Tải bản đầy đủ (.pdf) (336 trang)

Giáo trình thiết kế đồ gia dụng / Nguyễn Thị Bích Liễu (Chủ biên)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.73 MB, 336 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIAO DUC VÀ DAO TẠO TRUONG ĐẠI HOC MG HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Thư viện Trường Đại học Mở Hà Nội

<small>(Hình ảnh trang bìa: Thiết kế Ghế cá ngựa, năm 2019, sinh viên Lê Hữu Thắng, K24NT, khoa Tạo dángCông nghiệp, Trường Đại học Mở Hà Nội)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO. TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

LỜI GIỚI THIỆU

Không gian nội thất là một loại hình nghệ thuật nhằm tổ chức mơi trường thâm mỹ nơi ăn ở, lao động, sinh hoạt... đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người trong xã hội, lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa. Như vậy, ngành nội thất đóng một vai trị hình thành nếp sống, phong cách của mỗi quốc gia, mỗi tập đoàn người

<small>trong xã hội.</small>

Trong quá trình xây dựng, phát triển và đổi mới đất nước các ngành nghề phải thay đổi dé bắt kịp những thông tin mới trong đời sống xã hội. Đồ gia dụng (nội thất) cũng nằm trong quy luật chung này, đã qua thời kỳ mà đồ chỉ phục vụ một mục đích. Ngày nay, con người khơng chỉ quan tâm đến đồ nội thất trong không gian của họ mà còn quan tâm đến mối quan hệ giữa tiến bộ khoa học, kỹ thuật, nhân trắc học, an toàn khi sử dụng trang thiết bị cách chúng tương tác với nhau trong không gian nội thất đáp ứng nhu cầu đời sống mới.

Giáo trình “Thiét kế dé gia dụng” là giáo trình dành cho sinh viên nội thất cung cấp kiến thức bắt đầu chuyên sâu về đồ gia dụng (sử dụng trong không gian nội thất), giới thiệu và trình bày thơng tin một cách tơng quan vệ van dé đồ nội thất

<small>Mg 2 8</small>

<small>thiệt kê chung đên</small>

từ đặc điểm, loại hình, phan lo.

từng loại dé nội thất va vật liệu phé thông cụ thể kèm các ví dụ tốt dé minh họa,

rõ hơn về méi quan hệ giữa các ngành nghề, cách tương tác với nhau, và cách chúng tương hỗ với không gian nội thất. Sinh viên sẽ có đủ kiến thức về phương pháp và phương pháp luận dé phục vụ thiết kế đồ gia dụng trong không gian nội thất đảm bảo được tính “cơ bản, hiên đại, mang cốt cách 'Việt Nam”.

Nội dung giáo trình đã cố gắng cung cấp cho sinh viên một cách hệ thống chủ yếu quá trình hình thành và các giai đoạn phát triển của đồ nội thất theo chiều dài của lịch sử văn minh nhân loại, cách tiếp cận công thái học những kiến thức thành tựu chung của khoa học kỹ thuật và cơng nghệ thế giới với tính chính xác, tác

giả đã đan xen các kinh nghiệm, cách xử lí truyền thống đáp ứng điều kiện và yêu

cầu đặc thù Việt Nam, để trang bị cho sinh viên thêm các kiến thức thực tế rất cần trong sáng tác thiết kế đồ gia dụng - nghề sáng tạo nghệ thuật để sinh viên có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội trong lĩnh vực nghệ thuật và văn hóa.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Chúng tơi mong rằng nội dung mới, giáo trình dé cập đến quy trình thiết kế đồ nội that, giới thiệu một số thiết kế đồ nội thất của sinh viên khoa Tạo dáng Công nghiệp, trường Đại học Mở Hà Nội, sẽ mang lại nhiều lợi ích, phục vụ cho thày giáo, sinh viên ngành nội thất và các bạn quan tâm yêu thích ngành nội thất.

<small>Hà Nội, tháng 12 năm 2021</small>

PGS.TS. GVCC Nguyễn Lan Hương

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

LỜI TỰA

Từ khi con người tồn tại, đã dần tìm kiếm và chế tác đồ đạc để phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Từ đó, đồ nội thất đã ra đời. Đồ nội thất là đồ vật có thể được di chuyển và phục vụ cho các hoạt động khác nhau của con người. Chúng có nhiều

chức năng theo các hoạt động như: ngồi, ngủ, ăn, thư giãn... Nhiều đồ nội thất được

sử dụng để trưng bày các đồ vật khác nhau, hoặc trở thành một phương tiện để con người lưu trữ. Bên cạnh mục đích phục vụ cho cuộc sóng hàng ngày của con người, đồ nội thất cịn có mục đích chính là để trang trí.

Theo sự phát triển của xã hội, đã qua thời mà đồ đạc chỉ phục vụ một mục đích cụ thể: ví như, ghế làm ra chỉ để ngồi, bàn chỉ để ăn, giường để ngủ... Giờ đây, nhiều người không chỉ quan tâm đến đồ nội thất trong khơng gian của họ mà cịn quan tâm đến cách chúng tương tác với nhau, và cách chúng tương hỗ với không gian nội thất. Ngày nay, việc lựa chọn đồ nội thất đẹp đê trang trí, dé ngắm nhìn, dé thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt của con người càng trở nên quan trọng hơn. Do đó, cơng việc thiết kế đồ nội thất ngày nay trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Cuốn giáo trình Thiét kế đồ gia dung ci én soạn với mục đích giới thiệu

và trình bày théng!tin WG lcáchifơi# quan! về) Vấn đã (đổ nội lhất, Giáo trình giới

thiệu quá trình hình thành và các giai đoạn phát triển của đồ nội thất theo chiều dài của lịch sử văn minh nhân loại; nêu đặc điểm và đưa ra cách phân loại đồ nội thất;

<small>i thất và</small>

cách tiếp cận công thái học với các yêu cầu nhân trắc học trong thiết kế

an toàn khi sử dụng trang thiết bị nội thất; giới thiệu mộ nguyên lý cơ bản; vật

liệu sử dụng trong việc thiết kế đồ nội thất; cung cấp một số điểm cần lưu ý trong việc thiết kế và sản xuất đồ nội thất hiện nay. Ngoài ra, giáo trình dé cập đến quy trình thiết kế đồ nội thất; tiêu chuẩn dé đánh giá một thiết kế nội thất thành công; và giới thiệu một số thiết

<small>trường Đại học Mở Hà</small>

lồ nội thất của sinh viên khoa Tạo dáng Công nghiệp, Để làm sáng tỏ các vấn đề trên một cách rõ ràng, mạch lạc, giáo trình được biên soạn và phân bổ gồm 6 chương, 3 phụ lục, cụ thê như sau:

Chương 1. ĐỎ NOI THAT VA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIÊN Chương 2. ĐẶC ĐIÊM VÀ PHÂN LOẠI ĐỎ NỘI THÁT Chương 3. CÔNG THÁI HỌC TRONG THIET KE DO NỘI THAT Chương 4. NGUYEN LY THIẾT KE DO NỘI THAT

Chuong 5. VAT LIEU TRONG THIET KE DO NOI THAT

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Chương 6. MOT SO LƯU Ý TRONG THIET KE, SAN XUẤT ĐỎ NỘI THAT

Phụ lục 1. Quy trình thiết kế đồ nội that Phụ lục 2. Tiêu chuẩn đánh giá thiết kế

Phụ lục 3. Bài thiết kế của sinh viên khoa Tạo dáng Công nghiệp, Trường

<small>Đại học Mở Hà Nội.</small>

Trong quá trình biên soạn giáo trình, tác giả đã có nhiều cố găng nhưng khơng tránh khỏi thiếu sót. Tác giả biên soạn rất mong nhận được những ý kiến góp ý của Quý vị dé giáo trình được hồn thiện hơn./.

<small>Trân trọng cảm on!</small>

<small>Tác gia</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

LỜI GIỚI THIỆU. LỜI TỰA sỹ

DANH SÁCH CHU VIET TAT. DANH SÁCH SO DO

DANH SACH BANG

CHƯƠNG 1. DO NOI THAT VA QUÁ TRINH PHAT TRIEN

<small>Muc tiéu</small>

1.2. Khái niệm đồ nội that và thiệt kê đồ nội that 1.3. Quá trình phát triển của đồ nội thất...

1.3.1. Đồ nội that thời kỳ cô đại 1.3.2. Đồ nội thất thời kỳ Trung c‹ 1.3.3. Đỗ nội thất thời kỳ Phục Hưng. 1.3.4. Đồ nội that thé kỷ XVI, XVIII 1.3.5. Đồ nội thất thời kỳ cỗ điền...

1.3.6. Đồ nội that thời quân chủ chuyên chế Phái

<small>Tài liệu đọc thêm chương 1...</small>

CHƯƠNG 2. ĐẶC DIEM VA PHAN LOẠI ĐỎ NỘI THAT 2.3. Đặc tính và cấu tạo của các dạng DNT..

