Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện Kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.03 MB, 72 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

DANG VĂN THUC

Chuyên ngành: Luật Hình sự va Tố tụng hình sự Mã số: 60380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

Hà Nội - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>lôi xin cam đoan day là cơng trình nghiên cứu</small>

khoa học của riêng tơi. Các cố liệu, ví dụ và trích dân

<small>trong Luận van dam bao độ tin cậy, chính xác và</small>

trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình

<small>nào khác.</small>

TÁC GIÁ LUẬN VĂN

<small>Đặng Văn Thực</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Chương 1: MỘT SO VAN DE CHUNG VE NHIỆM VỤ, QUYEN HAN VA

TRACH NHIEM CUA VIEN KIEM SAT TRONG GIAI DOAN KHOI TO VU AN HINH SU 007 ...ÔỎ 6 1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tơ vụ án hình sự và nhiệm vu, quyén han và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự...---- 6 1.1.1. Khai niém giai doan khoi 10. vụ án NINN SU cecececscscscscscsescscscscsvscsvecevsvevevevevens 6

<small>1.1.2. Khai niém, nhiém vu, quyén han va trach nhiém cua Vién kiém sat tronggiai đoạn khởi tO Vụ AN AINN SV... c3 11119111119 1111151111111 11g vn vn tt ọ</small>

1.2. Cở sở, ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi t6 vụ án hình sựf...----scescsecsesecsesscse 12 KET LUẬN CHƯNG ...2--< 5£ s 5£ 2£ 2s sES£Es£SsEs£EsES2EsEEsEseEsESEse2sesersese 16 Chương 2: QUY ĐỊNH CUA PHAP LUẬT HIỆN HANH VE NHIỆM VỤ, QUYEN HAN VÀ TRÁCH NHIỆM CUA VIỆN KIEM SÁT TRONG GIAI DOAN KHỞI TO VU ÁN HINH SỰ...- 5-5-5 s©cscssesscsetsersersessessesee 18 2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi 16 vụ ám Ninh SỊP...-e- 5< < se SeEsEeEeESEEeEsEEEsEsEEEsEEEsEsrkrsekrrsrsrssre 18 2.1.1. Nhiệm vụ, quyên hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyên công tô trong giai đoạn khởi 10 vụ án WANN SUC cececcccccccccscscsesesesesecesesesesescscscsvsvsvevevevsvavaveveveenenens 18 2.1.2. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyên hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tơ vụ án hình sự...- 22 2.2. Quy định về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vu án

<small>ÌMẪN SVE tonngernttioteigtttotittiptEkttc60iD011010XI010089401G061004593001-G0BX0I/GEMN3I980391E%)KHIDMIGAGLIEABSOIXHDESIBUASIR.GOHHIHIISEH0190120073189 30</small>

KET LUẬN CHƯNG 2...- 5-5- << ©s£ se EsESEE£EsESE4ESESEsESEEEsESeEsesesersesrre 32

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

NANG CAO CHAT LƯỢNG VIỆC THUC HIỆN NHIEM VỤ, QUYEN HAN

VA TRACH NHIEM CUA VIEN KIEM SAT TRONG GIAI DOAN KHOI TO VU AN 8:0n/:800127 7. ... 33 3.1. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi t6 vụ GN NINN Sựf...-o5-e< scsSsSsEsecsEseEsetsesessessesersrssree 33 3.1.1. Nhitng két ro. g.. an cốc... 33 3.1.2. Những tôn tại, hạn CNE ceccccscccscscscsvscsvecesesesesesescsvscsvsvsvsvavaaaveseseresesevevsvsvsvees 38 3.1.3. Nguyên nhân những han chế trong việc thực hiện nhiệm vu, quyên hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi 16 vụ án hình sự... 4] 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ, quyén han và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi t6 vụ án hình sự... 48

<small>3.2.1. Giải pháp lập phỚ|D...- - -- 5 5c S263 3211135113311 E5 111511111 1111111111111 11k re 48lê, CU II THHRỆM TÍN TỔ kunn ss seta Nà ch HE Rn A We th WA a A A 53</small>

KET LUẬN CHƯNG3 uucsccssssssssssssessssssssssssessssesssssssesssssssessssucsssuseessssessssssssssansseenees 59 KET 00/0077 ... 61 DANH MỤC TÀI LIEU THAM KHẢO: ...2--° 5° s 5° s2 se ssess=sessesesse 62

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<small>BLHS: Bộ luật hình sự</small>

BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQDT: Co quan diéu tra

KSHDTP: Kiểm sát hoạt động tư pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<small>Tên bảng Trang</small>

Số vụ án VKS trực tiếp khởi tố và yêu cầu CQĐT khởi tố 34 Số vụ án VKS hủy quyết định khởi tố và không khởi tố của 35

Số vu án va số bị can VKS và CQDT quyết định đình chi 40

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong t6 tụng hình sự (TTHS), khởi tố vụ án hình sự (KTVAHS) là giai đoạn đầu tiên có vai trị và ý nghĩa rất quan trọng đối với tồn bộ q trình giải quyết vụ án. Giai đoạn này có nhiệm vụ xác định có sự việc xảy ra hay khơng, nếu xảy ra thì có hay không dau hiệu của tội phạm dé khởi tô hoặc không khởi tố vụ án, nhằm xử lý kịp thời

<small>nghiêm minh các hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, khơng làm oan người vơ</small>

tội, góp phần bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân được pháp luật bảo hộ. Kết thúc giai đoạn này, khi đã khởi t6 vụ án Cơ quan điều tra (CQĐÐT) được tiến hành các biện pháp điều tra, kế cả các biện pháp cưỡng chế tơ tụng dé nhanh chóng phát hiện tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, nếu các hoạt động tố tụng khơng thực hiện đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định ở giai đoạn này, rất có thể tội phạm sẽ bị bỏ lọt hoặc lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, làm oan sai người vơ tội... Là cơ quan tư pháp có chức năng thực hành quyền công tố (THỌCT) và kiểm sát hoạt động tư pháp (KSHĐTP) nên Viện kiểm sát (VKS) có vi tri vơ cùng quan trọng trong giai đoạn khởi tố. Trong các cơ quan tiến hành tố tụng, Viện kiểm sát là cơ quan tham gia vào tat cả các giai đoạn tơ tụng hình sự. Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tô và kiểm sát việc tuân Theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tô phải được thực hiện ngay từ khi khởi to vụ án và trong suốt quá trình to tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiễn hành to tụng làm nhiệm vu. Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo dam đúng pháp luật; những trường hop chưa can bat, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết khơng phê chuẩn lệnh bat, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hop oan, sai trong

bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm

giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyên phê chuẩn của minh" [0A].

Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 08 — NQ/TW, ngày 02/6/2005, Ban Chap hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 49 — NQ/ TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 [05]. Theo đó, VKS tập trung vào chức năng công tố, nghiên cứu việc chuyên VKS thành Viện cơng tố, tăng cường hơn nữa vai trị của VKS đối với

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

hoạt động điều tra. Cùng với đó trong thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKS năm 2002 và BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của luật góp phan nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS. Từ lý do trên, tác giả quyết định chon đề tài: “Nhiệm vụ, quyên hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát

<small>trong giai đoạn khởi tơ vụ án hình sự ” làm luận văn thạc sĩ của mình.2. Tình hình nghiên cứu đê tài</small>

Trong những năm qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong khởi tô vụ án hình sự đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này, qua nghiên cứu tìm hiểu cho thấy, các cơng trình khoa học tập trung nghiên cứu theo

<small>những khía cạnh sau:</small>

Nghiên cứu chung về việc đôi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Điển hình như: Nguyễn Minh Đức: “Vé chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tỉnh thân cải cách tr pháp”, (Tạp chí chuyên ngành), 2006, Hà nội; Lê Hữu Thể, “Tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiễn trình cải cách tu pháp” (Tạp chí chun ngành), Hà Nội, 2008; Khuất Duy Nga: “Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tô chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kì đổi mới” (Tạp chí chun ngành), Hà Nội, 2005: Đỗ Văn Dương: Cơ quan thực hành quyên công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay

