niệm tài sản của doanh nghiệp</small>
lâm vào tình trạng phá sản, luận văn đưa ra khái niệm và phạm vi khối tài sản
phá sản theo pháp luật Việt Nam để làm căn cứ cho việc nghiên cứu những quy
định của pháp luật về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp
<small>lâm vào tinh trạng pha san.</small>
2. Từ định nghĩa vẻ tài sản phá sản đó cùng với những phân tích, so sánh, đánh giá và tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm về thủ tục thanh lý tài sản của các quốc gia trên thế giới, chương 1 của luận văn đã xây dựng được một khái niệm tương đối đây đủ và toàn diện về thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của
<small>doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><small>CHƯƠNG 2</small>
THỰC TRANG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VE THANH LÝ TÀI SAN, CÁC KHOẢN NO CUA DOANH NGHIỆP LAM VÀO TÌNH
TRANG PHA SAN
2.1. Thực trạng pháp luật về thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh
<small>nghiệp lâm vào tình trạng phá sản</small>
2.1.1. Chủ thể tham gia thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm
<small>vào tinh trạng pha san- Toa an</small>
Hau hết pháp luật của các quốc gia trên thé giới đều trao thâm quyền giải quyết phá sản cho tòa án. Tịa án có một vị tri, vai trị tương đơi khác nhau trong
<small>thủ tục phá sản nói chung và thủ tục thanh lý tài sản nói riêng của các nước trên</small>
thế giới. Ở nước ta hiện nay, do ý thức tự nhận thức của người dân về pháp luật chưa cao nên việc trao thâm quyền cho tòa án giải quyết vụ phá sản là hồn tồn
<small>hợp lý.</small>
Cơ quan có thấm quyền giải quyết vu phá sản là tòa án, song việc thực hiện các hành vi tố tụng đều do thâm phan phụ trách tiễn hành. Bởi vậy, xem xét đến vai trị, vị trí của tịa án chính là xem xét vai trị, vị trí của thâm phán giải quyết vụ phá sản ở các tịa án đó.
<small>Trong thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào</small>
tình trạng phá san thì vi trí, vai trò của thấm phán được thể hiện ở những nhiệm
vụ, quyền hạn cụ thể sau:
+ Quyết định thành lập t6 quan lý, thanh ly tài sản khi mở thủ tục phá sản
(Điều 9 Luật Phá sản năm 2004) hoặc khi phục hồi hoạt động kinh doanh không thành, phải mở thủ tục thanh lý tài sản thì thâm phán ra quyết định thành lập lại
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">tổ quản lý, thanh lý tài sản (Điều 19, Nghị định số 67/2006/NĐ-CP Hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tô chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tai sản);
+ Quyết định việc áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của
doanh nghiệp trong các trường hợp quy định tại Điều 78, Điều 79, Điều 80 của
<small>Luật Phá sản năm 2004;</small>
+ Quyết định cử người thay thế người quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo đề nghị của hội nghị chủ nợ;
+ Quyết định cho phép doanh nghiệp thực hiện các giao dịch cầm có, thế chấp, chuyên nhượng, bán, tặng, cho thuê tài sản, nhận tài sản từ một hợp đồng chuyên nhượng... (Điều 31 Luật Phá sản năm 2004);
+ Quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo toàn tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điều 43.44.45,55 Luật Pha
<small>sản năm 2004);</small>
+ Triệu tập và chủ trì hội nghị chủ nợ dé quyét dinh viéc ap dung thu tuc phục hồi hay thủ tục thanh lý (Điều 61 Luật Phá sản năm 2004);
+ Quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản (Điều §5 Luật Phá sản năm
+ Quyết định cho phép doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện một số hoạt động cần thiết cho việc thanh lý tài sản hoặc làm tăng thêm khối tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã đó (Điều 82 Luật Phá sản năm 2004);
+ Giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản
(Điều 84 Luật Phá sản năm 2004); + Các quyền và nhiệm vụ khác.
Như vậy, có thé thay Luật Phá sản đã trao cho thẩm phán rất nhiều quyền
hạn, nhiệm vụ trong thủ tục thanh ly tài sản. Những nhiệm vu, quyên hạn này đã
tạo cho tịa án một vị trí chủ đạo trong giải quyết vụ phá sản nói chung và trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">thủ tục thanh lý tài sản nói riêng, đồng thời cũng đặt ra trách nhiệm nặng nề cho cơ quan này trong hoạt động giải quyết phá sản.