2.3.1. Đặc tính và cấu tạo của DNT dang tủ

2.3.2. Đặc tinh và câu tạo của DNT có cấu trúc khung xương 2.3.3. Đặc tính và cấu tao của DNT dạng bo

<small>Câu hỏi.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>Tài liệu đọc thêm chương 2</small>

CHƯƠNG 3. CÔNG THÁI HỌC.. TRONG THIET KE DO NỘI THAT

<small>Mục tiêu3.1. Giới thiệu</small>

<small>3.1.1. Lược sử công thái học</small>

<small>3.1.2. Lĩnh vực nghiên cứu của công thái học .3.1.3. Phân ngành công thái học</small>

3.1.4. Ứng dụng của công thái học. 3.2. Một số yêu cầu thiết kế cơ bản

3.2.1. Yêu cầu thâm mỹ.... 3.2.2. Yêu cầu về chức năng ... 3.2.3. Yêu cầu về cấu trúc và công nghệ 3.2.4. Yêu cầu về kỹ thuật và kinh tế . 3.3. Nhân trắc học trong thiết kế DNT

3.3.1. Các phép đo nhân trắc học của con ngư 3.3.2. Yêu cầu nhân trắc học trong ĐNT văn phòng. 3.3.3. Yêu cầu nhân trắc học trong DNT trường học..

3.3.4. Yêu cầu nhân trắc học trong DNT khu bếp...

3.3.5. Yêu cầu nhân trắc hộc,với.ÐNT)đề ngôi và thu gig 3.3.6. Yêu cầu nhân trắc học đối với ĐNT đề nam...

4.2.2. Thay đổi màu bằng chất màu, bằng ánh sáng 4.2.3. Ảnh hưởng của những màu cạnh nhau

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

CHƯƠNG 5. VAT LIEU TRONG THIET KE ĐỎ NỘI THAT.... <small>5.8. Quy trình và kỹ thuật thực hiện một sơ hình thức trang trí ĐNT....</small>

5.9. Mối nối trong đơ nội tha

5.10. Vật liệu tai chế trong sản xuât đồ nội tl

<small>5.10.1. Vật liệu tái chê</small>

<small>5.10.2. Nghệ thuật trong công nghệ tái ch:</small>

<small>Tài liệu đọc thêm chương.</small>

CHƯƠNG 6. MỘT SÓ LƯU Ý TRONG THIẾT KÉ SAN XUẤT DO NỘI THAT

<small>Muc tiéu</small>

<small>6.1. Thông tin chung</small>

6.2. Quy trinh thié

6.3. Phương án thiết kế và dự toán chi phi 6.4. Một số lỗi thường gặp của sản phẩm.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>Tài liệu đọc thêm chương.</small>

TÀI LIỆU THAM KHẢO

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Sự phân chia DNT theo công nghệ sản xuất Sự phân chia ĐNT về chất lượng

Công thái học - mối liên hệ giữa con người và môi trường

<small>xung quanh</small>

Các yêu cầu đối với DNT trong quá trình thiết kế

Các yêu cầu về kinh tế với việc tạo ra một thiết kế mới của

Các thành phần cần có sự phối kết hợp trong việc thiết kế nội thất trường học hiện nay

Các nhóm thơng số quan trọng nhất ảnh hưởng đến thiết kế tối ưu của nội thất trường học

a - Khu vực chức năng, b - Dây chuyên thiết bị, chức năng

Các giai đoạn và phương pháp thiết ké, thi cơng nội thất Quy trình thiết kế, sản xuất ĐNT

<small>Độ chính xác của dự tốn tùy thuộc vào mức độ phát triên</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

DANH SÁCH BẢNG

Bảng 3.1 Nguyên liệu thô thường được sử dụng trong thiết kế ĐNT 120 Bảng 3.2 Thông số kích thước mặt cắt của ghế bành dành cho người 156

khỏe mạnh và người bị rối loạn cột sống

Bảng 3.3 Thơng số góc nghiêng của ghế bành và ghế sofa cho một số 156

<small>vị trí sử dụng khác nhau.</small>

Thư viện Trường Đại học Mở Hà Nội

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

CHƯƠNG 1. DO NOI THAT VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIEN

<small>Mục tiêu</small>

Nội dung của chương 1 giới thiệu về đồ nội thất, quá trình hình thành và phát triển của đồ nội thất. Cung cấp tới người đọc các thông tin tổng quan về sự phát triển của đồ nội thất qua các thời kỳ trong diễn trình phát triển của lịch sử

<small>nhân loại.</small>

1.1. Giới thiệu

Đồ nội thất (PNT) được cho là một trong những bộ phận quan trọng nhất của không gian nội thất. Sản phẩm PNT không chỉ tăng thêm chức năng và tính thiết

<small>thực cho khơng gian, mà chúng cịn phản ánh phong cách và cá tính của khơng gian</small>

nội thất, của người sử dụng. ĐNT đã phát triển và thay đổi theo thời gian, ngày nay, việc tạo ra những thiết kế, những xu hướng nội thất mới được xem là một loại hình

<small>nghệ thuật cơng nghiệp.</small>

Bước đi đầu tiên

Từ thủa bình minh xa xưa của nền văn mỉnh nhân loại, khi thuật ngữ DNT chưa được biết đến, lúc này con người theo một cách hoàn toàn tự nhiên đã tìm nhiều cách dé khiến cho các sinh hoạt trong cuộc sống được thuận tiện và dễ đàng. Họ tận dụng những thứ do, tựi nhién, ie ‘ay nhự lấy lây làm chỗ ngồi; lấy đá phẳng, nhãn dùng làm bệ dé thực hiện các công việc thông thường hàng ngày; lấy rong rêu, lá cây, da động vật làm chỗ ngủ... Như vậy, có thẻ thấy rằng, cách sử dụng các vat thể có trong tự nhiên dé làm PNT thơ sơ có từ thời sơ khai của nền văn minh nhân loại. Đến giai đoạn có sự phân cơng lao động, những người thợ thủ công lành nghề bắt đầu phát triển ngành nghề sản xuất các mặt hàng như đồ trang SỨC, đồ gồm và DNT. Càng về sau, từ kết quả của các hoạt động sáng tạo phục vụ nhu cầu cuộc sống hàng ngày của con người, một số PNT đã được tạo ra, thay thé cho các đồ vật tự phát trước đó.

Dù nhiều tác phẩm nghệ thuật cổ đại như đồ gốm và dé trang sức vẫn còn tồn tại từ những nền văn minh sớm nhất, nhưng ĐNT cổ đại chủ yếu bằng gỗ đã bị mục nát. Những gì mà chúng ta biết về DNT cơ đại chủ yếu được lấy từ những cảnh được mô tả trong các loại hình nghệ thuật sơ khai, chẳng hạn như trong đồ trang trí bằng gốm và các bức bích họa. Có lẽ ĐNT sớm nhất cịn tồn tại được tìm thấy tại Catal Huyuk ở Thổ Nhĩ Kỳ có niên đại khoảng 3000 năm TCN.

Có nhiều nghiên cứu nhận định các cơng trình kiến trúc, nội thất cịn lại từ triều đại đầu tiên Ai Cập cổ đại được coi là khởi đầu của lịch sử ĐNT (những năm

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

khoảng 3100 - 2890 TCN)!. Cũng có bằng chứng cho thấy ĐNT được con người làm ra và sử dụng vào cuối thời kỳ đồ đá cũ”, đầu thời kỳ đồ đá mới”.

Trong lịch sử DNT, vật liệu được sử dung phd biến nhất để sản xuất ĐNT là gỗ. Tuy nhiên, các phát hiện khảo cổ học đã chỉ ra rằng ở thảo nguyên và những nơi

<small>lạnh giá, vật liệu đá, kim loại và xương động vật, đặc biệt là xương voi ma mút,</small>

cũng đã được sử dụng dé làm PNT. Những ngôi nhà đầu tiên được xây dựng hau hết từ xương voi ma mút ở Moravia‘, KostyonkiŸ, khoảng 18 nghìn - 17 nghìn năm TCN”.

Ngoài ra, DNT bằng đá độc đáo đã được khai quật ở Skara Brae - một ngôi làng thời kỳ đồ đá mới ở vùng Orkney, Scotland. Địa điểm này có niên đại từ năm 3100 - 2500 TCN. Con người sử dụng chủ yếu vật liệu có sẵn là đá dé làm DNT dùng trong nhà. Vì ở vùng này thời kỳ đó, độ che phủ của rừng thấp, do đó nguồn tài ngun gỗ ít, gỗ được sử dụng làm chất đốt nhiều hơn là nguyên liệu để làm ĐNT. Bên trong, những ngôi nhà được trang bị DNT bằng đá, từ tủ, giường đến kệ, ghế đá (hình 1.1). Trong đó, tủ bằng đá được coi là quan trọng nhất vì nó tượng trưng cho lối ra vào trong mỗi ngơi nhà, và đó là vật dụng đầu tiên được nhìn thấy khi bước vào nhà. Tủ đá này có thé được dùng dé trưng bày các dé vật quan trọng

<small>' Setkowiez J, 1969.</small>

<small>Thời dai đồ đá cũ: La giai đoạn đầu của thời đại đồ đá trong thời tiền sử, được phâncủa các công cụ đá. Về cơ bản, nó chiếm gin như tồn bộ lich sử loài người trên Trái2,5 triệu năm trước.</small>

<small>*Thời kỳ đồ đá mới: Là một giai đoạn của thời đại đồ đá trong lịch sử phát triển cơng nghệ của lồi người, bắtđầu từ khoảng năm 10.200 TCN ở một vài nơi thuộc Trung Đơng, và sau đó ở các nơi khác trên thế giới, kếtthúc giữa 4500 va 2000 TCN.</small>

<small>* Moravia: Là một vùng thuộc nước Cộng hòa Séc, hiện nằm ở phía đơng nam và chiếm khoảng một phần badiện tích của Cộng hịa Séc ngày nay.</small>

<small>một vùng thuộc nước Nga, noi đây được biết đến là địa điểm khảo cỏ, tập trung nhiều di tíchđồ đá cũ của nhân loại.</small>