<small>(Tạp chí chun ngành)...</small>

Nghiên cứu về quyền cơng tố và thực hành quyền công tổ trên một số lĩnh vực cụ thé, như: Lê Hữu Thé (Chủ biên): 7c hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tr pháp trong giai đoạn diéu tra (Sách tham khảo), Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2005; Phạm Mạnh Hùng: Hoàn thiện các quy định của bộ luật tổ tụng hình sự về quan hệ giữa Viện kiểm sát và cơ quan điêu tra trong tố tụng hình sự (Tạp chí chun ngành) 2007,

<small>Hà Nội...</small>

Một số cơng trình nghiên cứu về VKS trong giai đoạn khởi tố như: “Kiểm sdt việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi to - điều tra vụ án hình sự”, Luận văn thạc sỹ của tác gia Nguyễn Thành Tri, năm 1996; “Chic năng của Viện kiểm sát trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

to tụng hình sự”, Luận văn thạc sỹ của tac giả Võ Phước Long thực hiện nam 2007;

<small>“Kiém sát hoạt động khởi to và điêu tra vụ án hình sự”...</small>

Những cơng trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu về tô chức và hoạt động của VKS nhân dân nói chung và một số cơng trình, bài viết nghiên cứu về chức năng hoạt động của VKS trên một số lĩnh vực cụ thé. Về van đề: “Nhiém VU, quyên hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tơ vụ án hình sự” có một số cơng trình đề cập đến nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ

thống, tồn diện hoặc chưa nghiên cứu dưới góc độ coi khởi tố vụ án là một giai đoạn

tố tụng độc lập mà vẫn gắn liền với giai đoạn điều tra. Hơn nữa, các cơng trình khoa hoc đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật đã được sửa đổi, bồ sung với nhiều quy định mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thé

<small>và tồn diện hơn.</small>

<small>3. Đơi tượng và phạm vi nghiên cứu của đê tài- Đôi tượng nghiên cứu</small>

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật và thực trạng về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ

<small>án hình sự.</small>

<small>- Phạm vi nghiên cứu</small>

Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và một số vấn đề về trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn thực hiện nhiệm vụ của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự ở Việt Nam (từ năm 2009 — năm 2013) đề thấy được những tồn tại, hạn chế. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. (Đề tài khơng nghiên cứu sỐ

<small>liệu của VKS quân sự).</small>

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

<small>Dé tai được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác — Lénin,tư tưởng Hơ Chí Minh, các quan điêm và đường lơi của Dang, Nhà nước về cai cách tưpháp.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như Lý luận- thực tiễn, lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, logic, điều tra xã hội học... nhằm giải quyết

<small>mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu cua dé tài.5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài5.1. Mục dich của đề tài</small>

Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự cùng với việc làm rõ van đề quyền công tố, thực hành quyên công tổ và kiểm sát tuân theo pháp luật trong trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, những quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; đánh giá thực trạng việc thực hiện nhiệm vu, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn này, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của VKS trong giai đoạn khởi

<small>tơ vụ án hình sự.</small>

<small>5.2. Nhiệm vụ của dé tài</small>

<small>Với mục đích trên, dé tài tập trung làm rõ các nhiệm vụ sau:</small>

<small>- Làm rõ một sô vân đê chung như: khái niệm vê: nhiệm vụ, quyên hạn, tráchnhiệm của Viện kiêm sát và vân dé thực hành quyên công tô và kiêm sát việc tuân theopháp luật.</small>

<small>- Nghiên cứu một cách khái quát những quy định của pháp luật TTHS và những</small>

văn bản pháp luật có liên quan về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai

<small>đoạn khởi tơ vụ án hình sự.</small>

- Phân tích những kết quả đạt được cũng như những vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Làm cơ sở cho việc đưa ra những giải pháp nhăm nâng cao chất lượng hoạt động của VKS trong giai đoạn khởi t6 vụ án hình sự.

6. Đóng góp khoa học của đề tài

- Thứ nhất, đề tài góp phần tạo Sự thống nhất trong nhận thức về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của VKS cùng với van đề về thực hành quyền công tố và kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

- Thứ hai, với việc đề xuất sửa đôi, bô sung một số quy định pháp luật TTHS về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, đề tài đã giải quyết được những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện những quy định của pháp luật trên thực tế.

- Thứ ba, kết quả nghiên cứu của đề tài có thê sử dụng làm tài liệu để nghiên cứu,

<small>giảng dạy trong nhà trường và là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà khoa học khinghiên cứu những vân dé có liên quan.</small>

<small>7. Cơ cầu dé tài</small>

Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm

<small>3 chương:</small>

CHƯƠNG 1: MỘT SO VAN DE CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYEN HAN VA TRACH NHIEM CUA VIEN KIEM SAT TRONG GIAI DOAN KHOI TO VU AN HINH SU

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CUA PHAP LUAT TO TUNG HINH SỰ HIỆN HANH VE NHIEM VU, QUYEN HAN VA TRACH NHIEM CUA VIEN KIEM SAT TRONG GIAI DOAN KHOI TO VU AN HINH SU

CHUONG 3: THUC TRANG THUC HIEN VA MOT SO GIAI PHAP NHAM NANG CAO CHAT LƯỢNG VIỆC THUC HIEN NHIEM VỤ, QUYEN HAN VA TRACH NHIEM CUA VIEN KIEM SAT TRONG GIAI DOAN KHOI TO VU AN HINH SU

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

<small>Chương 1:</small>

MOT SO VAN DE CHUNG VE NHIỆM VỤ, QUYEN HAN VA TRÁCH NHIEM CUA VIEN KIEM SAT TRONG GIAI DOAN

KHOI TO VU AN HINH SU

1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và nhiệm vu, quyền han và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tổ vụ án hình sự

Trước tiên, cần xác định KTVAHS khơng phải là hành vi tố tụng mà là một giai đoạn tơ tụng bắt đầu từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận những thông tin về tội phạm, kiểm tra xác minh các thơng tin đó, kết thúc khi xử lý nguồn tin, ra các quyết định phù hợp theo quy định của pháp luật tố tụng. Trong trường hợp xác định có dấu hiệu của tội phạm thì ra quyết định khởi tố vụ án, nếu xác định khơng có dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định khơng khởi t6 vụ án hình sự. Do vậy, KTVAHS được coi là

<small>giai đoạn đâu tiên của quá trình tơ tụng vụ án hình sự.</small>

Đến nay, trong lý luận, quan niệm KTVAHS có cách diễn đạt khác nhau, nhưng đều thừa nhận đây là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Từ điển Bách khoa Việt Nam giải thích, “Khởi to vụ án hình sự là hoạt động của Cơ quan điều tra, kiểm sát

hoặc xét xử, ra quyết định khởi tô vụ án khi xác định có dau hiệu tội phạm và đó là

giai đoạn mở dau qua trinh tổ tụng hình sự” [51, tr. 352]. Cịn Từ điển Luật học thì

cho rằng, “Khởi tơ vụ án hình sự là khi nhận được tin bdo về một vụ việc nào đó, cơ

quan Cơng an hoặc Viện kiểm sát trong phạm vì trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguon tin. Chi sau khi có dấu hiệu tội phạm thì mới được quyết định khởi tổ vu án” [52, tr. 254]. Theo sách Thuật ngữ pháp ly dùng trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, “Khoi t6 vụ án hình sự là hoạt động tổ tụng hình sự do cơ quan có thẩm quyên tiễn hành sau khi đã xác minh một sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm... Khởi tơ vụ án hình sự là giai đoạn mở đâu q trình t6 tụng hình sự” (15, tr167]. Cịn Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì giải thích: “Khởi t6 vu án hình sự là hoạt động tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyên tiễn hành sau khi đã xác định một sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm. Khởi to vụ án hình sự là giai đoạn mở dau quá trình t6 tung hình sự” [02, tr685]. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Dai Học Luật Hà Nội thì đưa ra khái niệm “Khoi t6 vụ án hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

sự là giai đoạn mở dau của tơ tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyên xác định có hay không dau hiệu của tội phạm dé ra quyết định khởi tô hoặc quyết định không khởi tố vu an’. [31, tr. 235].

