Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

bài tập lớn môn học pháp luật việt nam đại cương đề tài nhận diện hợp đồng lao động theo bộ luật lao động năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 37 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA </b>

<b>NĂM HỌC: 2021-2022 ………oOo……… </b>

<b>BÀI TẬP LỚN MÔN HỌC </b>

<b>PHÁP LUẬT VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG ĐỀ TÀI: NHẬN DIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG </b>

<b>THEO BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2019 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>CHƯƠNG II. NHẬN DIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG – TỪ THỰC TIỄN ĐẾN KIẾN </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>2.2. Quan điểm của nhóm nghiên cứu về tranh chấp và kiến nghị hoàn thiện quy </b>

<i><b>2.2.2. Bất cập và kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành </b></i> 25

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài </b>

“Trong mối quan hệ với người sử dụng lao động, người lao động luôn ở vị trị yếu thế hơn, có sự phụ thuộc và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động. Do đó, muốn tạo ra quan hệ lao động được bình đẳng hơn, pháp luật lao động đã có những quy định để bảo vệ người lao động, qua đó hạn chế sự lạm quyền của người sử dụng lao động.”<small>1</small>

Đây là nhận định báo Công lý về tầm quan trọng của pháp luật lao động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến người lao động như thời gian làm việc, chế độ lương thưởng, các hoạt động dạy và học nghề, mức đóng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội… đều được quy định cụ thể, rõ ràng trong bộ luật lao động nên khi xảy ra những mâu thuẫn, tranh chấp thì quyền lợi của người lao động sẽ luôn được pháp luật bảo vệ. Bên cạnh đó, bộ luật lao động cũng có những quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động, chủ doanh nghiệp… điều này cho thấy pháp luật bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên và hướng tới việc xây dựng một quan hệ lao động hài hịa trong đó tất cả các bên đều có lợi.

Sau nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung thì hiện nay nước ta đang áp dụng Bộ luật Lao động năm 2019 (BLLĐ 2019) để điều chỉnh tất cả những vấn đề liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động, quản lý nhà nước về lao động. Nhóm tác giả nhận thấy, sinh viên nói chung và sinh viên trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh nói riêng cần được trang bị những kiến thức, hiểu biết về BLLĐ 2019 đặc biệt là về hợp đồng lao động (HĐLĐ) để có thể tự tin bước vào thị trường lao động vốn đang rất sôi động hiện nay.

“Với tư cách là một loại hợp đồng, hợp đồng lao động có ý nghĩa là hình thức để các bên xác lập và thực hiện một quan hệ pháp luật và là cơ sở pháp lý để các bên bảo vệ quyền lợi của mình khi tranh chấp xảy ra. Ngồi ra, dưới góc độ quan hệ lao động hợp đồng lao

<small>1</small><i><small> Báo Cơng Lý,“Bộ luật Lao động: Bảo vệ tồn diện quyền lợi của người lao động”, [ ngày 3 tháng 7 năm 2022. </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

động còn có ý nghĩa đối với bên thứ ba như cơ quan quản lý nhà nước…”<small>2</small> Nhóm tác giả đánh giá đây là một nhận định khách quan và chính xác nêu đúng tầm quan trọng của HĐLĐ đối với người lao động (NLĐ), người sử dụng lao động (NSDLĐ) và những cơ quan quản lý nhà nước. Việc nhận diện rõ HĐLĐ sẽ giúp NLĐ làm chủ được quá trình tìm việc và ký kết hợp đồng từ đó đảm bảo được quyền lợi của bản thân cũng như hiểu rõ được những nghĩa vụ phải thực hiện trong suốt quá trình làm việc, lao động. Một khi NLĐ đã nắm rõ được các quy định về HĐLĐ, yên tâm về những quyền lợi được hưởng thì họ sẽ có tinh thần thoải mái để hồn thành tốt những u cầu của cơng việc được giao, từ đó năng suất lao động được nâng cao và lợi ích của NSDLĐ cũng sẽ được đảm bảo. Điều này sẽ giúp quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ luôn được giữ ổn định, hài hoài, hạn chế tối thiểu những tranh chấp xảy ra góp phần làm cho nền kinh tế nước ta thêm định và ngày càng phát triển.