<small>© Svoboda, 2004</small>

<small>bang sự phát triển, bat đầu từ khoảng</small>

<small>at</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Hình 1.1. ĐNT bằng đá trong nhà, tại ngôi làng thời kỳ đô đá mới ở Skara Brae, Scotland: (a) tt đá, (b) giường đá (Nguôn ảnh: Furniture Design)

Hình thức của các ĐNT có sự thay đổi từ đơn giản đến phức tạp, tùy thuộc vào thời kỳ mà chúng được sản xuất. Nhiều DNT lâu đời của con người đã được bảo quản và được trưng bày trong các bảo tàng trên thế giới. Những ĐNT đó có thể thuộc vùng Lưỡng Hà trước đây, hay PNT trong các cung điện thời cô đại, hoặc các bộ phận nguyên bản của DNT Ai Cập cô đại mạ vàng được chôn cùng với xác ướp

<small>của các Pharaoh trong các kim tự tháp ở sa mạc.</small>

Phong cách và hình thức của DNT phát triển nhanh hơn so với các hình thức kiến trúc hàng ngày, nó phản ánh những ý tưởng mới và giải pháp sáng tạo của các nhà thiết kế trong quá khứ. Trong nhiều PNT từ xa xưa có thể nhận thấy những cầu trúc DNT đó vẫn nguyên vẹn và t6n tại vượt thời gian. Chang hạn ghế được làm bởi những người thợ Ai Cập cổ đại vào khoảng năm 2800 TCN có hình thức và chức năng sử dụng giống như ghế ngồi hàng ngày của người dân vùng Yamsakoski, Phần

<small>Lan vào khoảng năm 1930 (hình 1.2).(a)</small>

Hình 1.2. Sự giống nhau về cấu trúc PNT (a) Ghế từ thời Ai Cập, khoảng năm 2800 TCN (Bảo tang Anh) (b) Ghế của người dân Phan Lan, khoảng năm 1930 (Bảo tang Di sản Jämsãnkoskj)

(Ngn ảnh: Furniture Design)

Qua q trình phát triển của lịch sử nhân loại, đồ vật do con người tạo ra phục vụ nhu cầu cuộc sống ngày càng nhiều hơn, ngày càng đa dạng và phong phú, đáp ứng sở thích của con người trong xã hội. Thiết kế cơ bản của một số DNT không thay đổi, nhưng chất liệu và kỹ thuật được phát triển, tập trung nhiều hơn vào

sự thoải mái, sang trọng phục vụ cuộc sống. hiện đại của con người. Ghế đã được

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

thiết kế không chỉ là một nơi dé ngồi, mà còn là một nơi dé thư giãn với tiết diện tựa lưng nhiều hơn, và có thể có tính năng bập bênh... Giường được thiết kế để giúp con người thoải mái khi ngủ... Dần dan, sự thay đổi thiết kế trong PNT đã cho thay sự phát triển của xã hội con người, từ sự tồn tại đơn thuần sang cuộc sống sang trong và thưởng ngoạn. Đến giữa thế ky XX, với những vật liệu tổng hợp mới, với kỹ thuật chế tạo tiên tiến, có sự đột phá mới, từ đó bắt đầu có dầu hiệu của sự thay đổi và phát triển trong quan điểm về thiết kế và sản xuất DNT.

<small>i, DNT đã</small>

hiện đại, và phong phú, đa dạng hơn rat nhiều. DNT hiện nay đã thỏa mãn day đủ cả Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của cuộc sống, của xã

về mặt công năng sử dụng và sự sáng tạo khơng ngừng cả về mặt hình thức thảm mỹ, đáp ứng cho mọi không gian và mọi nhu cầu sử dụng của con người.

1.2. Khái niệm đồ nội thất và thiết kế đồ nội thất Đồ nội that

DNT dé cập đến các đồ vật có thé di chuyển được nhằm hỗ trợ các hoạt động khác nhau của con người như: ngồi (ghế, ghế đâu, ghế sofa), ăn (bàn, ghế) và ngủ (giường), hoặc để giữ đồ vật ở độ cao thuận tiện cho con người (chẳng hạn như bàn va bàn làm việc), hoặc để chứa dé vật (tủ, kệ). ĐNT có thé là một sản phẩm của thiết kế và được coi là một hình thức nghệ thuật trang trí. Ngồi vai trị chức năng

<small>của ĐNT, nó cịn phục vụ cho mục dich trang trí, biêu tượng, va tôn giáo. DNT</small>

được làm từ nhiều vật liệu, bao gồm gỗ. kim loại, nhựa...

Đồ nội thất là đồ dùng trong nhà. Sản phâm nội thất có nguồn gốc là đồ gia dụng, tiếng Anh là Furniture, xuất phát từ tiếng Pháp Fourniture (thiết bị).

Nghĩa rộng: Sản phẩm nội thất là đồ dùng trong nội thất không thể thiếu giúp con người đảm bảo các sinh hoạt hàng ngày, mở rộng hoạt động xã hội và thực tiễn sản xuất.

Nghĩa hẹp: Sản phẩm nội thất là dé dùng và thiết bị để ngồi, dé nằm, dé cất

và đựng đồ, để trang trí, dùng phục vụ trong sinh hoạt, làm việc, hoạt động xã hội

của con người”.

Thiết kế đồ nội thất

Qua quá trình nghiên cứu và thực tiễn làm việc, tác giả giáo trình đưa ra nhận định về thiết kế đồ

động sáng tạo của người thiết kế, chuỗi hoạt động đó gồm nhiều giai đoạn, nhiều

bước khác nhau, từ nghiên cứu sản phẩm, nghiên cứu. đối tượng sử dụng - nhu cầu

của người sử dụng, nghiên cứu ý tưởng, biểu tượng thiết kế, nghiên cứu không gian

<small>7 Nguyễn Thị Hương Giang, Lý Tuấn Trường, 2017</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

đặt sản phẩm nội thất và nghiên cứu vật liệu, giá thành, chi phí sản xuất cho dé nội thất. Chuỗi h

sản phẩm cuối cùng là một sản phẩm nội thất hoàn chỉnh, thảo mãn nhu cầu của + động này được thé hiện dưới dạng các bản vẽ của nhà thiết kế và

<small>người sử dụng.</small>

1.3. Quá trình phát triển của đồ nội thất 1.3.1. Đồ nội thất thời kỳ cỗ đại

1.3.1.1. Đồ nội thất thời kỳ Ai Cập cổ đại

Nền văn minh ở Ai Cập cỏ đại bat đầu với việc khai khẩn đất và hệ thống tưới tiêu dọc theo bờ sông Nile, bắt đầu vào khoảng năm 6000 TCN. Các hình ảnh về PNT từ thời kỳ tiền triều đại Ai Cập còn lại rất it, nhưng qua một số hình vẽ trong các ngơi mộ của Vương triều thứ nhất này cho thấy việc sử dụng đồ đạc đã

<small>được dùng trong các ngôi nhà của người dân, trong nơi ở của quan lại, vua chúathời kỳ đó.</small>

Vào khoảng năm 3200 TCN, nghệ thuật Ai Cập đã phát triển đáng kể, bao gồm cả sản xuất ĐNT. PNT của Ai Cập chủ yếu được làm bằng gỗ, ngồi ra có các vật liệu khác cũng được sử dụng như đa, vải... Đồ vật của các bậc quan lại, vua chúa thường được trang trí, mạ, khảm bằng vàng, bạc, ngà voi và gỗ mun.

Thông qua những. bức phù điêu vay bức, tranh, trang trí trên tường trong lăng

ly rang, Tine giải phi

những người thợ lành nghề ở Ai Cập cổ đại, đôi khi nhiều giải pháp thiết kế từ thời

mộ của các Pharaoh; người ta tl thiết kế được sử dụng bởi

kỳ đó hiện nay vẫn được sử dụng. Các cuộc triển lãm DNT của người Ai Cập cổ đại còn lưu giữ được đều chứng minh rằng người Ai Cập đã sử dụng nhiều kỹ thuật để

<small>trang trí ĐNT. Trong đó, kỹ thuật mạ vàng và khảm ngà là những phương pháp phơ</small>

biến để hồn thiện bề mặt của ĐNT. Những phương pháp này, cũng như hình thức thé hiện chân PNT theo hình dang bàn chan

thức phơ biến trên các ĐNT thời ky Ai Cập cổ đại, đặc biệt là ĐNT của tầng lớp

<small>quan lại, vua chúa, người giàu có trong xã hội.</small>

<small>ng vật (chân sư tử), đã trở thành hình</small>

Để làm DNT có giá trị, những người thợ của Ai Cập cổ đại đã sử dụng các vật liệu từ gỗ mun, gỗ tuyết tùng, thủy tùng, keo, 6 liu, sồi, sung.... Các chỉ tiết hình thức bên ngồi của ĐNT khơng chỉ được hồn thiện bằng gỗ mun kết hợp với ngà voi, mà còn bằng kim loại (đồng thau, bạc, vàng), xà cir, son mài, đá quý nhiêu mau sắc”. Người Ai Cập cổ đại sử dụng các khớp mộng, mộng, chốt và khớp nối dé kết hợp hầu hết các chỉ tiết cấu trúc của ĐNT. Trong thiết kế ghế, rương và bàn trang điểm, họ cũng sử dụng khớp nối đuôi hoặc khớp vát.