Mặc dù có các cách diễn đạt khác nhau nhưng có thê thống nhất: KTVAHS là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự, được thực hiện ké từ khi cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và kiểm tra, xác minh những tố giác, tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức, công dân hoặc tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú, các cơ quan có thâm quyên trực tiếp phát hiện tội phạm dé ra quyết định khởi tố hoặc khơng khởi t6 vụ án hình sự. Do vậy, có thé khái niệm về KTVAHS như sau: Khởi t6 vụ án hình sự là giai đoạn đâu tiên của Tổ tụng hình sự trong đó các cơ quan có thẩm quyên xác định một sự việc có dấu hiệu của tội phạm hay không để ra quyết định khởi tô hoặc quyết định không khởi tô vụ án

<small>làm căn cư tiên hành điêu tra.</small>

<small>Từ khái niệm trên, có thê đưa ra những đặc điêm chung, cơ bản của giai đoạnkhởi tơ vụ án hình sự như sau:</small>

Thứ nhát, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn TTHS đầu tiên, có thời hạn được xác định từ khi các cơ quan tiễn hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố tụng ra

quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự.

<small>Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn KTVAHS chỉ xác định có hay khơng</small>

có dấu hiệu của tội phạm dé ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định khơng

<small>khởi tơ vụ án hình sự.</small>

Thư ba, chủ thé có thâm quyền tiễn hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng (CQDT, VKS, Tịa án) cịn có những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải quan, ... Những cơ quan nay trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định khơng khởi tố vụ án

<small>hình sự.</small>

Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thâm quyền được sử dụng trong giai đoạn KTVAHS bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; thu thập dấu

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lay lời khai của người bi tam giữ; lay lời

khai của người tơ giác tội phạm... Bên cạnh đó hoạt động khám nghiệm hiện trường có thé được tiến hành trước khi KTVA (về nguyên tắc, các hoạt động điều tra chỉ được tiến hành khi đã có quyết định khởi tố vụ án).

Toàn bộ những van đề liên quan đến khởi tố vụ án hình sự được quy định từ Điều 100 đến Điều 109 của BLTTHS năm 2003, theo đó trình tự khởi tố vụ án hình sự được

<small>thực hiện qua các bước:</small>

- Tiếp nhận tổ giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Nhiệm vụ giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố được quy định cụ thể tại điều 103 BLTTHS năm 2003: “Cơ quan diéu tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đây đủ mọi tơ giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tô chức và kiến nghị khởi tô do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tô giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tô kèm theo các tài liệu liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan diéu tra có thẩm quyển”. Cơ quan điều tra và VKS là những cơ quan tiễn hành tố tụng có nhiệm vụ tiếp nhận đầy đủ mọi tổ giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do cá nhân, cơ quan, tô chức chuyên đến.

Viện kiểm sát khi tiếp nhận các tin báo, tô giác và kiến nghị khởi tố phải chuyên ngay hồ sơ kèm theo các tài liệu liên quan đến CQDT có thâm quyền dé tiến hành xác minh. Cơ quan điều tra là đầu mối quản lý toàn bộ các tố giác, tin báo về tội phạm

<small>(nguôn dé khởi tô).</small>

<small>- Kiêm tra, xác minh các tin tức về tội phạm</small>

Thời hạn và nhiệm vụ kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm được quy định tại điều 103 BLTTHS năm 2003. Theo quy định của luật thi chỉ có CQDT mới được xác minh, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong thời hạn 20 ngày, trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tổ giác và tin báo có thé dài hơn, nhưng khơng q hai tháng, CQDT có nhiệm vụ khẩn trương chủ động áp dụng các biện pháp do luật định để xác minh kiểm tra nguồn tin, xem xét có hay khơng dấu hiệu của tội phạm dé quyét định khởi tô hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

- Quyét định khởi tố vu án hoặc quyết định khơng khởi tơ vụ án hình sự.

Quyết định khởi tố vụ án hình sự là căn cứ pháp lý để CQĐT tiến hành những biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật. Quyết định khởi tố vụ án hình sự được quy định cụ thé tại điều 104 BLHS năm 2003 khi có căn cứ cụ thể quy định tại Điều

<small>100 BLTTHS năm 2003 [31, tr. 154], [31, tr. 463].</small>

Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý xác định nguồn thông tin về tội phạm hoặc sự việc nào đó khơng có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Các trường hợp được sử dụng làm căn cứ ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự được quy định tại điều 107 BLHS năm 2003. Những căn cứ khơng được khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Khơng có sự việc phạm tội; Hành vi khơng cấu thành tội phạm; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình su; Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với

<small>người khác.</small>

1.1.2. Khái niệm, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tô vụ án hình sự

Trong khoa học pháp lí, thâm quyền, nhiệm vụ và nghĩa vụ là các khái niệm khác nhau. Thâm quyên là “Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ quan, tô chức trong bộ máy Nhà nước do luật pháp quy định” [52, tr. 459]. Quyền hành động là quyền được làm những cơng việc nhất định, cịn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết cơng việc đó trong phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành động). Nghĩa vụ là việc mà theo đó một chủ thê (cá nhân, cơ quan, tô chức) phải thực

<small>hiện hoặc không được thực hiện khi tham gia vào một quan hệ pháp luật. Cịn nhiệmvụ là cơng việc phải làm, phải gánh vác [49, tr. 1251]. Theo cách giải nghĩa này thì</small>

nhiệm vụ nói chung là cơng việc mang tính bắt buộc đối với chủ thê phải thực hiện. Tuy nhiên, khi nói đến nhiệm vụ người ta thường nói đến cơng việc phải thực hiện của người có thâm quyền của cơ quan, tô chức trong bộ máy nhà nước khi thực hiện thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Nhiệm vụ của một chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thê trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và được pháp luật quy định. Cùng một

chủ thé, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì quy định pháp luật xác định nhiệm

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

vụ khác nhau. Quyên han được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ ho phép [49, tr. 1384]. Dưới góc độ pháp lí, quyền hạn của một cơ quan, tô chức hoặc cá nhân được xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vi trí cơng tác va trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật [52]. Quyền han thường gắn chủ thé với một cương vị, tư cách cụ thé. Trong khoa học pháp lí, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tô chức trong bộ máy Nhà nước hoặc của người có thẩm quyền của co quan, tổ chức đó. Quyên han của cơ quan, tô chức là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi nhiệm vụ của cá nhân người có thâm

<small>qun của cơ quan tơ chức đó.</small>

Do đó, có thé hiểu nhiệm vu, quyền hạn của cơ quan VKS là những hoạt động, những quyền năng pháp lí cụ thé của VKS trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng của ngành mình để cùng thực hiện chức năng chung của cả bộ máy Nhà nước trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật. Theo quy định tại Điều 23 BLTTHS năm 2003, Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát thực hiện ca hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt đông tư pháp nhằm đảm bảo cho việc ra quyết định khởi tố, không ra quyết định khởi tố được tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm.

<small>Như vậy, có thê đưa ra khái niệm:</small>

Nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tơ vụ án hình sự là hệ thống những hoạt động mà Viện kiểm sát phải tiễn hành, các hoạt động này được pháp luật quy định nhằm thực hiện chức năng thực hành quyên công tố, kiểm sát các hoạt động tr pháp dé dam bảo cho việc khởi tố hoặc không khởi tô được thực hiện theo đúng quy

<small>định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm.</small>

Quyên hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tơ vụ án hình sự là hệ thong những quyền năng pháp lý được pháp luật quy định mà Viện kiểm sát được làm dé thực hiện hoạt động thực hành quyên công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm dam bảo cho việc khởi tố, không khởi tô được thực hiện theo đúng quy định của pháp

<small>luật, khơng bỏ lọt tội phạm.</small>

<small>Có thê thay, giữa “nhiệm vụ của Viện kiêm sat” và “quyên hạn của Viện kiêm</small>

sát” có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ không thé tách rời. Nhiệm vụ, bản thân nó