- T6 quản lý, thanh lý tài sản
Nhằm đảm bảo tính minh bạch và bảo vệ lợi ích tối đa cho chủ nợ và con nợ trong vụ phá sản, pháp luật phá sản đã có quy định thành lập tổ quản lý, thanh lý tài sản. Chủ thể này được pháp luật trao cho thâm quyền khá rộng trong quá
trình giải quyết phá sản, khơng chỉ có quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của
con nợ sau khi mở thủ tục phá sản mà cịn có các quyền khác như triệu tập và
chủ trì hội nghị chủ nợ, có quyền quyết định hủy bỏ hay công nhận các giao dịch
pháp lý mà con nợ đã thực hiện. Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền hạn rất lớn
<small>trong việc quản lý và định đoạt tài sản phá sản dưới sự giám sát của chủ nợ, thậmchí cịn là người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp với mục đích chung là</small>
bảo toàn tài sản cho doanh nghiệp, hạn chế những rủi ro có thé xảy ra [27, tr.21].
Tổ quản lý, thanh lý tài sản có vai trị thực sự quan trọng trong quá trình
<small>quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy</small>
định tại Điều 10 Luật Phá sản năm 2004 và Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ hướng dẫn áp dụng Luật Phá san thì tổ quản lý, thanh lý tài sản có các quyền hạn và nghĩa vụ sau:
<small>+ Lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp;</small>
+ Giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp;
<small>+ Đề nghị thâm phán quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời</small>
để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp cần thiết;
+ Lập danh sách chủ nợ, và SỐ nỢ phải trả cho từng chủ nợ, danh sách người mắc nợ và số nợ phải đòi của doanh nghiệp;
<small>+Thực hiện việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32"><small>- Chu nợ</small>
Có thê thay trong một vu pha san, chu nợ là déi tượng được pháp luật đặc biệt quan tâm và hướng tới bảo vệ. Bởi lẽ họ chính là các nhà đầu tư, quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi mà con nợ bị phá sản.
Chính vì lẽ đó mà chủ nợ cần phải được tham gia vào quá trình giải quyết vụ phá
sản, đặc biệt là tham gia trong thủ tục thanh lý tài sản bởi quyền được thanh toán là quyền cơ bản và quan trọng của các chủ nợ.
<small>Luật Phá sản năm 2004 đã phân chia các chủ nợ thành các nhóm cơ bản</small>
+ Chủ nợ khơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần: với nhóm chủ nợ
này, khi doanh nghiệp bị phá sản, quyền lợi của họ bị ảnh hưởng lớn, trong một
sé truong hop ho doi lai duoc khoan đầu tư minh bỏ ra cho doanh nghiệp, hoặc chỉ đòi lại được một phần, thậm chí có chủ nợ mat trắng. Đó chính là lý do mà
pháp luật trao cho họ một phần quyên tương đối lớn, và có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng, ảnh hưởng đến lợi ích của chính bản thân những chủ
<small>nợ này.</small>
<small>+ Chủ nợ có bảo đảm: với nhóm chủ nợ này, tài sản bảo đảm sẽ được đem</small>
ra dé thanh toán cho chủ nợ khi doanh nghiệp bị phá sản, như vậy có thé thay
rang lợi ích của nhóm chủ nợ này sẽ ít bị ảnh hưởng hơn. Chính vi thé mà pháp
luật trao cho nhóm chủ nợ này thâm quyền hạn chế hơn so với nhóm chủ nợ khơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần trong q trình giải quyết phá sản
<small>nói chung và thủ tục thanh lý tài sản nói riêng.</small>
Theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 thì chủ nợ có các qun sau: + Quyền u cầu tòa án ra các quyết định cần thiết nhằm bảo đảm tài sản của doanh nghiệp lâm vào tinh trang phá sản (Điều 44,45);
+ Quyền tham gia hội nghị chủ nợ và biểu quyết những vấn đề thuộc thâm
quyền của hội nghị chủ nợ (Điều 64);
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">+ Quyền được thanh toán các khoản nợ từ tài sản của doanh nghiệp (Điều
+ Quyền khiếu nại đối với quyết định của tòa án; Tổ quản lý, thanh lý tài sản về danh sách chủ nợ (Điều 52); Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản (Điều 83); Quyết định tuyên bé phá sản (Điều 93).