<small>* Gostwicka, 1986` Setkowicz, 1969</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

ĐNT dùng để ngồi được sử dụng sớm nhất trong thời kỳ Ai cập cổ đại là

ghế, nó được sử dụng rộng rãi trong xã hội Ai Cập, từ tầng lớp quan lại, vua chúa

cho đến người dân lao động. Ghế có nhiều kiểu đáng khác nhau, bao gồm ghé đầu có bốn chân thang đứng, ghế dau có chân xép chéo... Hầu như tat cả các ghế đều có

mặt ngồi hình chữ nhật. Ví dụ như ghế ngồi của người dan lao động, một cấu trúc

ghế có ba chân, hoặc bốn chân đơn giản với mặt ngồi lõm, được thiết kế để tạo sự thoải mái khi ngồi lao động (hình 1.3). Ghế đâu gấp được trang trí cơng phu hon, với chân gấp chéo, được trang tri bằng đầu sư tử chạm khắc và ngà voi, và có bản lề làm bằng đồng. Bên cạnh đó, có những chiếc ghế bề thế hơn, dành cho những người giàu có và có địa vị trong xã hội (hình 1.4), ghế ngồi là ngai vàng của các vị Pharaoh Ai cập cổ đại, hình thức của những chiếc ghế đó được coi như một biểu

<small>tượng địa vị.</small>

Hình 1.3. Ghế déu dan của người lao động, Hình 1.4. Ghế của tang lớp quan lại,

khoảng năm 1991 - 1450 TCN, chất liệu gỗ người giàu, khoảng năm 1492 - 1473

<small>& sậy, cao 13 em TCN, chất liệu gỗ hoàng dương, cây</small>

bách, gỗ mun & dây lanh, cao 53 cm (Nguồn ảnh: Bảo tàng Metropolitan, Hoa Kỳ)

Ngai vàng của vua Tutankhamun có hình thức rất ấn tượng, được trang trí lộng lẫy bằng vàng, bạc, đá bán quý và hồ thủy tinh màu (hình 1.5a). Hỗ thủy tỉnh là một khối thủy tỉnh bao gồm các silicat, được nung chảy dưới lửa, trộn với tỉnh thể và nhuộm bằng các oxit kim loại. Chân của ngai vàng có hình bàn chân sư tử, tay vin là hình ran hỗ mang hai cánh đội mão kép thời Thượng và Hạ Ai Cập. Cạnh trước của ghế được trang trí bằng hai đầu sư tử. Phan trang trí của tựa lưng là cảnh mơ tả Tutankhamun ngơi trên ngai vàng bọc nệm mềm với một chiếc gối, giữ một

tay ở phần còn lại và đỡ chân của mình trên giá để chân. Một kiều ghế khác được

tìm thấy trong khu phụ của lăng mộ Tutankhamun cũng có thiết kế rất thú vị, nó được biến đổi từ một chiếc ghế dau bằng cách thêm phan tựa lưng (hình 1.5b). Ghế

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

được làm từ gỗ mun khảm ngà, mô phỏng da của một con báo, trong khi chân có hình đầu vịt. Tựa lưng cũng được làm từ gỗ mun khảm ngà, trang trí bằng đá bán quý.

Hình 1.5a. Ngai vàng của vua Tutankhamun, khoảng năm 1336 - 1327 TCN, chất liệu gỗ,

phủ các tắm vàng, bạc, đá quy và các loại đá khác, cao 100 em (Ngn ảnh: Bảo tàng Cairo, Ai Cập)

là Nội

Hình 1.5b. Ngai vàng dùng trong nghỉ lễ của vua Tutankhamun, khoảng năm 1325 TCN (Nguôn ảnh: Bảo tàng Cairo, Ai Cập)

Bên cạnh ghế ngơi, cịn có các loại ĐNT khác ở Ai Cập cổ đại như bàn,

giường, tủ đựng đồ, rương... Bàn được thé hiện nhiều trong các hình thức tranh vẽ trang trí, phù điêu... nhưng hầu như khơng cịn tồn tại, có lẽ chúng cũng như giường va tủ đựng dé, đây là những đồ đạc ít hoặc không được dé ở trong lăng mộ của các Pharaoh cho nên khơng cịn tồn tại đến ngày nay.

Hình thức giường sớm nhất được biết đến của người Ai Cập là một thiết kế giường bao gồm một khung gỗ nằm ngang, đặt trên bốn chân có kích thước dày và được chạm khắc bằng ngà voi. Các chân được nối với khung giường bằng các khớp

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

bén khác được căng dé giữ liên kết giữa chân với khung giường. Giường có thi độc đáo với chỉ tiết phía trên đầu giường để dựa, nằm, cuối chân giường có một tâm khung gỗ được cho là chỉ tiết để gác chân. Chân giường có hình dạng của bàn chân sư tử và có hướng quay về phía đầu giường (hình 1.6).

Hình 1.6. Giường nằm của Nữ hồng Hetepheres IV, triều đại Snefru,

<small>khoảng năm 2575 - 2551 TCN</small>

(Nguôn ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật, Boston, Anh)

Hình 1.7. Hộp trang sức, lăng mộ của Tjuyu, triều đại thứ 18, thời kỳ cai trị của

<small>Amenhotep III, những năm 1387 - 1350 TCN</small>

(Nguôn ảnh: Bảo tàng Cairo ở Ai Cập)

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Hình 1.8. Tranh đá vơi khắc, cuối thời Trung Vương quốc Ai Cập

<small>(giữa thiên niên ky thứ hai TCN)</small>

(Nguồn ảnh: Bảo tàng Cairo ở Ai Cập)

Hình 1.8 cho thay một bức tranh đá vôi mô ta cảnh một bữa tiệc, trong đó ca

gia đình tham gia. Hai cha con ngồi trên một chiếc ghế dài có dạng chân sư tử, hai

bên có hai tắm ván lưng thấp. Bên cạnh chiếc ghế đài là một chiếc bàn cột thấp hơn,

<small>bày biện các loại thịt và rau.</small>

1.3.1.2. Đồ nội thất thời kỳ Lưỡng Ha

PNT của thời kỳ Lưỡng Hà và các nền văn minh cỗ đại lân cận của Trung

Đông gồm các ĐNT; nh giường, ghé đâu ghế: Payjofing|lé:nhitng hình thức chính

của DNT Lưỡng Hà. DNT thời kỳ Lưỡng Hà khơng cịn tồn tại đến ngày nay, các

<small>nghiên cứu về ĐNT Lưỡng Hà đều phụ thuộc vào các bức tranh vẽ, phù điêu, hìnhtrang trí.</small>

<small>Hình thức các DNT Lưỡng Hà được xây dựng theo cách tương tự như DNT</small>

của Ai Cập, ngoại trừ một số ĐNT có kích thước và khối lượng nặng hơn, đường cong ít sử dụng và các khớp nói nhiều hơn. Đồ trang trí được áp dụng phong phú dưới dạng các đồ trang trí bằng đồng đúc và xương chạm khắc. ĐNT Lưỡng Hà có ba đặc điểm thường thấy như sau: Thứ nhất, chân của ĐNT được điêu khắc trang trí với hình dạng của những chiếc vòng kim loại được cắt gọt sắc nét, cái này ở trên cái khác, giống như nhiều vòng tay trên một cánh tay - đây là nguồn gốc của những chiếc chân gỗ sau này; thứ hai là việc sử dụng các đường viền dày trên vỏ DNT, kết hợp với thiết kế khung và đệm; thứ ba là nhóm PNT điền hình có ảnh hưởng tới ĐNT trong thời Trung cổ của châu Âu: Ghế dài phục vụ việc ăn uống hoặc trò chuyện của con người; bàn nhỏ để đựng đồ uống giải khát, có thể đi chuyền lên trên ghế dai. ĐNT thời Lưỡng Hà về hình thức có sự phân cấp cho đối tượng sử dung. Hệ thống phân cấp PNT bắt nguồn từ các quy định rườm rà trong triều đình liên quan đến việc ai có thể ngồi trước, ai ngồi sau và ngồi trên ghế có hình thức như

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

nào đã tổn tại nhiều thế ky trong các cung điện và nghỉ lễ của các vị vua vùng

<small>Lưỡng Hà.</small>

1.3.1.3. Đồ nội thất thời kỳ Hy Lạp cổ đại

ĐNT của thời kỳ Hy Lạp cổ đại gần như khơng cịn. Thơng tin và hình anh về DNT Hy Lạp ngày nay có được là dựa trên nhiều nguồn tài liệu khác nhau, như trong văn học, trong các tác phâm điêu khắc, trong các bức phù điêu trang trí, trong hệ thống văn bản cịn lại từ thời Hy Lạp. Hiện nhiều bảo tàng lớn trên thế giới cũng khơng có DNT Hy Lạp cé đại dé trưng bày. ĐNT Hy Lạp cơ đại nếu cịn ton tại thì chủ yếu là những mảnh vỡ của DNT, mảnh vỡ được làm tir kim loại như đồng hoặc đá cẩm thạch.

Thời kỳ Hy Lạp cé đại, gỗ là vật liệu chủ yếu trong việc làm PNT, gỗ trong nước tự cung cấp hoặc gỗ được nhập từ các nước khác vào Hy Lạp.

Kỹ thuật phổ biến trong việc làm DNT của người Hy Lạp cổ đại là thực hiện các chỉ tiết chính của DNT bằng gỗ nguyên khối, sau đó đán veneer bằng một loại gỗ có giá thành cao hơn, chăng hạn như gỗ mun. ĐNT Hy Lạp sử dụng chốt và mộng để ghép các chỉ tiết của các bộ phận với nhau. Gỗ được tạo hình bằng cách chạm khắc, xử lý hơi nước và tiện. Có một số DNT được trang trí bằng ngà voi, mai

lộc cong nghd uốn và tiện gỗ,

dán và đánh bóng, cũng như hồn thiện bề mặt gỗ bằng vecni. Họ cũng sử dụng thành thạo kỹ thuật nói các chỉ tiết bằng cách sử dụng các đầu nối và keo đán khác nhau. Họ biết sử dụng các khớp mộng và chốt, các khớp nối chim và khớp nồi, cũng như các cấu trúc khung và ghế dét.