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

cũng đã chứa đựng quyền hạn. Nhiệm vụ - quyền hạn tạo nên sự thống nhất trong trạng thái cân bằng do pháp luật quy định. Khi pháp luật trao cho Viện kiểm sát một nhiệm vụ nao đó thì cũng sẽ trao cho cơ quan này những quyền hạn nhất định dé thực hiện nhiệm vụ đó. Ngược lại, nếu VKS có thé sử dụng quyền hạn trong một vụ án hình sự cụ thê thì có nghĩa là cơ quan này đã được pháp luật trao cho nhiệm vụ giải quyết vụ án đó và phải thực hiện day đủ nhăm giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác. Trên thực tế khơng thé phân biệt hoạt động nao thể hiện nhiệm vụ của VKS và hoạt động nào thể hiện quyền hạn của viện kiểm sát. Vi du: theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 36 BLTTHS, Viện trưởng VKS có nhiệm vụ yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đây vừa là nhiệm vụ và cũng là quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tổ tụng hình sự. Mối quan hệ này khơng những có ý nghĩa về mặt lý luận mà cả trong hoạt động thực tiễn. Nhận thức, sử dụng đúng quyền hạn theo nhiệm vụ, đúng

đối tượng, đúng mục đích giúp cho VKS có sự vận dụng đồng bộ, tổng hợp, linh hoạt

nhiệm vụ và quyên hạn qua đó phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Có thé nói nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát là hai bộ phận không tách rời trong quy định về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát cũng như việc thực hiện các quy định này trong thực tiễn. Việc thực hiện quyền cũng đồng thời là việc thực hiện nhiệm vụ của của Viện kiểm sát

<small>và ngược lại.</small>

Trong thực tiễn chính trị, pháp lý, thuật ngữ “trách nhiệm” thường được hiểu theo hai nghĩa: Thw nhất, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận trước người khác, xã hội

<small>hoặc Nhà nước và được các quy phạm pháp luật quy định. 77 hai, trách nhiệm là hậu</small>

quả bất lợi phải gánh chịu trước người khác, trước xã hội hoặc Nhà nước do đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ, bổn phận nào đó. Trong BLTTHS năm 2003 khơng quy định về trách nhiệm của Viện kiểm sát. Tuy nhiên với tư cách là chủ thé những hoạt động của Viện kiêm sát, BLTTHS năm 2003 quy định cụ thé về trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát và Kiểm sát viên (KSV):

“Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình `.

“Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện

<small>kiêm sat về những hành vi và quyết định của minh”.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Cùng với đó, theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước số 35/2009/QH12 của Quốc hội thì VKS có trách nhiệm bồi thường khi gây ra các thiệt hại về vật chất, tôn thất về tinh thần cho cá nhân, tô chức trong thi thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình. Như vậy, “trách nhiệm của VKS trong tố tụng hình sự” được hiểu theo nghĩa thứ hai. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát thực hành quyền công tô và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không dé lọt tội phạm và người phạm tội, khơng làm oan người vơ tội. Khi có vi phạm và sai sót trong giai đoạn này thì Viện kiểm sát có trách nhiệm bồi thường, các cá nhân với tư cách là chủ thê tiễn hành các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát có liên quan tùy theo tính chất và mức độ mà bị xử lý kỉ luật hoặc truy cứu trách nhiệm

<small>hình sự. Như vậy:</small>

Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi to vụ án hình sự là những hậu quả (bất lợi) mà Viện kiểm sát phải gánh chịu theo quy định của pháp luật khi thực hiện những nhiệm vụ, quyên hạn được giao trong giai đoạn khởi to vụ án hình sự. 1.2. Cở sở, ý nghĩa của việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự

Căn cứ Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua cơ quan đại diện dân cử. Bộ máy Nhà nước được tô chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực Nhà nước thống nhất nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mỗi cơ quan Nhà nước được pháp luật quy định chức năng nhất định dé thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan được Hiến pháp quy định hai chức năng: Thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp.

“Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền cong tô và kiểm sát các hoạt động tr pháp, góp phan bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thong nhat. Các Viện kiểm sát nhân dân dia phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyên công tô và kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định." (Điều 107 Hiến pháp năm 2013).

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hién pháp và pháp luật. Viện kiểm sát nhân dân toi cao thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phan bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thong nhất. Cac Viện kiểm sát nhân dân dia phương thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tr pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.” (Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, Viện kiểm sát thực hiện hai chức năng: Thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát thực hành quyền công tổ và kiểm sát việc tuân theo pháp luật (Điều 23

<small>BLTTHS năm 2003).</small>

Chức năng thực hành quyên công tô của Viện kiểm sát trong khởi tơ vụ án hình

<small>Đê làm rõ nội dung vân đê thực hành quyên công tô trong khởi tô vụ án hình sự,trước hêt chúng ta cân làm rõ vân đê: Quyên công tô và thực hành quyên công tơ.</small>

“Cơng to” theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa là: “Điều tra, truy tổ và buộc tội kẻ

<small>phạm pháp trước Toa án”. [48, tr. 436].</small>

Hiện nay xung quanh vấn đề “Quyền cơng tố” có nhiều quan điểm khác nhau. Có tác giả đưa ra khái niệm quyền công tố như sau: Quyền công tô là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện các chức năng do luật TTHS quy định dé kiểm sát tính hợp pháp của việc điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự cắm trước Tịa án nhằm góp phần ra được các bản án có căn cứ, cơng minh và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền tự do của cơng dân,

<small>cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của Nhà nước trong hoạt động tư pháp</small>

hình sự. [03]. Theo nội dung này, tác giả coi quyền cơng tố là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

<small>dân đên việc xem nhẹ bản chât của quyên công tô.</small>

Quan điểm thứ hai thi cho rang: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước

<small>thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đôi với người phạm tội. Quyên này thuộc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát) dé phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Dé làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành qun cơng tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác minh tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa. [35, tr. 40]. Bên cạnh đó cịn có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công t6[23, tr. 18-19], [24, tr. 24], [35], tuy nhiên tác giả luận văn thấy quan điểm hai là tương đối hợp lý vì đã thé hiện được đầy đủ nội dung của quyền công tố, quyền này thuộc về Nha nước, được Nhà nước giao cho VKS thực hiện dé phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, điều này được thê hiện rõ tại Điều 137 Hiến pháp năm 2013 và Điều 23 BLTTHS năm 2003. Dé thực hiện tốt nhiệm vụ này, VKS phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ dé xác minh tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bi

<small>can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa.</small>

Như vậy, đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội, phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi ban án có hiệu

<small>lực pháp luật khơng bi kháng nghi.</small>

Việc tiến hành những biện pháp do luật định được Nhà nước giao trách nhiệm thực hiện các biện pháp pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là thực hành quyền công tố: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tông hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách

<small>nhiệm hình sự đôi với người phạm tội trong các giai đoạn điêu tra, truy tô và xét xử.</small>

Quan điểm của tác giả luận văn về cơ bản là nhất trí với nội dung trên nhưng cần bổ sung thêm như sau: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tong hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố dé thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy t6 và xét xử, bởi vì khởi tố là một giai đoạn tố tụng độc lập, hoạt động thực hành quyền công tố phải được tiến hành ngay khi có sự việc phạm tội xảy ra.

Nội dung thực hành quyền công t6 của VKS trong giai đoạn khởi t6 vụ án bao gồm các nhiệm vụ, quyên han dé phát động quyền công tố — khởi tố vụ án va một số

<small>hoạt động khác.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

- Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tơ vụ án hình sự.

Đề làm rõ van dé này, trước tiên ta phải hiểu thé nào là “kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án hình sự”. Theo tác giả luận văn thì có thể đi đến nhận thức van đề, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong KTVAHS là hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự có đối tượng là hành vi xử sự của các cơ quan có thâm quyền KTVAHS được pháp luật quy định, nhằm bảo đảm cho việc khởi tố vụ án được

<small>nhanh chóng, kip thời, có căn cứ, đúng pháp luật.</small>

Nội dung của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án là những biện pháp mà VKS không trực tiếp ra quyết định, qua công tác kiểm sát, nếu phát hiện các vi phạm pháp luật của các cơ quan có thâm quyền khởi tố vụ án thì kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu bé sung, khắc phục.