Và quan trọng hơn cả là các chủ nợ có quyền được thanh toán nợ từ tài sản của doanh nghiệp mac nợ. Việc thanh tốn được thực hiện theo tính chất nợ của các khoản nợ và thứ tự ưu tiên do luật quy định (Điều 34,35,37 Luật Phá sản
<small>năm 2004).</small>
<small>- Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản</small>
Do việc phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản của mình với các chủ nợ, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản trở thành đối tượng có vai trị trung tâm trong
<small>thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá</small>
sản. Nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp mắc nợ có thé thực hiện nghĩa vụ về
tài sản của mình với các chủ nợ một cách có hiệu quả nhất, pháp luật đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mac nợ sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, vẫn được tiễn hành các hoạt động kinh doanh bình thường nhưng có một số hạn chế nhằm đảm bảo doanh nghiệp phá sản khơng có hành vi làm thất thốt tài sản của doanh nghiệp. Hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp lúc này chịu sự giám sát, kiêm tra của thâm phán và tô quản lý, thanh lý tài sản (Điều 30 Luật Phá sản năm
<small>Với vai tro quan trong của minh trong thủ tục thanh lý tài sản, các khoản</small>
<small>nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, pháp luật đã quy định cho chủ</small>
thé này có những quyên và nghĩa vụ nhất định. Cu thé là:
+ Doanh nghiệp mắc nợ có quyền cử đại diện tham gia vào tổ quản lý, thanh lý tài sản ( Khoản 2 Điều 10 Luật Phá sản năm 2004);
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">+ Trach nhiém tién hanh kiém ké tai san (Diéu 50 Luat Pha san nam
+ Bi hạn chế hoặc bị cắm đối với một số hành vi làm thất thoát tài sản của
doanh nghiệp (Điều 31 Luật Phá sản năm 2004);
+ Được tiễn hành một số hoạt động cần thiết cho việc thanh lý tài sản hoặc làm tăng thêm khối tài sản của doanh nghiệp (Điều 82 Luật Phá sản năm 2004);
<small>+ Nghĩa vụ thanh toán nợ cho các chủ nợ;</small>
+Quyén khiếu nại các quyết định của tòa án về: Danh sách chủ nợ (Điều
52); Danh sách người mắc nợ (Điều 53); Quyết định áp dụng các biện pháp khẩn
cấp tạm thời để bảo toàn tài sản (Điều 56); Quyết định mở thủ tục thanh lý tài
sản (Điều 83);
+ Được hưởng phan tài sản còn lại sau khi đã thanh toán hết các khoản nợ
theo đúng thứ tự phân chia tài sản (Điều 37).
<small>2.1.2. Các biện pháp bảo tồn tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạngphá sản</small>
Đề tránh việc tâu tán tài sản nhằm giảm bot trách nhiệm trả nợ của doanh
nghiệp, pháp luật phá sản thường đặt ra các quy định về vẫn đề bảo tồn tài sản,
khơng thừa nhận hoặc cam doanh nghiệp mac nợ trước và sau khi tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thực hiện một số hành vi nhất định có thê dẫn đến làm giảm khối lượng tài sản có thể dùng đề thanh tốn nợ.
- Các biện pháp ngăn chặn doanh nghiệp mắc nợ làm thất thốt tài sản sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản.
