Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Hãy phân tích cơ sở triết học, yêu cầu, ý nghĩa của quan điểm khách quan. Sự vận dụng quan điểm khách quan ở Việt Nam trước đổi mới và hiện nay..

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.37 KB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Chủ đề: Đồng chí hãy phân tích cơ sở triết học, yêu cầu, ý nghĩa của quan điểm khách quan. Sự vận dụng quan điểm khách quan ở Việt Nam trước đổi mới và hiện nay. </b>

<b>BÀI LÀM Phần I MỞ ĐẦU </b>

Triết học Mác-Lênin là một trong ba bộ phận hợp thành hữu cơ không thể tách rời của chủ nghĩa Mác-Lênin, là học thuyết về những quy luật phổ biến của sự tồn tại, vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Với phương pháp biện chứng duy vật và quan niệm duy vật về lịch sử, triết học Mác-Lênin đóng vai trị thế giới quan, phương pháp luận khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Với bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn cờ dẫn đường cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ, đưa đến thắng lợi của các cuộc cách mạng vô sản trên thế giới ở thế kỷ XX. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời và tồn tại đã tỏ rõ tính ưu việt của mình, đồng thời thể hiện sức sống trong lịng nhân loại tiến bộ, u chuộng hịa bình, tự do.

Tuy nhiên, sự thay đổi và phát triển không ngừng của thế giới và xã hội nước ta, sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ và thực tế khách quan đòi hỏi phải biết vận dụng sáng tạo triết học Mác-Lênin phù hợp với điều kiện thực tiễn mới, nhằm khẳng định giá trị bền vững của triết học Mác-Lênin nói riêng, chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, đồng thời, bổ sung, phát triển cho phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn.

Để chứng minh và làm rõ hơn về chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như cơ sở, yêu cầu, ý nghĩa của quan điểm khách quan theo triết học Mác-Lênin và việc vận

<b>dụng quan điểm khách quan này ở nước ta hiện nay, em xin phép chọn chủ đề “Phân tích cơ sở triết học, yêu cầu, ý nghĩa của quan điểm khách quan. Sự vận dụng quan điểm khách quan ở Việt Nam trước đổi mới và hiện nay” để </b>

làm nội dung bài thu hoạch hết môn Triết học Mác-Lênin.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Phần II NỘI DUNG </b>

Cơ sở lý luận triết học của quan điểm khách quan chính là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Do đó chúng ta sẽ phân tích mối quan hệ này và yêu cầu, ý nghĩa của nó trên cơ sở lý luận của triết học Mác-Lênin. Từ đó làm cơ sở vận dụng quan điểm khách quan này vào thực tế nước ta.

<b>1. Các khái niệm về vật chất, ý thức và mối quan hệ biện chứng giữa vật chất, ý thức </b>

<i><b>1.1. Các khái niệm về vật chất và ý thức </b></i>

<i>1.1.1. Khái niệm về vật chất: theo quan điểm triết học Mác-Lênin, vật chất là </i>

một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và

<i>tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. </i>

Như vậy, theo Lênin, vật chất là một phạm trù triết học (khái niệm rộng nhất) để phân biệt nó với vật chất trong các khoa học cụ thể, vật chất thông thường hàng ngày, với những biểu hiện cụ thể của vật chất - có giới hạn, có sinh ra và có mất đi; cịn vật chất theo quan niệm triết học là không sinh ra và không mất đi, vô tận, vô hạn. Mặt khác, vật chất là thực tại khách quan, tức tồn tại khách quan, ở bên ngoài và độc lập với ý thức con người và loài người. Thế giới vật chất tồn tại dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng chúng đều có một thuộc tính chung: tồn tại khách quan, ở bên ngồi và độc lập với ý thức con người và loài người. Vật chất là thực tại khách quan; nhưng thực tại khách quan này không tồn tại một cách trừu tượng, mà bằng cách nào đó (trực tiếp hay gián tiếp) tác động lên các giác quan của con người và được các giác quan này nhận biết. Không phải mọi hiện tượng vật chất khi tác động lên giác quan của con người đều được con người nhận biết; có cái phải qua dụng cụ khoa học, thậm chí có cái bằng dụng cụ khoa học cũng chưa thể nhận biết, nhưng nếu nó tồn tại khách quan, ở bên ngồi và khơng phụ thuộc vào ý thức của con người thì nó vẫn là vật chất.