Ở Hy Lạp, nhiều dạng DNT mới, có cấu trúc theo khối đã được tạo ra, đặc biệt là ghế và ghế dau. Ghế ngồi thời Hy Lạp có hình dáng thanh lịch với lưng tựa

<small>và chân cong (hình 1.9).</small>

<small>(a) (e)</small> Hình 1.9. Các hình thức ghế ngơi thời Hy Lạp cổ đại

(Nguồn ảnh: Furniture Design)

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Ghế thời Hy Lạp cổ đại được đặt những cái tên riêng biệt như: Diphros tức là một chiếc ghế dau nhỏ và nhẹ; Diphros Okladias là một loại ghế gấp: Klismos, Klinter hoặc Klisja là một chiếc ghế nhẹ có tựa lưng và chân cong về phía trước và

phía sau, chủ yếu dành cho phụ nữ; Kathedra hoặc ngai vàng được thể hiện là một

chiếc ghế nặng có tựa lưng, được thiết kế cho nam giới, có phù hiệu thẻ hiện quyền

lực và vị trí gia đình hoặc xã hội của họ. Ghế đầu Diphros tương đối thấp, khơng có

tựa lưng, với hai chân thắng quay hình quả chùy, thường được đặt vng góc với mặt đất (hình 1.10). Vật liệu của những chiếc ghế dau này thường được làm bằng dây đeo, da hoặc vải. Một chiếc ghế đầu gấp với hai chân bắt chéo được gọi là Diphros Okladias, tức là Diphros gap. Ghế kiểu Klismos có các chỉ tiết được làm từ những thanh gỗ uốn cong, thanh gỗ uốn cong được làm ra nhờ vào quá trình gia công và uốn gỗ, hoặc được lấy từ những cây có đường cong hình dạng tự nhiên

<small>(Hình 1.11, 1.12)</small>

tường Dai ho

Hinh 1.10. Ghế đẩu Diphros, khoảng năm — Hình 1.11. Ghế kiểu Klismos có chỉ tiết uốn

430 - 420 TCN cong, khoảng năm 430 - 420 TCN (Nguén (Nguôn ảnh: Viện bảo tàng Anh) ảnh: Viện bảo tang Anh)

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Hình 1.12. Một chiếc ghế có các chân được uốn cong, khoảng năm 50 TCN (Nguôn ảnh: Bảo tàng khảo cổ hoc Thessaloniki)

Bàn ở Hy Lạp cổ đại được sử dụng chủ yếu cho mục đích ăn uống. Trong

một số bức tranh mô tả các bữa tiệc, dường như mỗi người tham gia sẽ sử dụng một bàn, thay vì sử dụng nhiều người trong một bàn. Những chiếc rương thời Hy Lạp được sử dụng đề đựng quần áo và vật dụng cá nhân, thường có hình chữ nhật với nắp bản lề. Rương được khắc bằng dat nung có hoa văn và thiết kế tỉnh xảo.

DNT của Hy Lạp cỗ đại có thé có niên đại từ thiên niên ky thứ II TCN. DNT Hy Lạp cổ đại thời gian đầu chịu ảnh hưởng từ DNT của người Ai Cập cơ đại với hình dạng hộp, hình chữ nhật. Vào thế kỷ thứ IV và thứ V, khi người Hy Lạp phát triển phong cách riêng của ho, DNT trở nên ít vng van hon và sử dụng nhiều đường cong trong thể hiện ĐNT (hình 1.13).

ì Nội

Hình 1.13. Chân dé ngơi có dạng que, dau thé ky thứ VI TCN, chất liệu bằng đơng,

<small>kích thước: 75,2 x 44,5 cm</small>

(Nguồn ảnh: Bảo tàng nghệ thuật Metropolitan, Hoa Kỳ)

Những người thợ Hy Lạp cô đại đặc biệt chú ý đến DNT dé nằm. Chúng được làm từ gỗ. được trang trí bằng ván mỏng, chạm khảm, khảm kim loại quý hoặc ngà voi. Những người Hy Lạp giàu có mới được sử dụng những chiếc giường được lót bằng đa mềm, vải và vải len, trên đó đặt khăn trải giường, gối và đệm bằng len

<small>hoặc lông vũ.</small>

1.3.1.4. Đồ nội thất thời kỳ La Mã cổ đại

au, ĐNT La Mã cổ đại chịu ảnh hưởng từ DNT Hy Lạp cé đại trong phong cách và kỹ thuật thé hiện. Sau đó La Mã lớn mạnh, thay thé Hy Lạp trở thành

<small>Ban</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

nền văn hóa quan trọng nhất của châu Âu. Vào năm 146 TCN, Hy Lạp trở thành một vùng của La Mã. La Mã đã tiếp quản việc sản xuất và phân phối ĐNT của Hy

<small>Lạp. Ranh giới ĐNT Hy Lạp - ĐNT La Mã bị xóa nhịa, người La Mã với sự phát</small>

triển mạnh mẽ đã có nhiều đổi mới và có phong cách riêng trong việc thiết kế và thể

<small>hiện ĐNT.</small>

DNT La Mã được làm chủ. yếu bằng gỗ, kim loại và đá. Đá câm thạch và đá vôi được sử dụng để trang trí bên ngồi cho ĐNT. Hiện nay, rất ít ĐNT bằng gỗ của La Mã cịn tồn tại nguyên vẹn, nhưng có bằng chứng cho thấy nhiều loại gỗ đã được sử dụng. Vật liệu gỗ thường được người La Mã sử dụng làm DNT như gỗ óc chó, gỗ tần bì, gỗ sồi, gỗ mun. Một số loại gỗ nhập khẩu như gỗ sa tanh được sử dụng để trang trí. Kim loại được sử dụng phổ biến nhất là đồng, nhiều DNT bằng kim loại vẫn cịn tổn tại, ví dụ như tựa đầu cho đi văng, ghế đâu bằng kim loại... Tương tự như người Hy Lạp, người La Mã sử dụng mộng, chốt, đỉnh, và keo để ghép các mảnh gỗ lại với nhau, họ cũng đã sử dụng kỹ thuật sơn phủ cho một số DNT.

Ghế ngồi ở La Mã được làm và sử dụng nhiều nhất. Có nhiều loại ghế khác nhau, như ghế dau (hình 1.14), ghế dài có tay vin hay bên (hình 1.15). Hình thức ghế ở La Mã là yếu tố thể hiện cho địa vị và quyền lực. Ghế đầu La Mã với hình ặt ngồi có, đặt một tam lót.

Ban uh i nig VU, Vu lộrằng kim loại kết

hợp khảm ngà voi, thời gian sau chúng được trang trí bằng vàng.

Hình 1.14. Ghế đâu; Chất liệu Hình 1.15. Ghế dài và bệ dé chân có chạm khắc, thé ky kim loại, khoảng năm 100 TCN 1-2 CN, chất liệu gỗ, xương động vật (Nguén ảnh:

(Nguôn ảnh: Viện bảo tàng Bao tàng Nghệ thuật Metropolitan, Hoa Ky)

Mot kiéu ghé khác của La Mã, nó có dang tương tự như ghế của Hy Lạp, có

chân cong ra phía ngồi. Ghế của những người có địa vị trong xã hội thì thường có kích thước và hình thức bề thé hon, trang trí cầu kỳ hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Người La Mã có ba hình thức giường: giường để nghỉ ngơi, giường dé đãi tiệc, giường để làm việc. Kết cầu của giường La Mã chủ yếu có một khung đỡ, đặt

trên bốn chân. Giường thường được chế tạo nhẹ, dé di chuyền, chất liệu có thể một

phan hoặc tồn bộ bằng kim loại. Những người giàu có thì sử dụng tắm đệm bằng len hoặc lơng ngỗng, lơng thiên nga.

Hình 1.16. Giường kiểu La Mã với gối mềm, khoảng 30 TCN (Nguôn ảnh: Bảo tàng ở Side, Thổ Nhĩ Kỳ)

<small>Bàn của người La Mã tương tự như bàn của người Hy Lạp. Bàn có trọng</small>

lượng nhẹ, có thé di chuyên được, chiều cao thấp, chỉ bằn chiêu cao của giường.

Bản có ba chân HAY WOKhad, "CHS Mới Ba GAMÍShh Gal nn kế chéo

với nhau để có thể gấp khung lại sau khi sử dụng. Ngược lại với thiết kế này, trong những ngôi nhà xung quanh khu quảng trường La Mã cổ đại, những chiếc bàn đá được dựng lên với mặt bàn để làm việc, cột đỡ mặt bàn là cột đá lớn đạng thân cây. Bề mặt của những chiếc bàn này có dang một hình chữ nhật dài bằng đá cảm thạch hoặc bằng gỗ. Người La Mã biết đóng tủ bằng gỗ dé chứa đựng đồ. Ở giữa của ngôi nhà La Mã có rương, rương cất giữ những vật có giá trị trong gia đình. Chiếc rương được làm bằng gỗ và được trang trí bằng những dải trang trí, được gia cố bằng sắt

và đồng, để bảo vệ khỏi những kẻ trộm cắp.