Do thủ tục tố tụng kinh té qua dai nên đã tạo cơ hội cho con nợ tau tán tài
sản băng nhiều con đường hợp pháp thơng qua các giao dịch dân sự. Chính vì
vậy, để bảo vệ tôi đa quyền lợi của các chủ nợ, pháp luật phá sản đã có những quy định nhằm bảo toàn khối tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">sản khơng bị thất thốt. Kế thừa quy định tại Điều 1§ Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Điều 31 Luật Phá sản năm 2004 đã đưa ra quy định nghiêm cắm
<small>doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện các hoạt</small>
<small>động sau:</small>
+ Cat giấu, tau tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
+ Thanh toán bat kỳ khoản nợ khơng có bảo đảm nao cho bat kì chủ nợ
+ Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền địi nợ của mình;
+ Chun các khoản nợ khơng có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bang tài
<small>sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.</small>
Ké từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, bên cạnh những
hoạt động bị cắm ở trên, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
cũng được phép thực hiện một số hoạt động sau nhưng phải được sự đồng ý bằng văn bản của thâm phán: Cầm có, thế chấp, chuyên nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã; Nhận tài sản từ một hợp đồng chuyên nhượng; Cham dứt thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực; Vay tiền; Bán, chun đổi cơ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã;
<small>Thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanhnghiệp, hop tác xã va trả lương cho người lao động. Trong trường hợp có viphạm thì tùy theo mức độ vi phạm mà doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ bi xử phạt</small>
hành chính, bồi thường thiệt hại hoặc bị truy tố trách nhiệm hình sự theo quy
định tại Điều 93 Luật Phá sản năm 2004. Cùng với đó là giao cho tịa án quyền
tuyên bố những giao dich do doanh nghiệp, hợp tác xã cơ tình thực hiện là vơ hiệu và tài sản của doanh nghiệp chuyên giao trong các giao dịch vi phạm này sẽ bị thu hồi.
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">- Tuyên bố vô hiệu đối với một số giao dich của doanh nghiệp
Vấn đề mà các chủ nợ cũng như con nợ quan tâm nhất khi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản là khối tài sản phá sản của doanh nghiệp cịn đến đâu,
các chủ nợ có lấy lại được tồn bộ tài sản mình đã đầu tư vào doanh nghiệp hay
<small>khơng, tài sản của mình cịn có đảm bảo được cho việc trả nợ hay khơng. Đó</small>
chính là lý do mà Nhà nước cần phải bảo vệ tối đa khối tài sản phá sản của doanh nghiệp, nếu tài sản đó bị hao hụt hoặc bị mất mát, quyền lợi của các chủ nợ sẽ bị ảnh hưởng. Trên thực tế, thường khi tòa án đưa doanh nghiệp vào thủ tục phá sản
<small>thì doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào một sự khủng hoảng dài trước khi có</small>
quyết định của tịa án. Trong thời gian đó, tâm lý chung của con nợ là thực hiện
những hành vi tau tán, cất giấu tài sản hoặc thực hiện ưu tiên thanh toán cho những chủ nợ nhất định, nhưng những hành vi đó lại gây thiệt hại đến quyền lợi
chính đáng của các chủ nợ khác. Vì vậy, dé đảm bảo sự công bằng giữa các chủ
<small>nợ, bảo đảm lợi ích chính đáng của các bên có liên quan, Luật Phá sản của các</small>
nước đều đưa ra nhiều cơ chế nhằm hạn chế tình trạng này, trong đó có cơ chế hữu hiệu cho phép tịa án xem xét và tuyên bố vô hiệu một số giao dịch, đồng thời cho phép cơ quan có thấm quyền thu hồi các tài sản bị chuyển giao một cách bất hợp pháp đó.
Cu thé về các giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tinh trạng
<small>phá sản bị coi là vô hiệu trong khoảng thời gian (03) ba tháng trước ngày tòa án</small>
thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được quy định tại Điều 43 của Luật Phá
<small>sản năm 2004. Nghĩa là, hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ khơng có giá</small>
trị thi hành khơng chỉ khi có đơn u cầu mở thủ tục phá sản mà còn cả những hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã đã tiến hành (03) ba tháng trước ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Những giao dịch sẽ bị coi là vô
hiệu nếu thực hiện trong khoảng thời gian này là: Tặng cho động sản, bất động
sản, thanh toán hợp đồng song vụ mà nghĩa vụ lớn hơn phần của bên kia; thanh
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">toán các khoản nợ chưa đến hạn; thực hiện thanh toán, thế chấp, cầm cơ cho các khoản phát sinh trước đó và bất kỳ giao dịch nào có mục đích tâu tán tài sản của
<small>doanh nghiệp.</small>
- Xử lý các hợp đồng đang có hiệu lực
Thực tế cho thấy, khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, thơng thường họ đều có những hợp đồng đã ký kết đang có hiệu lực, nhưng chưa
được thực hiện hoặc đang được thực hiện, họ vẫn thực hiện các hoạt động kinh doanh nhắm tìm kiếm cơ hội thốt khỏi tình cảnh khó khăn hiện tại. Do đó trong q trình tiến hành thủ tục phá sản, nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp
đồng đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có lợi hơn cho doanh
nghiệp, có nghĩa là việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không những khơng làm tăng, mà có khả năng sẽ làm giảm khối tài sản phá sản thì chủ nợ, doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản hoặc t6 quan lý, thanh lý tai sản có quyền yêu cầu tịa án đình chỉ thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp ngược lại, nghĩa là nếu việc thực hiện hợp đồng sẽ giúp cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp thì việc thực hiện hợp đồng vẫn sẽ được tiếp tục và tùy từng trường hợp mà có cách xử lý sao cho phù hợp: Cho tiếp tục được thực hiện bình thường, cho tiếp tục được thực hiện nhưng dưới sự giám sát của thẳm phán phụ trách giải quyết yêu cầu tuyên bé phá sản; hoặc cho tiếp tục thực hiện nhưng phải thay người điều hành quản lý doanh nghiệp. Quy định này được xem là hợp lý trong điều kiện mà doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đang gặp khó khăn rất lớn về tài chính, tài sản được tích góp về với doanh nghiệp lúc này dù một đồng cũng đáng quý.