Dựa trên những phân tích này, nhóm tác giả quyết định thực hiện nghiên cứu đề tài

<i><b>“Nhận diện hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao động năm 2019 ” cho Bài tập lớn trong </b></i>

chương trình học mơn Pháp luật Việt Nam Đại cương. Đề tài thuộc lĩnh vực Pháp luật Việt Nam và đối tượng nghiên cứu của đề tài là HĐLĐ. Trong đề tài này, nhóm tác giả sẽ trang bị cho người đọc những kiến thức về HĐLĐ, trình bày góc nhìn của nhóm nghiên cứu về cách giải quyết của Tòa án trước một tranh chấp có liên quan đến HĐLĐ từ đó đưa ra kiến nghị để hồn thiện hơn nữa BLLĐ 2019.

<b>2. Nhiệm vụ của đề tài </b>

<i><b>Một là, làm rõ lý luận về chế định hợp đồng lao động theo pháp luật lao động Việt Nam. </b></i>

Trong đó, nhóm tác giả nghiên cứu những vấn đề về khái niệm; đối tượng và phạm vi điều chỉnh của hợp đồng lao động; các loại hợp đồng lao động theo quy định pháp luật hiện hành.

<small>2</small><i><small> “Hợp đồng là gì? Ý nghĩa của Hợp đồng lao động trong hệ thống pháp luật”, [ ngày 3 tháng 7 năm 2022 </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i><b>Hai là, từ lý luận về hợp đồng lao động từ đó nhóm tác giả tập trung là sáng tỏ đặc </b></i>

trưng của hợp đồng lao động để nhận diện trong thực tế.

<i><b>Ba là, nghiên cứu thực tiễn xét xử của Toà án về hợp đồng lao động để nhận thấy những </b></i>

bất cập giữa quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử.

<i><b>Bốn là, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế định hợp đồng lao động. </b></i>

<b>3. Bố cục tổng quát của đề tài </b>

Đề tài gồm có 2 chương nội dung, cụ thể như sau:

<b>CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG THEO BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2019 </b>

<b>CHƯƠNG II: NHẬN DIỆN HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG – TỪ THỰC TIỄN ĐẾN KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>PHẦN NỘI DUNG </b>

<b>CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG THEO BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2019 </b>

<b>1.1 Hợp đồng lao động và dấu hiệu nhận diện hợp đồng lao động </b>

<i><b>1.1.1 Khái niệm hợp đồng lao động </b></i>

Trước khi tìm hiểu khái niệm về “hợp đồng lao động”, chúng ta sẽ phân tích định nghĩa của “hợp đồng” trên cả khía cạnh từ điển và định nghĩa của Bộ luật Dân sự 2015. Từ điển tiếng việt đã đưa ra định nghĩa của từ hợp đồng như sau: “Hợp đồng là sự thoả thuận, giao ước giữa hai hay nhiều bên quy định các quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia, thường được viết thành văn bản”<small>3</small>. Còn điều 385 Bộ luật Dân sự 2015 định nghĩa “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. “Hợp đồng lao động” kế thừa những định nghĩa trên nhưng có sự phân tích chun sâu hơn

<i><b>để phù hợp với quan hệ lao động, cụ thể như sau: Theo Bộ luật lao động năm 2012 thì: </b></i>

“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.”<small>4</small>

Theo Bộ luật lao động năm 2019 thì:

“Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả cơng, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả cơng, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.”<sup>5</sup>