Các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS được tiễn hành trước khi khởi tố vụ án như: Kiểm sát việc giải quyết của CQĐT đối với tổ giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Kiểm sát việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi của CQDT nhằm đảm bảo mọi

<small>hoạt động này được thực thi đúng trình tự, thủ tục luật định.</small>

Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn KTVAHS của VKS tiếp tục được thể hiện qua hoạt động kiểm sát việc KTVAHS, quyết định không KTVAHS; kiểm sát việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định KTVAHS của Cơ quan

<small>điêu tra.</small>

Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật, VKS có các quyền nhằm phát hiện vi phạm pháp luật của các cơ quan có thâm quyên khởi t6 vụ án và quyền yêu cầu khắc phục, xử lý vi phạm của chủ thê tiến hành các hoạt động tư pháp hình sự trong giai đoạn khởi tố vụ án.

Như vậy, xuất phát từ chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật mà pháp luật trao cho cơ quan VKS những nhiệm vụ, quyên hạn cụ thê để thực hiện chức năng của mình. Cùng với đó, pháp luật cũng quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát khi thực hiện không đúng, không đầy đủ chức năng được giao. Trong giai đoạn khởi t6 vụ án hình sự, Viện kiểm sát thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện chức năng thực hành quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

công tố va kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhăm đảm bao việc khởi tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không dé lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vơ tội. Nếu xảy ra sai sót, vi phạm thì phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy

<small>định của pháp luật.</small>

KET LUẬN CHƯƠNG 1

1. Phòng ngừa va dau tranh chống tội phạm là những nhiệm vu then chốt để phát triển xã hội, một xã hội ổn định là một xã hội ít tội phạm. Phịng ngừa và dau tranh chống tội phạm không chỉ là quyền lợi mà cịn là nghĩa vụ của mọi cơng dân, tơ

<small>chức trong xã hội. Trong cơng cuộc giữ gìn an ninh trật tự xã hội, vai trò của những</small>

đơn vị trực tiếp đấu tranh chống tội phạm là vô cùng quan trọng. Viện kiểm sát là cơ quan trực tiếp đấu tranh chống tội phạm. Với những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự mà Nhà nước giao phó, là đảm bảo cho mọi hành vi phạm tội đều được phát hiện xử lý, việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người đúng tội,

<small>không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đảm bảo mọi hoạt động tư pháp</small>

hình sự được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Góp phần bảo vệ quyền và lợi ích

<small>hợp pháp của cơng dân được pháp luật bảo hộ, nâng cao hiệu quả hoạt động phòng</small>

ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

2. Trong giai đoạn KTVAHS, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thé dé thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hành vi sử xự của các cơ quan có thâm quyên khởi tố vụ án. Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, tác giả luận văn đã xây dựng được khái niệm thế nào là “nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự”, qua đó thấy được vai trị quan trọng của VKS trong cơng tác phịng, chống tội phạm.Những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm mà Nhà nước giao cho nhằm đảm bảo cho cơ quan Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.

3. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình trong giai đoạn KTVAHS, VKS có qun tự mình khởi tố vu án hình sự, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tô hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án; quyết định áp dụng, thay đôi,

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

hủy bỏ biện pháp bắt, tạm g1ữ, chấp nhận hoặc không chấp nhận quyết định khởi t6 vụ

án của các cơ quan khác có thâm quyên. Mọi quyết định khởi tố vụ án hình sự của các co quan có thầm quyền khởi tố chỉ thực sự có hiệu lực sau khi đã được VKS xem xét,

quyết định. Bên cạnh đó Viện kiểm sát còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong

khởi tố vụ án hình sự chủ yếu tập trung vào hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thầm quyền khởi tố vụ án hình sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn KTVAHS, Viện kiểm sát được sử dụng tất cả quyên năng pháp lý do luật định dé phát hiện vi phạm và yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan và nguoi có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố vụ án, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Tất cả những luận cứ nêu trên là cơ sở để đánh giá thực trạng của VKS trong khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam ở chương tiếp theo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

<small>Chuong 2:</small>

QUY DINH CUA PHAP LUAT HIEN HANH VE

NHIEM VU, QUYEN HAN VA TRACH NHIEM CUA VIEN KIEM SAT TRONG GIAI DOAN KHOI TO VU AN HINH SU

2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vu, quyền hạn của Viện kiểm sat trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự

2.1.1. Nhiệm vụ, quyên hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công to trong giai đoạn khởi tơ vụ án hình sự

Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố vụ án hình sự.

Điều 36, 104 và 109 BLTTHS năm 2003 đều có quy định thống nhất là VKS ra quyết định KTVAHS trong trường hợp VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan quy định tại khoản này và trong trường hợp HĐXX yêu cầu

<small>khởi tô vụ án hình sự.</small>

Nhu vậy, về thẩm quyên trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án của VKS theo quy

<small>định của BLTTHS năm 1988 rộng hơn so với quy định của BLTTHS năm 2003. Theo</small>

Điều 87 BLTTHS năm 1988 thì “khi xác định có dau hiệu tội phạm thì Cơ quan diéu tra, Viện kiểm sát phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự... ”. Điều đó dẫn tới việc khởi tố vụ án bị chồng chéo, đồng thời làm giảm hiệu quả của công tác thực hành quyền công tổ của VKS. Khắc phục tinh trạng trên, BLTTHS năm 2003 đã thu hep phạm vi khởi tố vụ án hình sự của VKS. Theo đó thì VKS chỉ được ra quyết định khởi tố vụ án trong 2 trường hợp đó là: VKS hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT, HĐXX yêu cầu khởi tố vụ án. VKS không chủ động phát hiện và khởi tố vụ án

<small>hình sự.</small>

Yêu cau Cơ quan điều tra khởi tô vụ án hoặc thay đối, bố sung quyết định khởi t6 vụ án, kháng nghị quyết định khởi tô vụ án của Hội dong xét xử.

Thứ nhất: Yêu cẩu Co quan điều tra khởi to vụ án. Bộ luật tơ tụng hình sự năm 2003 quy định khi thực hành quyền công tổ và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, VKS yêu cầu CQDT khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 36. So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm 2003 quy định cụ thể và rõ ràng hơn. Bộ luật tơ tụng hình sự năm 1988 khơng quy định cụ

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

thê về thâm quyền yêu cầu khởi tố vụ án của VKS nhưng theo hướng dẫn tại điểm 2 mục 2 Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 19/05/1992 thì khi kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm của CQDT, VKS có quyền yêu cầu khởi tố hoặc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, chuyển cho CQĐT để tiến hành điều tra. Như vậy, so với các quy định của pháp luật trước đây thì quyền hạn của VKS bị giới hạn hơn rất nhiều.

Thứ hai: VKS thay đổi, bồ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định van dé này tại Điều 106 như sau: “Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tơ không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc con có tội phạm khác thì COPT, VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi to vụ án hình sự”. Cịn BLTTHS năm 1988 khơng quy định về vấn đề nay. Như vậy dé thay được sự đối mới trong các quy định của pháp luật hiện hành xác định rõ nhiệm vu, quyền han và trách nhiệm của VKS trong việc thay đổi, b6 sung quyết định khởi tố vụ

<small>án hình sự.</small>

Sau khi khởi t6 vụ án hình sự, CQDT có điều kiện thu thập thêm nhiều chứng cứ, tài liệu giúp cho việc nhận thức, đánh giá về hành vi phạm tội đầy đủ và chính xác hơn. Vì vậy, những nhận thức đánh giá ban đầu về tội phạm khi KTVAHS nhiều khi khơng

<small>cịn đúng với hành vi phạm tội đã xảy ra hoặc phát hiện thêm tội phạm mới và vì vay</small>

quyết định khởi tố vụ án cần được thay đổi, bổ sung cho phù hợp. Luật TTHS quy định chỉ có CQDT và VKS mới có thẩm quyền thay đổi hoặc bồ sung quyết định khởi tố vụ

<small>án hình sự.</small>

Nếu thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tơ vụ án hình sự của CQDT chưa đủ căn cứ hoặc khơng có căn cứ thì VKS có văn bản yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc ra quyết định hủy bỏ; nễu CQDT không nhất trí và rõ ràng việc thay đổi, bổ sung này khơng có căn cứ thì VKS căn cứ theo khoản 5, Điều 112 của BLTTHS ra quyết định hủy bỏ.

Trường hợp có căn cứ thay đơi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, VKS có văn bản yêu cầu CQDT ra quyết định; nếu đã yêu cầu mà Cơ quan điều tra không nhất tri thi VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự trong thời gian 24 giờ, ké từ khi ra quyết định phải gửi cho CQDT dé tiến hành điều tra theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Việc quy định về thay đôi, bô sung quyết định khởi tố vụ án hình sự đảm bảo cho việc khởi tố vụ án được chính xác phù hợp, hạn chế bỏ lọt tội phạm.