<small>- Bù trừ nghĩa vụ giữa các chủ nợ với doanh nghiệp lâm vào tình trạngpha sản</small>
Luật Phá sản năm 2004 đã có quy định mới về việc bù trừ nghĩa vụ giữa
các chủ nợ với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đối với những giao dich
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">được xác lập trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Theo đó tại Điều 48 Luật này quy định trường hợp hai bên có nghĩa vụ với nhau về tài sản cùng loại
thì đến hạn khơng phải thực hiện nghĩa vụ với nhau và nghĩa vụ được xem là
cham dứt, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; Trong trường hợp giá trị
<small>tài sản hoặc công việc không tương đương với nhau thì các bên thanh tốn cho</small>
nhau phan giá trị chênh lệch; Những vật được định giá thành tiền được bù trừ
nghĩa vụ trả tiền. Trong trường hợp này, nếu phần chênh lệch được thanh tốn
<small>thuộc phía chủ nợ thì chủ nợ được đăng ký vào danh sách với tư cách chủ nợ</small>
khơng có bảo đảm, nếu ngược lại thì số chênh lệch sẽ được ghi vào danh sách khoản nợ phải thu và được giải quyết theo thủ tục chung.
Tuy nhiên, cũng cần xem xét đến tính hợp pháp của những giao dịch này,
bởi lẽ chỉ có những giao dịch không bị tuyên bố vô hiệu và không bị đình chỉ
<small>thực hiện mới được xem xét khả năng thực hiện việc bù trừ nghĩa vụ này.</small>
- Lập danh sách chủ nợ, tổng số nợ phải trả
Quy định tại Điều 52 Luật Phá sản đã nêu trách nhiệm lập danh sách chủ nợ và tông số nợ phải trả thuộc về tô quản lý, thanh lý tài sản. Danh sách này
phải ghi rõ số nợ của mỗi chủ thé mắc nợ, trong đó có phân biệt rõ đâu là nợ có
bảo đảm, đâu là nợ khơng có bảo đảm, khoản nào là nợ đến hạn, khoản nào là nợ chưa đến hạn. Danh sách chủ nợ được lập và niêm yết cơng khai tại trụ sở tịa án nơi tiễn hành thủ tục phá sản và trụ sở chính của doanh nghiệp trong thời hạn 10
<small>ngày. Trong thời hạn này, pháp luật cho phép các chủ nợ, doanh nghiệp lâm vào</small>
tình trạng phá sản có quyền khiếu nại với tòa án về danh sách trên.
- Lập danh sách mắc nợ, tổng số nợ phải đòi
<small>Quy định này được xem là khá quan trọng trong việc xác định các khoản</small>
nợ mà doanh nghiệp sẽ được thu hồi để nhập vào khối tài sản phá sản, nhằm bảo
vệ tôi đa lợi ích cho các chủ nợ. Danh sách người mac nợ được lập và niêm yết
<small>cơng khai tại trụ sở tịa án nơi tiên hành thủ tục phá sản và trụ sở chính của</small>
</div>