Nhóm tác giả có sự đối chiếu giữa hai năm 2012 và 2019, thì thấy được sự thiếu sót trong năm 2012. Bộ luật Lao động năm 2012 đã xảy ra các vụ lách luật, họ đã sử dụng cụm từ “trả công ...” chứ khơng phải “trả lương”; vì trong pháp luật có định nghĩa “trả lương”, lợi dụng “kẽ hở” này nhiều người sử dụng lao động đã khơng hình thành được một hợp đồng lao động đúng nghĩa và vì thế một số quyền và lợi ích của người lao động sẽ không được đảm bảo, khi có việc ngồi ý muốn xảy ra thì người chịu thiệt sẽ luôn là người lao động. Đến năm 2019, Bộ luật Lao động đã có sự đổi mới, và đã thay đổi cụm từ “trả lương” thành “tiền lương, trả công” cộng thêm một số bổ sung mới. Sự bổ sung quan trọng trong đó là “sự quản lý, giám sát, điều hành”, cả 3 tiêu chí này được bổ sung để bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động; năm 2012 khơng có tiêu chí trên nên người lao động đã bị mất đi nhiều quyền và lợi ích mà họ xứng đáng được nhận với những sức lao động mà họ đã bỏ ra.

Nhìn chung, Bộ luật Lao động năm 2019 đã được điều chỉnh khá cụ thể, rõ ràng, tăng tính nhận diện của hợp đồng lao động trong thị trường lao động thực tế. Từ đó giảm thiểu tình trạng “lách luật”, lợi dụng “kẽ hở”, bảo vệ được quyền lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động.

<i><b>1.1.2 Dấu hiệu nhận diện hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao động năm 2019 </b></i>

<i>i. Dấu hiệu nhận biết đầu tiên đó là “thỏa thuận về việc làm” </i>

Theo từ điển Tiếng Việt thì “thỏa thuận là sự nhất trí chung (khơng bắt buộc phải được nhất trí hồn tồn) được thể hiện ở chỗ khơng có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua một quá trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hoà được tất cả các tranh chấp; là việc các bên (cá nhân hay tổ chức) có ý định chung tự nguyện

<small>5 Trích chương III mục 1 Điều 13 của Bộ Luật lao động năm 2019 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

cùng nhau thực hiện những nghĩa vụ mà họ đã cùng nhau chấp nhận vì lợi ích của các bên. Sự đồng tình tự nguyện này có thể chỉ được tuyên bố miệng và được gọi là thoả thuận quân tử (hợp đồng quân tử) hay được viết thành văn bản gọi là hợp đồng viết hay hợp đồng thành văn. Tuỳ theo từng trường hợp được gọi là hợp đồng hay hiệp định; vd. hiệp định mua bán, hợp đồng đại lí.” <small>6</small>

Đầu tiên tại sao “thỏa thuận luôn luôn” là dấu hiệu nhận diện của “hợp đồng lao động”? Theo như trên thì “hợp đồng lao động” đã là một loại hợp đồng, mà trong đặc điểm của hợp đồng có sự thỏa thuận, và sự thỏa thuận đó phải dựa trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng của các chủ thể; và theo Bộ luật lao động thì đây là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Người lao động có nhu cầu làm việc và người sử dụng lao động có như cầu tuyển dụng lao động nên hai bên tự nguyện thỏa thuận để hình thành hợp đồng. Tiếp theo đối tượng của hợp đồng là gì? Chính là việc làm, theo thư viện pháp luật thì “việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm.”<small>7</small> Vậy “hoạt động lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra các lạoi sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội”<small>8</small>, và “thu nhập là nhận tiền hoặc sản phẩm để chi dùng trong đời sống hàng ngày.”<small>9</small>

Theo nhóm tác giả thì đây là dấu hiệu cần có trong hợp đồng lao động. Nó đã hình thành đúng một bản hợp động theo luật dân sự đề ra.