¡ thất thời kỳ Trung cỗ 1.3.2.1. Đô nội thất thời kỳ Byzantine

Một tính năng đặc trưng của DNT vào dau thời kỳ Trung cô là việc sử dung rộng rãi các kỹ thuật tiện gỗ, bao gồm cả chân, tựa lưng của ghế. Thời kỳ Byzantine, PNT được khảm bằng ngà voi và được lót bằng các loại vai dày, mềm mại. Giống như người Hy Lạp và La Mã, những người thợ Byzantine sử dụng chân đỡ, ở giữa họ lắp khung chéo để đóng mở khi cần sử dụng. Một ví dụ điên hình cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

kỹ thuật này là ngai vàng của vua Dagobert'” (hình 1.17). DNT Byzantine chịu ảnh

<small>hưởng từ Hy Lạp, La Mã. DNT trong các ngơi nhà giàu có va cung điện Byzantine</small>

thường sang trọng, nhiều chỉ tiết trang trí và trang trí tỉnh xảo. Đá, đá cẩm thạch, kim loại, gỗ và ngà voi được sử dụng nhiều. Bề mặt DNT và đồ trang trí được mạ vàng, sơn và phủ đá q. ĐNT Byzantine có nhiều hình thức, đa dạng mẫu mã. Bàn có hình vng, hình chữ nhật hoặc hình trịn, được trang trí lộng lẫy, đơi khi được làm bằng có khám đồ trang trí bằng đồng, ngà voi hoặc bằng bạc; ghế có lưng cao và có trải chăn len hoặc lơng thú, với gối màu sắc; ghế có ghế dài và ghế đầu; tủ, rương được sử dụng dé lưu trữ sách; vải và các đồ vật có giá trị. Tủ rương có khóa Sắt; giường bắt chước kiểu La Mã, nhưng có một số thiết kế chân khác nhau.

1.3.2.2. Đô nội thất thời kỳ Romanesque, Gothic

Trong thời kỳ Romanesque, kỹ thuật sản xuất DNT xuống cấp đáng kể và chỉ còn là những tác phẩm đơn giản, có phần nặng nề của những người thợ mộc. Vào thời điểm đó, ở phía bắc của châu Au, DNT được sản xuất cl , trong khi ở phía nam DNT được làm từ gỗ lá kim. ĐNT có các cấu trúc lớn, quá khổ,

ủ yếu từ gỗ nặng nề với nhiều chỉ tiết chạm khắc (hình 1.18). Bên cạnh những chiếc ghế có mặt ngơi hình chữ nhật được đặt trên bốn chân, thì kết cấu ghế có khung ba chân với

1y2»»+ aan Nđ&¿ LIAN

Hình 1.17. Ghế ngai vàng của vua __ Hình 1.18. Ghế banh kiểu Romanesque được làm từ Dagobert, chất liệu: đẳng ma với chân ghế lớn, nhiều chỉ tiết chạm khắc, khoảng

vàng, khoảng thé kỷ VII thé kỷ XI - XII

(Nguén ảnh: Furniture Design)

Thời ky Gothic được cho là sử dung các hình thức trang trí trên bề mặt nhiều hơn. Cau trúc DNT Gothic có phần đơn giản, nhưng có nhiều chỉ tiết trang trí chạm kham hơn. Giường theo phong cách Romanesque thơng qua một số hình ảnh cịn lại

<small>''Dagobert (khoảng 603 - 639) là vua của Austrasia trong những năm 623 - 634.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

có thé thấy rằng yếu tố chính của thiết kế của giường là các trụ góc quay hoặc hình khối được gắn với các hộp (hình 1.19).

Hình 1.19. Giường kiểu Romanesque từ thé lỷ XIV (Nguồn ảnh: Furniture Design)

ĐNT để lưu trữ, chủ yếu là những chiếc rương được sử dụng có cấu trúc khổng lồ làm bằng gỗ cây linh sam dày hoặc ván gỗ sôi, tạo thành các tắm ván bên và đáy của chiếc rương, các tam ván được ghép lại bằng các trụ thắng đứng. Tủ, dé

thay thế cho rương, bird kỳ! hiển Và "thiết Abia tú xuất Hién ở thé ký XIII,

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Tủ đựng theo phong cách Romanesque có đặc điểm là bề mặt nhẫn, mặc dù ám ván bên ngoài dày, được làm bằng gỗ, kết hợp chạm khắc. Thời kỳ Gothic bắt đâu một bước đột phá rõ ràng trong việc chế tạo ĐNT của châu Âu. Thay cho

những PNT đồ sộ va nặng nề, các ĐNT có khung nhẹ đã xuất hiện. Điều này din đến việc những chiếc rương được sử dụng rộng rãi trong thời kỳ La Mã, bị thay thế bởi những chiếc tủ được cải tiến về hình thức và chức năng, trong đó khung được ghép bằng các khớp mộng và mộng. Phần lớn, chúng phục vụ cho việc lưu trữ, và phòng nấu ăn dé đựng thức ăn cũng dé trưng bày các món ăn đắt tiền, những thứ đó

<small>chứng tỏ sự sang trọng và giàu có của các thành viên trong gia đình.</small>

Vào thế kỷ XV, tủ nhiều cửa bắt đầu được chế tạo, được trang bị nhiều tủ khóa, ngăn kéo và cánh lật. Những đồ đạc này được đặt trên một chân để cao với kết cấu khung có giá đỡ ở góc. Các yếu tố bề mặt được dán bằng các loại ván mỏng quý làm bằng gỗ tần bì hoặc gỗ phong, gỗ của cây thông, cây linh sam, cây tuyết

<small>tùng và đơi khi là gỗ óc chó được sử dụng.</small>

Nhóm ĐNT phục vụ làm việc và ăn uống cũng có sự tiến bộ đáng kê. Bàn khơng cịn đồ sộ, với các lắp trên bản lề xuất hiện. Bàn của những chủ nhân giàu có được phân biệt bằng những cánh tay chạm khắc kết hợp các dé trang trí khác làm

<small>cho ĐNT đẹp hơn (hình J,21),</small>

khắc trên bề mặt. Thời kỳ Trung cổ được coi là một thời kỳ khắc nghiệt, điều đó được phản ánh trong phong cách nội thất của thời đại đó. DNT của thời ky Trung cô phản ánh đúng phong cách. Đặc điểm đáng chú ý nhất là chạm khắc gỗ trang trí công phu trên đường viền của nhiều PNT, bố cục cấu trúc có phần đơn giản, màu

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

sắc về co bản là xám, be hoặc đen. Các hình thức chủ yếu của PNT là hình vng

<small>hoặc hình chữ nhật với ít đường cong hoặc hình trịn.</small>

1.3.3. Đồ nội thất thời kỳ Phục Hưng

ĐNT ở Ý thời kỳ Phục hưng là một hướng mới trong sáng tạo nghệ thuật đã xuất hiện, hướng sự sáng tạo DNT tới những người dùng tiềm năng, DNT đạt được

<small>những giá trị thâm mỹ và chức năng chưa từng có trước đây. Chúng khơng cịn là</small>

đối tượng sử dụng và chuyền đổi thành các tác phẩm nghệ thuật ứng dụng hấp dẫn như tác phẩm điêu khắc hoặc tranh vẽ.

<small>Thời kỳ Phục hưng đã sản sinh ra cho nhân loại những nghệ sĩ vĩ đại nhưLeodardo da Vinci, Michelangelo, Sandro Botticelli... Họ là những con người đãtạo ra những tác phâm nghệ thuật tuyệt vời cho nhân loại. Nghệ thuật của họ không</small>

chỉ giới han trong các bức tranh, các tác phẩm điêu khắc, mà cịn có trong lĩnh vực kiến trúc, nội thất. ĐNT thời kỳ Phục hưng không được biết đến nhiều như nghệ thuật thị giác, có lẽ vì nó được coi là một khía cạnh của cuộc sống hàng ngày nhiêu

<small>hơn. Nhưng ĐNT thời Phục hưng được coi là một cuộc cách mang và đại diện cho</small>

một sự thay đổi quan trọng so với các xu hướng PNT trong các thé kỷ trước. Thời kỳ Phục hưng là thời kỳ có nhiều thay đổi về văn hóa và nhận thức nghệ thuật đáng kê. Nó thường được coi là cầu nối giữa thời Trung cổ và thời kỳ

tiền công nghiệp hié @ niên dai chinh xác, nhưng thời

kỳ Phục hưng được coi là đã bắt đầu trong những năm cuối của thế kỷ XIV ở Ý, cụ thé là ở Florence. Nghệ thuật thời kỳ Phục hưng kết hợp các yếu tố từ những nền văn minh lâu đời trước đó, và các nghệ sĩ thời Phục hưng đã có nhiều nghiên cứu vĩ đại về hình dang và tỷ lệ của con người.

Trong thời kỳ này, các nghệ sĩ đã chịu ảnh hưởng từ sự phong phú của nền văn hóa cổ đại, kết hợp với kỹ thuật chế tác gỗ tương tự như kỹ thuật điêu khắc được sử dụng bởi các nhà điêu khắc. DNT đạt được những giá trị thẩm mỹ và chức năng chưa từng có trước đây. Trong đó ghế có cau trúc đan chéo và ghế đầu được trang trí đa dạng đã được sử dụng rộng rãi trong các tầng lớp của xã hội thời Phục

Trong thời kỳ Phuc hưng, những bậc thay trong lĩnh vực sản xuất ĐNT là những người Ý đến từ các thành phố của Ý như Florence, Sienna, Lombardy và Venice. Họ chủ yếu sử dụng gỗ của cây óc chó, được trang trí bằng cách nhuộm và hoàn thiện bằng sáp, được bọc bằng đa, vải gầm hoa, hoặc vải nhung.