Thứ ba: Kháng nghị quyết định khởi t6 vụ án của HDXX. Đỗi với quyết định khởi tố vụ án của HDXX theo quy định tại Điều 109 BLTTHS năm 2003 và Điều 12 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/OD-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân toi cao Tran Quốc Vượng đã ky) thì khi nhận được yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của HDXX, Kiểm sát viên thụ lý vụ án tiến hành kiểm tra các tài liệu, chứng cứ và báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền dé xử lý như sau:

- Nếu thay yêu cầu khởi t6 vụ án của HDXX có căn cứ thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và chuyên ngay quyết định đó kèm theo tai liệu có liên quan đến CQDT

<small>có thâm quyên dé tiên hành điêu tra;</small>

- Nếu thay yêu cau khởi tô vụ án hình sự của HDXX khơng có căn cứ thì ra quyết định khơng KTVAHS và gửi quyết định đó cho Tồ án nơi HDXX u cầu khởi tó.

Thực hiện một số hoạt động khác

<small>Trong giai đoạn khởi tô vụ án hình sự, ngồi nhiệm vụ, quyền hạn nói trên, VKScịn có nhiệm vụ, quyên hạn sau:</small>

Thứ nhất: VKS ra quyết định hủy bỏ các quyết định khơng có căn cứ, trái pháp luật của COPT và các cơ quan khác có thẩm qun khởi tơ vụ án. Kháng nghị Quyết định KTVAHS của Hội đồng xét xử.

Khoản 2, Điều 109 BLTTHS 2003 quy định về thẩm quyền hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án của Viện kiểm sát.

Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bé sung quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQDT nếu quyết định này khơng có căn cứ, theo quy định tại Khoản 5, Điều 112 BLTTHS 2003 và điểm § TTLT/05 Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT — VKSTC — BCA — BQP ngày 07/09/2005 về quan hệ phối hợp giữa Co quan điều tra và viện kiểm sát trong việc thực hiện một sé quy dinh cua BLTTHS nam

<small>2003.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Thứ hai: Đối với các quyết định áp dung, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt người trong trường hop khẩn cáp, tam giữ.

Trong giai đoạn khởi tố vụ án những biện pháp ngăn chặn như bắt người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ là những biện pháp được tiễn hành trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Trong những trường hợp này, hoạt động thực hành quyền công tố của VKS được pháp luật TTHS Việt Nam quy định cu thé tại khoản 4 Điều 81 và khoản 3 Điều 86 BLTTHS năm 2003.

Thứ ba: Phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

Trong mọi trường hợp, việc bắt khan cấp phải được báo ngay cho VKS cùng cap bang văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bat khan cấp dé xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khân cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, VKS phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong thời han 12 giờ, ké từ khi

nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khan cấp, VKS phải

ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu VKS quyết định khơng phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt

Thứ tw: Đối với việc tam giữ:

Trong thời han 12 giờ ké từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho VKS cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ khơng có căn cứ hoặc khơng cần thiết thì VKS ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm

<small>giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm g1ữ.</small>

Trong thực tế giải quyết vụ án hình sự, biện pháp bắt khẩn cấp và tạm giữ trong giai đoạn KTVAHS được áp dụng nhiều hơn, bên cạnh đó biện pháp khám xét cũng có thé được áp dụng trước khi khởi tô vụ án. Đối với hoạt động này VKS thực hiện hoạt động công tô thông qua việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh khám xét. Điều

<small>141 BLTTHS năm 2003 quy định như sau: “... Lệnh khám xét của những người được</small>

quy định tại điểm d, khoản 1, Diéu 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thi hành...”

<small>Như vậy, theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam, VKS luôn là cơ quan có</small>

nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quan trọng trong các biện pháp bắt, tạm giữ đảm

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

bảo được áp dụng đúng người, đúng pháp luật góp phần quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án.

2.1.2. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tổ vụ án hình sự.

Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong khởi tố vụ án hình sự được pháp luật tơ tụng hình sự Việt Nam điều chỉnh và được thê hiện cụ thé như sau:

- Kiểm sát việc tiếp nhận và xử ly tin báo, tô giác tội phạm;

- Kiểm sát quyết định khởi tố và quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự, thay đổi bồ sung quyết định khởi tố vụ án; kiểm sát việc giải quyết yêu cầu khởi tố vụ án của Tòa án và kiểm sát kháng nghị quyết định khởi tơ của Tịa án.

- Kiểm sát hoạt động bắt người trong trường hợp khẩn cấp, áp dụng biện pháp

<small>tạm giam, tạm giữ, khám xét.</small>

Kiểm sát việc tiếp nhận và xử lý tin báo, tô giác tội phạm và kiến nghị khởi to. Điều 103 BLTTHS năm 2003 đã quy định rõ ràng và đầy đủ nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKS và CQDT. Điều 10 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/OD-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân toi caoTrân Quốc Vượng đã ký) cũng đã quy định rat cụ thé van dé này. Theo đó, khi kiểm sát việc giải quyết tơ giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQDT, VKS tập trung kiểm sát các hoạt

<small>động sau:</small>

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vi kiểm sát điều tra phân công KSV tiếp nhận, quản ly day đủ tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan,

<small>tô chức và kiên nghị khởi tô do cơ quan Nhà nước chuyên dén.</small>

Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/08/2013 của Bộ công an, Bộ quốc phịng, Bộ tài chính, Bộ nơng nghiệp và phát triển nông thông, Viện kiếm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành quy định của BLHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Bộ đội Biên phòng,

<small>cơ quan Hải quan, Kiêm lâm, lực lượng cảnh sát biên và các cơ quan khác trong lực</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

lượng công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận được tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tô qua đơn thư; công văn kiến nghị hoặc nêu trên phương tiện thơng tin đại chúng thì phải tiếp nhận và vào số tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Nếu cá nhân trực tiếp đến tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tô chức trực tiếp đến báo tin về tội phạm thì lập biên bản tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Nếu cá nhân tố giác về tội phạm hoặc đại diện cơ quan, tô chức báo tin về tội phạm qua điện thoại, các phương tiện thơng tin khác thì phải tiếp nhận và ghi vào số tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, nếu là tin quan trọng hoặc thấy cần thiết thì có thể ghi âm, ghi hình. Trường hợp người phạm tội đến tự thú thì phải lập biên bản tiếp nhận người

<small>phạm tội ra tự thú.</small>

- Kiểm sát viên khi được giao nhiệm vụ tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm yêu cầu đầu tiên là phải đánh giá sơ bộ bước đầu về tính chất của tố giác, tin báo đó dé có

<small>phương pháp xử lý kip thời, đúng pháp luật.</small>

+ Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm có tính khan cấp và u cầu đặt ra là cần phải khám nghiệm hiện trường hoặc cần ngăn chặn ngay hành vi phạm tội thì Kiểm sát viên được phân công phải tiến hành sơ van người báo tin để nhanh chóng năm được thơng tin ban đầu, báo cáo ngay với lãnh đạo dé có biện pháp xử lý kịp thời và thông báo với Cơ quan điều tra cùng cấp dé phối hợp tổ chức bảo vệ hiện trường, tổ chức cấp cứu và lấy sinh cung (nếu nạn nhân sắp chết); truy bắt người thực hiện hành vi phạm tội (nếu xác định được ngay sau khi sự việc xảy ra) và tiến hành khám nghiệm

<small>đôi với các vụ việc thuộc thâm quyên...</small>

+ Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm do cơ quan, tô chức, cá nhân trực tiếp đến Viện kiểm sát cung cấp hoặc được gửi đến VKSND bằng đơn, thư, công văn thông qua bưu điện cũng như các tố giác, tin báo về tội phạm do VKS trực tiếp thu thập được thông qua các phương tiện thông tin đại chúng thì Kiểm sát viên phải vào số thụ lý; ghi rõ ngày, tháng, năm tiếp nhận; nội dung tố giác, tin báo về tội phạm, kiến

nghị khởi tố; tên, tudi và địa chỉ của người hoặc cơ quan, tơ chức cung cấp; sau đó tiến

hành phân tích đánh giá bước đầu về các thông tin, tài liệu đã thu thập được dé báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo đồng thời làm thủ tục chuyên cho CQDT có thắm

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

quyền dé tiến hành thâm tra, xác minh, đồng thời lập kế hoạch theo dõi, kiểm tra kết quả giải quyết của Cơ quan điều tra.