<i>ii. Dấu hiệu thứ hai: Yếu tố tiền lương, trả công </i>

Theo thư viện pháp luật thì “Tiền lương là số tiền người sử dụng lao động có nghĩa vụ trả cho người lao động khi họ cung ứng sức lao động, theo quy định của pháp luật hoặc

<small>6</small><i><small> Từ điển tiếng Việt, “Thỏa thuận”, [ ngày 30 tháng 6 năm 2022 </small></i>

<small>7 Trích chương 1 Điều 3 của Bộ luật Việc làm năm 2013 </small>

<small>8 Theo Wikipedia, “Lao động”, </small>

<i><small>[ ngày 31 tháng 6 năm 2021 </small></i>

<small>9</small><i><small> Theo từ điển Tiếng việt, “Thu nhập”, [ ngày 31 tháng 6 năm 2021 </small></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

theo sự thỏa thuận hợp pháp của các bên trong hợp đồng lao động. Tiền lương được trả theo năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả công việc nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.” Theo quan điểm của luật Minh Kh thì “sự trả cơng được hiểu là tiền lương hoặc lương bổng cơ bản, bình thường hay tối thiểu và mọi thứ lợi ích, trả trực tiếp hay gián tiếp bằng tiền hay hiện vật mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo việc làm của họ.”<small>10</small> Theo nhóm tác giả đồng ý với quan điểm này vì quan điểm đã chỉ rõ được bản chất của việc trả công trong một bản hợp đồng lao động.

<i>iii. Dấu hiệu thứ ba: Sự quản lý, giám sát, điều hành của một bên </i>

Quyền quản lý hợp đồng lao động theo nhóm tác giả là giành cho bên người sử dụng lao động. Dựa trên cơ sở họ là người bỏ tài sản của mình ra để thuê nguồn lao động làm việc cho dự án hay công việc đầu tư nào đó... và cũng là người chi trả hết mọi chi phí về thiết bị, cơng cụ, bảo hiểm y tế... Từ những khoản chi tiêu khổng lồ này đã khẳng định được quyền quản lý phải là người sử dụng lao động.

Theo thư viện pháp luật thì “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.”<small>11</small> Dựa vào điều luật này, việc phải “giám sát” là vô cùng quan trọng đối với người sử dụng lao động. Họ là những người hưởng thành quả, và tất nhiên là họ muốn một kết quả xứng đáng, thỏa mãn theo đúng với nhu cầu cũng như tương xứng với số tiền họ đã chi tiêu. Nếu quyền giám sát bên người lao động, thì việc này sẽ khá khập khiễn họ làm việc rồi họ tự giám sát giống như quá trình tự học đối với tất cả mọi học sinh, sinh viên, nếu bình thường đây là một điều tốt, nhưng ai

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

sẽ giám sát những sinh viên, học sinh này làm đúng hay sai, tất nhiên bản thân học sinh, sinh viên sẽ khơng biết. Chính vì vậy việc giám sát là quyền bên người sử dụng lao động.

Và cuối cùng là “Điều hành là hướng dẫn cho mọi hoạt động chung diễn ra theo một đường lối, chủ trương nhất định.”<small>12</small> Theo từ điển Tiếng Việt. Việc làm này là dành cho người lãnh đạo, trưởng nhóm, họ là những người phân chia công việc phù hợp với khả năm của từng thành viên, để họ phát huy tối đa công suất làm việc của mình, và kết quả sẽ đạt được tương xứng với mục đích của cả nhóm. So sánh với trong quan hệ hợp đồng lao động thì chỉ khác ở bên người nhận thành quả là người sử dụng lao động; vì thế những đặc điểm còn lại khá tương đồng với cùng một mục tiêu. Tóm lại quyền điều hành cũng là bên người sử dụng lao động.

Kết luận, đây là dấu hiệu quan trọng nhất để nhận biết một bản hợp đồng lao động. Nó hội tụ các yếu tố về khoản chi tiêu khổng lồ, việc lãnh đạo, phân phối các công việc một cách chi tiết, nên sử dụng sức lao động rất nhiều và một bản hợp đồng lao động cần được hình thành để bảo vệ quyền và lợi ích cho người sử dụng lao động nói riêng và bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người lao động nói chung.