1.3.3.1. Đô nội thất thời kỳ Phục Hưng ở Ý

ĐNT thời Phục hưng lần đầu tiên được sản xuất ở Ý trong thế kỷ XV. Sự phát triển của hoạt động thương mại sam uất đã mang lại sự giàu có cho nước Ý và

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

giai cấp tư sản. Họ có cuộc sống giàu sang, có nhu cầu cao về nơi ở của mình. Điều đó dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động xây dựng kiến trúc nhà ở, biệt thự, cung điện, lâu đài... và các trang thiết bị nội thất chất lượng cao phục vụ cho cuộc sống hàng ngày của ting lớp tư sản ở Ý.

ĐNT thời Phục hưng của ¥ mang vẻ đẹp phần nhiều nằm ở hình thức, những người thợ chế tác DNT Phục hưng sử dụng nhiều hình thức chạm khắc trên bề mặt của DNT. Việc chạm khắc đó thể hiện đầy đủ tinh thần của sự phục hưng nghệ thuật, tỉnh xảo và độc đáo. Phong cách nội thất của Ý cũng lan sang các khu vực khác của châu Âu. Thợ thủ công từ các nước khác đã đến Ý đẻ học hỏi hình thức và kỹ thuật sản xuất DNT. Ở nhiều nơi khác, các thiết kế có ảnh hưởng từ Ý đã được điều chỉnh để phù hợp với yêu cầu của mỗi vùng, mỗi địa phương.

Hình 1.22. Ghế dau (Bảo tàng gia đình Radziwill ở Kiejdany) (Nguồn ảnh: Furniture Design)

Trái ngược với thời Gothic - sử dụng các chủ đề lay tir cudc séng của các vị thánh, chạm khắc thời Phục hưng có các chủ đề thần thoại, ngụ ngôn và lịch sử. Theo các đường nét kiến trúc, các tủ và vách ngăn trước đó mang hình thức của các cung điện, mặt trước của các tủ thường đại diện cho các tiểu cảnh của mặt tiền của

<small>vương cung thánh đường thời Phục hưng.</small>

Trong suốt thế kỷ XVI, hình thức và số lượng của thiết kế ghế đã tăng lên. Bên cạnh những chiếc ghế hình chữ nhật, lưng cao được chạm khắc là những chiếc ghế cong hình chữ X hay cịn gọi là ghế có tên gọi Savonarola (hình 1.23) - một hình thức ghế có kích thước nhỏ và thoải mái. Nó được chạm khắc, đơi khi mạ vàng, và có thể có một chiếc ghé gỗ với đệm đặt trên mặt ghế. Vào cuối thé ky XVI, những chiếc ghế kiểu này đôi khi được bọc bằng lụa, da hoặc khảm trang trí.

Hình thức bàn điển hình của thời Phục hưng có bề mặt hình chữ nhật, có các chân đỡ vững chắc và được chạm khắc. Các chân đỡ được kết nối với nhau bằng

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

các thanh gỗ nói với nhau. Mặt bàn đơi khi có thé là các phiến đá cẩm thạch hoặc khảm, chân bàn có thể được chạm khắc hoặc mạ vàng.

Rương thời Phục hưng được sử dụng Tất phổ biến, đặc biệt là Tương có tên gọi Cassone (hình 1.24) - là loại rương được sử dụng chủ yếu như một chiếc rương, đựng dé q. Hình thức trang trí trên rương đa dạng, tương đối cầu kỳ, có thể được chạm khắc, sơn hoặc mạ vàng. Hình thức của rương cũng đa dạng, từ hình hộp chữ nhật đến hình vng. Tầng lớp giàu có hon sử dụng những chiếc rương được trang trí xa hoa, lộng lẫy, trong khi đó, rương của tầng lớp nghèo hơn thường trang trí đơn giản hơn nhiều. Những nhà trang trí và điêu khắc giỏi nhất ở Ý thường sản xuất những chiếc rương lớn và đẹp cho gia đình quý tộc thời bấy giờ. Mặc dù những chiếc rương này thường được sử dụng dé đặt các đồ vật bên trong, nhưng nhiều chiếc rương chi được sử dụng dé trang trí.

(Ngn ảnh: Renaissance-spell)

ĐNT thời Phục hưng ở Ý chủ yếu được làm bằng gỗ, thường là gỗ óc chó, phong phú về kiểu dang, với nhiều lớp khảm ngà voi, vàng, đá, đá cẩm thạch hoặc

<small>các vật liệu quý khác.</small>

1.3.3.2. Đô nội thất thời Phuc hưng ở Pháp

Sau những chuyến đi thám hiểm trên đất nước Ý của vua Charles VIII'', Pháp, thi ĐNT, thời trang và nghệ thuật của Pháp đều được hồi sinh trên tinh thần Y. Rất nhiều lĩnh vực nghệ thuật được làm theo phong cách Ý. Ghế lấy tinh than từ Y được làm nhiều hơn, với phan lưng được trang trí cơng phu hơn. Ghế lớn có lưng tựa cao và những chiếc ghế bành được trang trí bằng chạm khắc rất cơng phu của thời Phục hưng ở Pháp, bên cạnh đó cịn được kết hợp với một số yếu tố trang trí từ thời Gothic. Một thành tựu ban đầu của thời Phục hưng Pháp là chiếc ghế bành có

<small>"Charles VIII I'Affable (1470 - 1498): Là con của của Louis XI, là vua Pháp từ năm 1483 đến khi mất.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

tựa lưng cao và tay vịn với mặt ngồi hình thang (hình 1.25). Ghế nhẹ, do đó dễ dàng chuyển và di chuyển. Thiết kế tương tự là những chiếc ghế dành cho phụ nữ và được làm giống như một chiếc ghế bành khơng có tay vịn.

Phong cách nội thất Pháp quan trọng nhất trong thời kỳ Phục hưng là phong cách Henry IT’? của nước Anh. Các nhà thiết kế của Pháp đã áp dụng những ý tưởng ban đầu của họ vào hình mẫu từ Ý. Chẳng hạn tủ có cửa với các tắm chạm khắc phong phú ở phan trên, khi mở ra, các ngăn kéo được chạm khắc tỉnh xảo phía trước. Giường ngủ cũng được trang trí cầu kỳ, tỉnh xảo, chăng hạn giường ngủ của bà Jeanne d'Albret, mẹ của vua Henri IV, nước Pháp (hình 1.26), được làm bằng gỗ sồi - là điển hình cho ĐNT thời Phục hưng của Pháp.

rong Đại |

Hình 1.25. Ghế Caquetoire ở Pháp, thé Hình 1.26. Giường ngủ của ba Jeanne

ky XVI d'Albret - mẹ vua Henri IV, ném1562

(Nguôn ảnh: Gostwicka) (Nguén ảnh: Renaissance-spell) 1.3.4. Đồ nội thất thé ky XVI, XVHI

1.3.4.1. Đồ nội thất thời kỳ Baroque

Những món ĐNT đặc trưng nhất của Baroque là đồ của vua Louis XIV-Pháp, ông là nhà cai trị chuyên chế, người đã tạo ra sự uy nghiêm của quyền lực mà ông đại diện. Điểm đặc trưng của DNT thời Baroque là sử dụng gỗ cẩm thạch để trang trí trên bề mặt của DNT, trong khi ĐNT có khung (như ghé, ghế bành, bàn) sử dụng trang trí chạm khắc gỗ. Chân của PNT ở dang thắng đứng, được có định chắc chắn ở phía dưới bằng các đầu nối làm bằng ván cong. Nhiều trường hợp gỗ được sơn lót và mạ vàng để nhấn mạnh đăng cấp và sự giàu có của người sử dụng. Tuy nhiên, những người thợ điêu khắc gỗ không phải là những người được đánh giá cao nhất, mà những người thợ lành nghề nhất là những người chế tác ĐNT bằng gỗ

<small>" Henry II (1133 - 1189): Là quốc vương nước Anh từ năm 1154 đến năm 1189.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

mun, những người thợ mài và đồ gỗ'°. ĐNT thời Baroque dé ngồi là một chiếc ghế bành nặng, có đệm với tựa lưng cao (hình 1.27). Phần tựa lưng cao của ghế thường được chạm khắc hoặc vải bọc được trang tri băng các hình thức dưới dang dây buộc hoặc lá cây. Ngoài chỗ ngồi, nó cịn được phân biệt bằng một tựa lưng đặt nghiêng, thường cao quá đầu của người ngồi, cũng như một tay vịn uốn cong hình chữ s. Vải trang trí ghế được làm bằng nhung, vải thêu, da ép và mạ vàng.