+ Đối với kiến nghị KTVAHS do co quan nhà nước chuyền đến thường kèm theo các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình kiém tra, thanh tra cùng với ban kết luận về hành vi vi phạm pháp luật có dau hiệu tội phạm (hồ sơ thanh tra, kiêm tra). Trong trường hợp này, Kiểm sát viên được phân công phải tiễn hành nghiên cứu, phân loại, đánh giá các tài liệu chứng cứ dé xác định có hay khơng có hành vi phạm tội xảy ra dé báo cáo với lãnh đạo. Nếu có căn cứ xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm thì Kiểm sát viên làm báo cáo băng văn bản đề nghị lãnh đạo ra quyết định chuyển toàn bộ hồ sơ cho CQDT và yêu cầu KTVAHS. Nếu qua nghiên cứu xác định chưa có đủ căn cứ đề khởi tố vụ án hình sự thì Kiểm sát viên báo cáo với lãnh đạo làm thủ tục chuyển hồ sơ, tài liệu cho CQDT để tiếp tục kiểm tra, xác minh thêm và giải quyết theo thâm quyên.

+ Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm xâm phạm các hoạt động tư pháp mà người thực hiện là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp thì sau khi tiếp nhận, Kiểm sát viên phải báo cáo với lãnh đạo để chuyển ngay đến Cục điều tra hình sự thuộc VKSND tối cao thẩm tra, xác minh và giải quyết theo thâm quyên.

- Kiểm sát viên được phân công kiểm sát chặt chẽ việc tiếp nhận và giải quyết của CQDT cùng cấp đối với các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

- Kiểm sát viên phải kiểm tra quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đảm bảo hoạt động của Cơ quan điều tra theo đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục và thời hạn giải quyết; nêu phát hiện có vi phạm pháp luật thì yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục kịp thời hoặc báo cáo lãnh đạo ra văn bản kiến nghị. Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 BLTTHS, trong thời hạn 20 ngày, ké từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin; néu xác định có dấu hiệu tội phạm xảy ra thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự; nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 BLTTHS thì ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự. Trong thời hạn 24 giờ, kê từ khi ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra phải gửi các quyết định đó kèm theo các tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát cùng

<small>cap dé tiên hành kiêm sát.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

- Hàng tuần, Kiểm sát viên yêu cầu CQDT cùng cấp thông báo đầy đủ cho VKS các t6 giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà Cơ quan điều tra đã tiếp nhận được; đồng thời phối hợp đề phân loại, xử lý kịp thời. Hiện nay, theo quy định tại điều 9 Thông tư liên tịch số 06/2013, sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, CQDT phải tiến hành phân loại, xác minh sơ bộ ban đầu. Nếu xác định thơng tin đó là tơ giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thuộc thâm quyền của cơ quan thì trong thời hạn 3 ngày làm việc, Thủ trưởng CQDT phải ra quyết định phân công giải quyết tô giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản đến VKS cùng cap để kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật. Đối với tô giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sau khi tiếp nhận đã rõ về dấu hiệu tội phạm thì CQDT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định tại khoản 3 Điều 104 BLTTHS năm 2003. Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý mà tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thuộc quyền hạn điều tra của

cơ quan mình thì khẩn trương tiến hành kiểm tra, xác minh, quyết định khởi tố hoặc

không khởi tố vụ án hình sự; đồng thời, phải thơng báo ngay bằng văn bản cho VKS có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của cơ quan

Hàng tháng, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS cấp huyện, Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với Cơ quan điều tra cùng cấp nắm số lượng, kết quả giải quyết các tô giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận; nếu phát hiện có tơ giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tô chưa được giải quyết theo thời hạn luật định thì yêu cầu Cơ quan điều tra nêu rõ lý do, hướng giải

quyết và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố

<small>tụng hình sự năm 2003.</small>

- Kiểm sát viên cần căn cứ vào quy định tại tiết c, điểm 7 Mục I Thông tư liên tịch số 01/2005 dé tiến hành hoạt động kiểm sát. Theo đó, “Co quan Cơng an có trách nhiệm thống kê kết quả tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm từ kết quả xử lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

những vụ vi phạm thuộc thẩm quyền xử ly của mình và chuyền kết quả tổng hợp thống

kê sang Viện kiểm sát cùng cấp, sau khi loại thống kê này được thực hiện”.

Trên cơ sở kết quả của quá trình kiểm tra, xác minh các tố giác, tin báo về tội phạm đã thụ lý, CQDT sẽ ra quyết định khởi tố hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án

<small>hình sự.</small>

Kiểm sát quyết định khởi tổ và quyết định không khỏi tơ vụ án hình sự, quyết định thay doi, bỗ sung quyết định khởi tơ vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết yêu

<small>cau khởi tô vụ an của Hội dong xét xử.</small>

Hoạt động kiểm sát việc khởi tổ của VKS bao gồm hai nội dung là kiểm tra có tính căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tô và quyết định không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thâm quyền. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định vấn đề này cụ thê tại Điều 109 BLTTHS năm 2003.

Tính có căn cứ của các quyết định tố tụng là một nội dung cơ bản mà hoạt động kiểm sát khởi tố hướng tới. Thông qua hoạt động kiểm sát việc khởi tố nếu xét thay quyết định khởi tố hoặc quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự của CQDT khơng có căn cứ thì VKS có quyền quyết định hủy bỏ các quyết định nói trên.

Nội dung quan trọng thứ hai mà VKS cân phải xem xét khi thực hiện chức năng kiểm sát việc khởi tố là thâm quyền ra quyết định KTVAHS; quyết định không KTVAHS, nội dung và hình thức của quyết định đó đã đúng theo quy định của BLTTHS chưa... Nếu qua kiểm sát phát hiện có những vi phạm về thâm quyền ra quyết định KTVAHS thì yêu cầu cơ quan ra quyết định đó có biện pháp khắc phục.

Thứ nhất: Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự; việc thay đổi hoặc bổ sung

quyết định khởi tô vụ án hình sự;

- Trong thời hạn ba ngày làm việc, ké từ khi nhận được quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra hoặc cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh dao đơn vi kiểm sát điều tra cử Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án dé

<small>xem xét, xử lý.</small>

- Kiểm sát viên phải nghiên cứu các tài liệu dùng làm căn cứ dé khởi tố vụ án

<small>hình sự, bao gơm: Các tô giác, tin báo vê tội phạm, kiên nghị khởi tô và các tài liệu</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

kèm theo do cơ quan, tô chức, cá nhân cung cấp; các tài liệu kiểm tra, xác minh tố

giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra; biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét... cùng các tài liệu, dấu vét, tang vật đã được phát hiện thu giữ (đối với các vụ án có khám nghiệm hiện trường); đơn yêu cầu khởi tố của người bị hại

<small>hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có</small>

nhược điểm về thé chất hoặc tâm thần theo quy định tại Điều 105 BLTTHS; biên bản và kết quả giám định dấu vết, tang vật như dấu vết máu, dấu vết súng đạn, dấu vết đường vân; chất ma túy...; biên bản và kết quả giám định thương tật; biên bản và kết

<small>quả định giá tài sản; biên bản ghi lời khai của người bị hại, người làm chứng...</small>

- Đối với các vụ án khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Kiểm sát viên phải nghiên cứu, xem xét quyết định khởi tố và các tài liệu có liên quan để xác định việc khởi tố vụ án hình sự có thuộc các trường hợp được quy định tại Điều 105 BLTTHS

<small>hay khơng?</small>

Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố thì Kiểm sát viên được cử phải báo cáo kết quả nghiên cứu với Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra dé xem xét xử lý kịp thời.

Thứ hai: Doi với quyết định khởi to vụ án và yêu câu khởi tô của HĐXX.