<b>1.2. Đặc điểm hợp đồng lao động </b>

<i><b> 1.2.1. Phân loại hợp đồng lao động theo Bộ luật Lao động năm 2019 </b></i>

Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

<i>Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên khơng </i>

xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng;

<i>Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời </i>

hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng.<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Sự khác biệt giữa hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động xác định thời hạn là một bên xác định rõ thời hạn chấm dứt hợp đồng và bên chưa xác định rõ thời hạn chấm dứt hợp đồng. Ngoài ra đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn vì xác định rõ thời hạn chấm dứt hợp đồng nên hợp đồng này mang tính ràng buộc giữa người lao động và người sử dụng lao động trong khoảng thời gian nhất định. Cịn hợp đồng khơng xác định thời hạn thì khơng rõ thời hạn chấm dứt nên khơng mang tính ràng buộc mà phụ thuộc vào người lao động và người sử dụng lao động.

BLLĐ 2019 có sự khác biệt với BLLĐ 2012 về phân loại hợp đồng lao động:

BLLĐ 2012 quy định 03 loại hợp đồng lao động gồm: Hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn và cuối cùng là hợp đồng mùa vụ.

BLLĐ 2019 đã bỏ quy định về hợp đồng mùa vụ, chỉ giữ lại 02 loại hợp đồng là hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động xác định thời hạn.

Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa hợp đồng xác định thời hạn được quy định trong BLLĐ 2012 và BLLĐ 2019. BLLĐ 2012 quy định thời gian thực hiện của hợp đồng xác định thời hạn là từ đủ 12 đến 36 tháng. Đối với BLLĐ 2019, chỉ quy định thời hạn tối đa khơng q 36 tháng cịn thời hạn tối thiểu sẽ do các bên thoa thuận với nhau.

Đối với hợp đồng xác định thời hạn mà sau khi kết thúc hợp đồng 30 ngày thì hợp đồng trở thành hợp đồng xác định thời hạn 24 tháng (BLLĐ 2012) và thành hợp đồng không xác định thời hạn theo BLLĐ 2019.

<i>1.2.2. Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động</i>

Để hình thành được một bản hợp đồng lao động (HĐLĐ) phải trải qua nhiều giai đoạn. Người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) phải thảo luận và bàn bạc với nhau rất nhiều thứ để mang về lợi ích cho bản thân họ. Họ được phép đưa ra yêu cầu trong ký kết hợp đồng nhưng chủ yếu vẫn phải dựa vào các nguyên tắc giao kết HĐLĐ đã được pháp luật qui định.

Có hai nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động cần được đảm bảo:

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

“1. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực.

2. Tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội.”<small>14</small>

<i>● Đối với nguyên tắc 1, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác và trung thực: </i>

<i>Tự nguyện là một trong những nguyên tắc quan trọng để khẳng định hợp đồng lao động. Tự nguyện được định nghĩa là “Tự nguyện là tự mình muốn làm, muốn như thế, không bị ai ép buộc hay chịu một sức ép nào từ bên ngoài là sự lựa chọn hoặc thực hiện hoặc không thực hiện mà không bị mua chuộc, thúc đẩy, ép buộc, cưỡng ép, xúi giục, hạn chế, nhắc nhở, đề nghị hoặc bất cứ tác động nào bởi người khác.” Sự tự nguyện của các bên được </i>

hiểu là các bên hoàn toàn được tự nguyện, tự do tham gia vào quan hệ, không bên nào hoặc chủ thể nào được ép buộc, cưỡng bức bên kia hoặc các bên tham gia quan hệ lao động. Người lao động và người sử dụng lao động tự nguyện đề xuất hợp tác, kết giao hợp đồng, tự nguyện thoả thuận các điều khoản trong hợp đồng và tự nguyện giao kết hợp đồng để xác lập quan hệ lao động.