<small>Dưới thời trị vì của Louis XIV, các loại DNT mới đã x</small>

có ngăn kéo, bàn làm việc, bàn ăn, đồng hồ dé ban, đồng hồ tủ, bàn dé để lọ hoa. Rương ngăn kéo thay thế rương và thường bổ sung thêm chức năng là một tủ cao Ất hiện, bao gồm tủ

(hình 1.28). Bàn thời Baroque là một biến thể sáng tạo của bàn và tủ từ thời kỳ cuối Phục hưng. Trong phòng ngủ, giường được đặt trong một hốc tường ngăn cách bằng lan can hoặc cột với phần còn lại của căn phịng. Chiếc giường được bao phủ phía trên bởi các tắm vải lớn, được trang trí ở các góc bằng lông vũ hoặc lông chim. Khung của giường ngủ khác so với thời Phục hưng, khung gỗ của giường được bọc hồn tồn bằng vải (hình 1.29). ĐNT kiểu Baroque của Anh được làm bằng gỗ óc chó và dé trang trí chạm khắc bằng gỗ mạ vàng. Các loại vải thêu, vải xếp nếp và nhung cũng được sử dụng dé trang trí với các phụ kiện của giường, lót ghế bành và ghế sofa. <sub>¬"' xrié Tờ + Dai han MA LIA NAG</sub>

Hinh 1.27. Ghé banh kiéu Hình 1.28. Tủ kiểu Baroque phong cách Louis XIV

<small>Baroque phong cách Louis XIV</small>

(Nguồn ảnh: Furniture Design)

Vào thời điểm này, DNT của Anh sử dung rất ít phào chi. Đặc điểm của trang trí DNT Anh là trang trí bằng đá cảm thạch, sử dụng sơn mai màu den và đỏ theo thiết kế của Trung Quốc, và sử dụng giá đỡ uốn cong hình chữ s thay cho lan

<small>'Š Setkowicz 1969; Gostwicka, 1986</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

can và giá đỡ dây hiện có''. ĐNT có dạng hộp của thời ky này trong nội thất Anh là tủ có ngăn kéo, rương có ngăn kéo. Tuy nhiên, ở Anh khơng có tủ đựng quần áo lớn, vì quần áo trong thời gian này vẫn được cất trong ngăn kéo.

Vào thế kỷ XVII ở Hà Lan, ĐNT được làm chủ yếu là gỗ sồi và gỗ óc chó, mặc dù ván ép từ các loại gỗ khác cũng được sử dụng như: gỗ mun, gỗ trắc và những loại khác. Đôi khi, bề mặt của ĐNT được lót bằng gạch ngà được đặt trong các thiết kế hình sao hoặc với các lớp veneer đầy màu sắc. Một loại tủ quần áo thiết yếu của người Hà Lan trong thời kỳ này là tủ quần áo bốn cửa kép. Ghế có hình thức giống ghế từ cuối thời Phục hưng, nhưng chân, giống như chân bàn, có dạng đường vít. ĐNT theo Baroque của Hà Lan chủ yếu được đặt hàng và sản xuất tại Trung Quốc, do vậy có tác động đáng ké đến hình dang, hình thức và mục đích sử dụng, đặc biệt, hình thức của khung ghế và chân ghế uốn cong của Trung Quốc được sử dụng nhiều hơn.

Vào đầu thế ky XVII và XVII, tủ quần áo của Đức đã phát triển thành một món ĐNT đặc biệt và dé nhận biết của thời kỳ đó. Trong văn học Đức, chúng được gọi là tủ quần áo ở Hamburg. Tủ quần áo từ nửa sau thế kỷ XVII có phần thân hai tầng được gắn trên một đề lớn, có khung vững chắc để đỡ tủ. Đơi khi tủ đựng quần

áo được sử dụng, thành tủ đựng Bề mit, của tủ quai áo được điêu khắc

nhiều hình trang tr ự phần thản thes chi c the hién bang các đường

<small>phao ở các vị trí trên chân dé, giữa các cấp và phao chỉ. Hình thức mặt ngồi của tủ</small>

quần áo được nhân mạnh bởi ba cột ở hai đầu và ở giữa. Tủ quần áo được làm bằng

gỗ sồi, gỗ cây lá kim, gỗ óc chó... Các chỉ tiết trang trí được làm bằng gỗ mun hoặc gỗ sồi nâu sim (hình 1.30). Vào cuối thế ky XVII, đã có một bước đột phá về hình thức và chức năng của tủ quần áo. Sự phân chia thành hai khung lớn khơng cịn thịnh hành, và phần bên trong tủ không chỉ phân chia làm hai như trước, có nhiều đố được ngăn thêm. Thiết kế như vậy khiến việc treo quần áo trên các móc treo cố định được rộng rãi và dễ dàng hơn.

<small>* Setkowicz, 1969</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Hình 1.29. Giường hồng gia của Louis Hình 1.30. Tủ quan áo, đầu thé kỷ XVII

(Ngn ảnh: Furniture Design)

Thé ky XVII, ở cả Nam va Bac Au, DNT duge dac trưng bởi các thiết kế Baroque sang trọng, thường được ma vàng, é iều kié

và cuộn trịn. Từ thế kỷ thử XVÍÏf lát thiết kế SNT bat đầu 'bhầtiển nhanh chóng hơn, hình thức, trang trí bắt mắt hơn thời kỳ đầu (hình 1.31, 1.32).

Hình 1.31. Bàn kiểu Baroque ma vàng, với mặt trên Hình 1.32. Tủ quan áo kiểu

bằng đá (có thé là đá cẩm thạch) (Nguôn ảnh: Bao Baroque của Hà Lan, khoảng

tàng Cinquantenaire, Bruxelles, Bi) năm 1625-1650, chất liệu gỗ sôi, g6 mun, gỗ cẩm lai, kích thước: 244,3 x 224,3 x 85,2 cm (Nguén

<small>ảnh: Bảo tàng Nghệ thuậtCleveland, Ohio, Hoa Kỳ)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

1.3.4.2. Đô nội thất thời kỳ Rococo

Những nghệ nhân và thợ thủ công người Pháp đã sáng tạo kỹ thuật mới để hoàn thiện bề mặt ĐNT. Họ khám phá ra một loại sơn đồ gỗ màu đen và đỏ. Các nhà thiết kế đã sáng tạo ra nhiều hình thức mang tính thẩm mỹ và sự đa dạng của ghế để ngồi như: ghế bành, ghế sofa, trường ky... Chân của ĐNT được uốn cong tỉnh xảo khơng có đầu nối, các góc trịn và đường nét uyên chuyên tương ứng hài hòa với các loại vải bọc tỉnh tế.

Trong thời kỳ này, DNT của Pháp không có bề mặt phăng và đường thăng. Nhờ đó, DNT hình khối đã trở nên sóng động: bằng cách thu hep và đưa các cấu trúc hình xuống phía dưới, chân có hình cong và bề mặt làm theo hình thức sập (hình 1.33). Thay vì gỗ trang trí là gỗ mun sam màu, các loại gỗ trang trí là gỗ ngoại lai màu sáng bat đầu được sử dụng phổ biến, chăng hạn như cây dén, cây chanh, cây hồng mộc, cây ô liu... và nhiều loại khác. Bề mặt ĐNT được phủ bằng vecni. Mức độ phủ vecni gần như hồn tồn được phủ kín với các chỉ tiết trang trí như bức tranh đồng cỏ và hoa. Hình thức trang trí và phủ vecni này được thực hiện ở nhiều ĐNT

<small>khác như: tủ ngăn kéo, bàn ăn, tủ, tủ trang trí,....</small>

<small>Hình 1.33. Tủ rương trang trí của vua Louis XV, khoảng năm 1760 - 1769</small>

(Nguôn ảnh: Bảo tang Victoria & Albert, London)

Tủ ngăn kéo thường có hai ngăn kéo. Cùng với sự thay đổi thị hiếu của người dùng, hình thức của bàn cũng thay đổi, chân bàn theo hình chữ S. Ghế ngồi khơng chỉ về hình dáng, mà cả kích thước cũng được điều chỉnh theo nhu cầu của người sử dụng. Mặt ngồi của ghế bành được nới rộng ra, tay vịn thấp xòe ra phía

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

ngồi làm tăng bề mặt, mặt ngồi của ghế được lót bằng chất liệu mềm mại, thông thường, là những tắm đệm nhỏ. Khung xương của những món DNT này được làm chủ yếu bằng gỗ sơn hoặc gỗ mạ vàng trên nền keo phan. Trong thời ky của Rococo ở Pháp, các mau ghế ngồi ấn tượng đã được tạo ra, phong phú về tinh năng, đáp ứng các nhu cầu cụ thể của người sử dụng, như ghế bành với tay vịn hình bán nguyệt được bọc phan tựa lưng (hình 1.34), ghế dài dành cho hai người với ghế giống như trường kỷ dài, ghế dài với hai tựa lưng, ghế sofa, ghế dài - tức đi văng nhỏ với mặt ngồi hình bầu dục, ghế đầu, ghế dài dang giường. Trong thời ky Louis XV, lần đầu tiên khái niệm về bộ DNT bắt đầu được phân biệt. Thông thường trong các cung điện sử dụng PNT theo một bộ, tức là nhiều PNT được thiết kế cho một phịng, có chức năng cụ thể và phù hợp với kiến trúc và màu sắc của nội thất đã chọn.

ĐNT Anh trong thời kỳ Rococo được phân biệt bằng cách chạm khắc gỗ trang trí phong phú dưới dạng lá cây, hình người và các họa tiết động vật tượng hình, bao gồm đầu sư tử, mặt nạ.... Đặc điểm của DNT thời ky nay là các ĐNT có dang chân cong và dé trang trí bằng sơn mài được cho là do ảnh hưởng từ phương Đông đối với ĐNT Anh (hình 1.35). Khoảng năm 1725, hình thức tựa lưng trong ĐNT để ngồi thay đổi. Sự chuyển đổi này là mang lai sự nhẹ nhàng cho món DNT vốn là một giá trị ơ bản trong Ighệ thuật Rococo.

được chạm khắc và mạ vàng, phú bằng vải nhựa rudi, và cây sung, khảm sứ, kích gam, họa tiết hoa màu xanh lam thước 110,1 x 102,9 x 32,7 cm

(Nguôn ảnh: Bao tàng Nghệ thuật Metropolitan, Hoa Kỳ)

</div>

×