Điều 108 BLTTHS năm 2003 quy định vấn đề này so với quy định tại điều 87 BLTTHS năm 1998 có những thay đổi, trong đó quy định thay thé “Toda án” bằng “Hội đồng xét xử” và bổ sung quy định: “Yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố” như vậy theo quy định mới thì HDXX có thẩm qun tự mình khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi tố. Điều

<small>này đã tạo ra sự linh hoạt cho HĐXX có hai phương án xử lý khi thông qua xét xửphát hiện được sự việc có dâu hiệu tội phạm.</small>

Sau khi kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố, yêu cầu khởi tố của HĐXX, nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự có căn cứ hay khơng có căn cứ pháp luật thì giải quyết theo quy định tại Điều 109 BLTTHS năm 2003, khoản 4 Điều 11 và khoản 2 Điều 12 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/OD-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân toi cao Tran Quốc Vượng đã ký).

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Thời hạn để thực hiện các hoạt động này cũng là ba ngày làm việc kê từ khi nhận

<small>được các quyét định khởi tô vu án hoặc yêu câu khởi tô.</small>

Thực hiện hoạt động kiểm sát việc khởi tố, VKS sẽ loại trừ ngay từ đầu các vi phạm của CQDT và yêu cầu khắc phục kịp thời dé hạn chế việc khởi tố tràn lan khơng có căn cứ rồi sau đó phải đình chỉ điều tra hoặc khơng khởi tố vụ án khơng có căn cứ dẫn đến bỏ lọt tội phạm.

Thư ba: Đối với quyết định khơng khởi to vụ án hình sự:

BLTTHS năm 2003 đã quy định tại Điều 108 như sau: “Quyết định không khởi tổ vụ án hình sự, quyết định huy bỏ quyết định khởi tơ vụ án hình sự và các tài liệu liên quan phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giò, kể từ khi ra quyết định... ”. Day là một tiễn bọ rõ nét so với quy định tại BLTTHS năm 1998. Theo đó, BLTTHS năm 1988 quy định khơng rõ ràng cơ sở pháp ly để VKS thực hiện chức năng kiểm sát quyết định khơng khởi t6 vụ án hình sự của CQDT. Dẫn đến tinh trạng việc nhận thức và áp dụng pháp luật không thống nhất giữa cơ quan tiễn hành tố tụng, CQDT xuất phát từ nhận thức cho rang chỉ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì CQDT mới phải gửi quyết định đó cho VKS theo quy định tại khoản 3 Điều 87 BLTTHS năm 1998 là “ Trong thời hạn 24 giờ quyết định khởi tổ vụ án hình sự của COPT... được gửi đến Viện kiểm sát dé kiểm sát việc khởi tố ”.

Qua hoạt động kiểm sát, nếu thấy quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự của co

quan đã khởi tố có căn cứ thì thơng báo cho các cơ quan đó biết; nếu chưa có căn cứ thì yêu cầu cơ quan này bổ sung tài liệu, chứng cứ dé làm rõ. Sao khi xem xét, kiểm

<small>tra tính có căn cứ và hợp pháp hoặc khơng có căn cứ KTVAHS của CQDT thì xử lý</small>

theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Quy chế công tác thực hành quyền công tố và kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/OD-VKSTC ngày 02/01/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Tran Quốc Vượng đã ky).

Cũng theo đó thì thời hạn dé thực hiện các hoạt động này là ba ngày làm việc kê từ khi nhận được các quyết định của CQDT hoặc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và một số hoạt

<small>động khác.</small>

Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi là những hoạt động điều tra nhằm xem xét, phát hiện và ghi nhận các dấu vết của tội phạm, thu thập vật chứng và làm sáng

<small>tỏ các tình tiệt liên quan đên vụ án trên hiện trường vụ án.</small>

Là những hoạt động điều tra nhưng rất nhiều trường hợp các hoạt động này được tiến hành trước khi khởi tố, bởi vì qua kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi mới lay được co sở làm căn cứ xác định dấu hiệu của tội phạm dé quyét định khởi tố vụ án hình sự.

Với tính chất quan trọng của các hoạt động trên, pháp luật tố tụng hình sự quy định kha cụ thé về trình tự, thủ tục khám nghiệm, trong đó có quy định sự bắt buộc tham gia của VKS, theo Khoản 2 Điều 125 và Điều 126 BLTTHS năm 1988 quy định: “Khám nghiệm hiện trường có thể tiễn hành trước khi khởi to vụ án hình sự. Trước khi

<small>tiên hành khám nghiệm, điêu tra viên phải báo cho Viện kiêm sát cùng cap biết... `”.</small>

<small>“Trong mọi trường hop, việc khám nghiệm tử thi phải được bao trước cho Việnkiêm sat cùng cap biết... ”</small>

Khoản 2 Điều 150 và Điều 151 BLTTHS năm 2003 cũng quy định nội dung tương tự như vậy nhưng chặt chẽ hơn đó là Kiểm sát viên phải có mặt dé kiểm sát việc

<small>khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi.</small>

VKS thực hiện hoạt động kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, tử thi bảo đảm hoạt động này được tiến hành khách quan, toàn diện, đúng pháp luật và nắm rõ được các tình tiến liên quan đến vụ án ngay từ ban đầu khi tội phạm xảy ra để làm cơ sở cho hoạt động kiểm sát tiếp theo như kiểm sát khởi tố vụ án, kiểm sát khởi tố bị can...

Bên cạnh đó, trước khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, ngồi hoạt động

khám nghiệm hiện trường, tử thi cịn có một số hoạt động khác được tiến hành như

bắt khan cấp, tạm giữ, khám xét. Việc kiểm sát thực hiện việc kiểm sát chặt chẽ tính có

căn cứ và hợp pháp của các hoạt động trên kịp thời phát hiện vi phạm và yêu cầu CQDT khắc phục, nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được

<small>pháp luật bảo vệ không bị xâm hại.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

2.2. Quy định về trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án

<small>hình sự</small>

Theo quy định tại Điều 36, 37 BLTTHS năm 2003, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát và Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình. Theo Điều 5 Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 03/2002/PL-UBTVQHII ngày 04/10/2002 về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dan, trước pháp luật, tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà Kiểm sát viên có thé bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các hình thức kỷ luật có thể được áp dụng đối với Kiểm sát viên theo luật Cán bộ, công chức năm 2008 là: a) Khién trách; b) Cảnh

<small>cáo; c) Hạ bậc lương: d) Giáng chức; đ) Cách chức; e) Buộc thơi việc. Viện trưởng, Phó</small>

viện trưởng VKS với tư cách là các Kiểm sát viên giữ chức vụ lãnh đạo đều có thê bị áp dụng các hình thức kỷ luật nêu trên. Bên cạnh đó, theo Điều 37 BLTTHS năm 2003 Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng Viện kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình. Trước viện trưởng, Kiểm sát viên có mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới; giữa người phân công nhiệm vụ và người được phân công nhiệm vụ. Những hành vi vi phạm của Kiểm sát viên có thể là: khơng nhận nhiệm vụ được phân

<small>công; tuân thủ không đúng hoặc làm quá so với nhiệm vụ được phân cơng... Nói như</small>

vậy khơng có nghĩa là Kiểm sát viên phải tuân thủ cấp trên một cách tuyệt đối. Trong trường hợp việc phân công nhiệm vụ của Viện trưởng là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối và nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì Kiểm sát viên phải chấp hành, nhưng Viện trưởng phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; trong trường hợp này Kiểm sát viên có quyền báo cáo lên Viện trưởng cấp trên trực tiếp và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó.

Trong BLHS năm 1999 (sửa đổi bố sung năm 2009) thi trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, Kiểm sát viên, Kiểm sát viên giữ chức vụ Viện trưởng, Phó viện trưởng có thé là một trong những chủ thé của nhóm tội xâm phạm các hoạt động tư pháp như: Tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật (Điều 297); Tội ra quyết định trái pháp luật (Điều 296); “Tội dùng nhục hình” (Điều 298); “Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án” (Điều 300)... Các hành vi vi phạm pháp luật hình sự có thê là: làm sai lệch hồ sơ vụ án; ra các quyết định t6 tụng trái pháp luật; Tội tha trái pháp luật người đang bị giam, giữ (Điều 302)...

</div>

×