Ngồi sự tự nguyện và bình đẳng, việc giao kết hợp đồng còn phải đảm bảo yếu tố thiện chí, hợp tác và trung thực. Thiện chí, hợp tác và trung thực chính là điều quyết định việc người sử dụng lao động và người lao động sẽ dễ thông cảm cho nhau và dễ đi đến sự thống nhất trong việc thương lượng, cùng nhau đồng thuận để thiết lập và duy trì quan hệ lao động bằng cách giao kết và thực hiện hợp đồng lao động. Thiện chí biểu hiện cách đối xử tốt đẹp, chân thành với nhau; hợp tác là thể hiện sự phối hợp cùng nhau trong thỏa thuận, bàn bạc giải quyết vấn đề; còn trung thực thể hiện sự tin tưởng và thái độ tích cực. Kể cả khi trong quá trình thương lượng, các bên có sự xung đột, có căng thẳng nhưng nếu các bên thực sự thiện chí và hợp tác thì những căng thẳng đó cũng sẽ dễ dàng được giải quyết. Sự trung thực cũng là yếu tố quan trọng khi giao kết hợp đồng. Các bên có trung thực với nhau thì mới có sự thiện chí và hợp tác. Hơn nữa, sự trung thực khi giao kết hợp đồng sẽ đảm bảo cho hợp đồng được hợp pháp, quan hệ lao động tồn tại lâu dài và bền vững. Khi

<small>14 Trích chương III mục 1 Điều 15, Nguyên tắc giao kết hợp đồng lao động, Bộ luật Lao động năm 2019 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

khơng có thiện chí và khơng muốn hợp tác thì sẽ khơng có việc giao kết hợp đồng lao động. Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động, nếu các bên khơng cịn thiện chí và khơng muốn tiếp tục hợp tác cũng là lúc quan hệ lao động sẽ đi vào chỗ bế tắc và đổ vỡ.

<i>● Đối với nguyên tắc 2, tự do giao kết hợp đồng lao động nhưng không được trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội: </i>

Bản chất của hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa các bên về vấn đề liên quan tới quan hệ lao động nhưng sự thỏa thuận này phải nằm trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức xã hội. Người lao động và người sử dụng lao động được tự do ý chí trong việc xác lập các điều khoản và nội dung của hợp đồng. Sự tự do ý chí đó phải nằm trong khn khổ nhất định. Khơng trái pháp luật, thỏa ước lao động tập thể và đạo đức xã hội là yêu cầu tất yếu trong việc giao kết hợp đồng lao động.

Pháp luật lao động là hệ thống các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ lao động theo định hướng của Nhà nước. Còn thoả ước lao động tập thể là sự thoả thuận giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động về điều kiện lao động, điều kiện sử dụng lao động cũng như các vấn đề trong quan hệ lao động. Do đó, nếu nội dung hợp đồng lao động trái pháp luật lao động và thoả ước lao động tập thể sẽ dễ dẫn đến việc pháp sinh tranh chấp. Chính vì vậy, mặc dù các bên được quyền tự do giao kết hợp đồng nhưng nội dung hợp đồng lao động không được trái với pháp luật lao động và thoả ước lao động tập thể trong doanh nghiệp (nếu có). Song cũng cần lưu ý rằng, trái pháp luật lao động và thoả ước lao động ở đây là trái theo hướng bất lợi cho người lao động. Trường hợp những thoả thuận trong hợp đồng lao động tuy không đúng với quy định của pháp luật lao động và thoả ước lao động tập thể nhưng lại có lợi hơn cho người lao động thì ln được khuyến khích và ưu tiên áp dụng.

<i><b>1.2.3. Chủ thể giao kết hợp đồng lao động Gồm 2 chủ thể: </b></i>

<b>Đối với Người sử dụng lao động </b>

Người giao kết hợp đồng lao động có thẩm quyền là:

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

“Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử dụng lao động là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật;

b) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật;

c) Người đại diện của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật;

d) Cá nhân trực tiếp sử dụng lao động.”<small>15</small>

<b>Đối với Người lao động </b>

Cũng tại Điều 18 Bộ luật lao động 2019, người giao kết hợp đồng bên phía người lao động được nêu rõ: Người lao động trực tiếp giao kết hợp đồng lao động, cụ thể Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người lao động là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật của người đó;

c) Người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó;

d) Người lao động được những người lao động trong nhóm ủy quyền hợp pháp giao kết hợp đồng lao động.

Còn đối với cơng dân Việt Nam phải thỏa tiêu chí đủ 15 tuổi trở lên và có khả năng lao động. Tuy nhiên vẫn có trường hợp người lao động dưới 15 tuổi. Theo khoản 3 điều 143 BLLĐ 2019, người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi chỉ được làm công việc nhẹ theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành. Còn người chưa đủ 13

<small>15 Trích chương III mục 1 Điều 18, Thẩm quyền giao kết hợp đồng lao động, Bộ luật Lao động năm 2019 </small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tuổi chỉ được làm các công việc theo quy định tại khoản 3 Điều 145 BLLĐ 2019: “Người sử dụng lao động không được tuyển dụng và sử dụng người chưa đủ 13 tuổi làm việc, trừ các công việc nghệ thuật, thể dục, thể thao nhưng không làm tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa đủ 13 tuổi và phải có sự đồng ý của cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”.

Tuy nhiên, người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động không được ủy quyền lại cho người khác giao kết hợp đồng lao động.

<i><b>1.2.4. Hình thức của hợp đồng lao động </b></i>

Điều 14 BLLĐ 2019 quy định:

Hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và được làm thành 02 bản, người lao động giữ 01 bản, người sử dụng lao động giữ 01 bản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thơng điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử có giá trị như hợp hợp động lao động bằng văn bản.

Về hình thức hợp đồng lao động bằng văn bản, có hiệu lực kể từ ngày hai bên giao kết, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác (Điều 23. Hiệu lực của hợp đồng lao động).

Các ưu điểm của hình thức hợp đồng lao động bằng văn bản:

Tính an tồn: các bên đều biết chính xác họ đã thỏa thuận những điều gì, quyền và nghĩa vụ cụ thể của họ như thế nào. Khi có thắc mắc về bất cứ vấn đề nào có thể kiểm tra trong hợp đồng.

Tính rõ ràng: Khi tranh chấp xảy ra, hợp đồng được giao kết bằng văn bản sẽ là một bằng chứng quan trọng cho ta thấy rõ những điều mà các bên đã thoả thuận với nhau, ảnh hưởng tới lập luận cũng như phán quyết của cơ quan giải quyết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Tính tồn diện: Khi thảo hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những điều khoản phụ mà họ quên khi thảo luận trực tiếp.

Trong trường hợp bên thứ ba muốn nghiên cứu hợp đồng, hợp đồng được giao kết bằng văn bản sẽ dễ dàng thuận tiện hơn đối với bên thứ ba.

Hợp đồng lao động được giao kết thông qua phương tiện điện tử là một điểm mới của Bộ luật lao động 2019. Theo đó các thỏa thuận giữa hai bên về quan hệ lao động trên phương tiện điện tử sẽ được coi là hợp đồng lao động dưới hình thức văn bản. Điều này giúp cho các bên tiết kiệm được chi phí, thời gian giao kết và phù hợp với thực tiễn công nghệ hóa hiện nay.

Nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại hạn chế là giữa hai bên giao kết sẽ không được hiểu nhau, không đi đến được lựa chọn sáng suốt nhất. Đối với hợp đồng lao động bằng hình thức thơng qua phương tiện điện tử, giao kết hợp đồng điện tử là sử dụng thông điệp dữ liệu để tiến hành một phần hoặc tồn bộ giao dịch trong q trình giao kết hợp đồng. Lúc này, thông báo dưới dạng thông điệp dữ liệu có giá trị pháp lý như thơng báo bằng hợp đồng lao động bằng văn bản.

Hai bên có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18, điểm a khoản 1 Điều 145 và khoản 1 Điều 162 của Bộ luật này. Về việc chấp nhận HĐLĐ bằng hình thức lời nói, được quy định như sau:

Từ ngày 01/01/2021, người sử dụng lao động và người lao động chỉ được giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng. Trừ các trường hợp sao đây bắt buộc phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản dù hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng:

Giao kết hợp đồng lao động với nhóm người lao động từ đủ 18 tuổi trở lên thông qua một người lao động trong nhóm dược ủy quyền giao kết hợp đồng lao động để làm công việc theo mùa vụ, cơng việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

Giao kết hợp đồng lao động với người chưa đủ 15 tuổi.

</div>

×