<i>1.1.2. Khái niệm về ý thức: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức là </i>

một thuộc tính của vật chất, nhưng khơng phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

tính của vật chất sống đặc biệt có tổ chức cao, đó là bộ não của con người, là sự phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngồi vào bộ óc con người trên nền tảng của hoạt động lao động sáng tạo được thực hiện hố bằng ngơn ngữ; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

- Về nguồn gốc của ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. Trong đó nguồn gốc tự nhiên gồm bộ óc con người và thuộc tính phản ánh của bộ óc với tư cách là hình thức phản ánh cao nhất của thế giới vật chất. Cái quyết định để hình thành ý thức là nguồn gốc xã hội, đó là lao động, ngơn ngữ. Nhờ có ngơn ngữ, con người mới có thể khái qt hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính của vật chất, để có hiểu biết sâu về bản chất của sự vật. Ngơn ngữ cịn là phương tiện để truyền đạt kinh nghiệm hiểu biết của con người thế hệ trước cho thế hệ sau. Nhờ được kế thừa nên ý thức của con người ngày càng phát triển.

- Về bản chất, ý thức suy cho cùng là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người một cách năng động, sáng tạo, chủ động, tích cực, mang bản chất xã hội.

- Về kết cấu, ý thức có kết cấu phức tạp bao gồm nhiều thành tố có quan hệ với hữu cơ. Tuỳ theo cách tiếp cận, có thể phân chia kết cấu ý thức ở những góc độ khác nhau như: theo chiều ngang (tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí...), theo chiều dọc (thế giới nội tâm của con người như tự ý thức, tiềm thức, vô thức). Những yếu tố này tạo nên tính chất phong phú, phức tạp trong thế giới tinh thần của con người.

<i><b>1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức </b></i>

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, vật chất và ý thức liên hệ biện chứng mật thiết với nhau, trong đó vật chất quyết định ý thức; ý thức tác động trở

<i><b>lại vật chất. </b></i>

<i>1.2.1. Vật chất quyết định ý thức: được thể hiện trên một số khía cạnh sau: </i>

- Thứ nhất, vật chất “sinh” ra ý thức; vật chất có trước, ý thức có sau. Ý thức chỉ là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người. Ý thức cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

óc con người là kết quả tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên.

- Thứ hai, vật chất quy định nội dung của ý thức. Vật chất phong phú, phức tạp thì ý thức phản ánh nó cũng có nội dung phong phú, đa dạng, phức tạp.

- Thứ ba, vật chất thay đổi thì sớm hay muộn, ý thức cũng phải thay đổi theo. Trong xã hội, đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay đổi theo.

<i>1.2.2. Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất: điều </i>

này được thể hiện trên những khía cạnh sau:

- Thứ nhất, ý thức có thể khơng thay đổi đồng thời cùng với sự thay đổi của vật chất, thông thường sự thay đổi của ý thức chậm hơn so với sự thay đổi của vật chất.

- Thứ hai, vai trị của ý thức thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động nhận thức của con người bằng cách hình thành nên những ý định, tư tưởng, mục tiêu, kế hoạch, biện pháp. Nó có thể quyết định tính đúng hay sai, thành công hay thất bại trong hoạt động thực tiễn. Khi phản ánh đúng hiện thực khách quan, ý thức có thể dự báo một cách tương đối chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên lý luận khoa học, soi đường chỉ đạo hiện thực. Khi ý thức phản ánh sai lệch hiện thực có thể dẫn đến thất bại trong hoạt động thực tiễn của con người.

- Thứ ba, xã hội càng phát triển thì vai trị của ý thức ngày càng to lớn, nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc

<b>Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong bối cảnh tồn cầu hóa, vai trị của tri </b>

thức khoa học, của tư tưởng chính trị, tư tưởng nhân văn là hết sức quan trọng. Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: phải khơi dậy khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc, niềm tự hào, tự tin, tài năng trí tuệ để đổi mới tư duy, thúc đẩy sự phát triển đất nước nhanh và bền vững.

<b>2. Yêu cầu, ý nghĩa của quan điểm khách quan theo triết học Mác-Lênin </b>

Thế giới quan triết học duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học, yêu cầu phải quán triệt quan điểm khách quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm khách quan yêu cầu:

<i>- Thứ nhất, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ trương, đường </i>

lối, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

kiện, tiền đề vật chất hiện có. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII cho rằng, mọi chủ trương, đường lối phải bám sát thực tiễn của đất nước và xu thế của thời đại.

<i>- Thứ hai, phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không </i>

làm như vậy, chúng ta sẽ phải gánh chịu những hậu quả tai hại khôn lường. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII cho rằng, đổi mới phải tôn trọng quy luật khách quan không được lấy ý muốn chủ quan thay cho điều kiện khách quan.

<i>- Thứ ba, nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng bản chất, </i>

không được tô hồng hoặc bôi đen đối tượng, khơng được gán cho đối tượng cái mà nó khơng có. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII chủ trương: phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.

<i>- Thứ tư, nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng nhìn chung phải xuất phát từ </i>

chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong vốn có của nó.

<i>- Thứ năm, quan điểm khách quan đòi hỏi phải phát huy tính năng động sáng </i>

tạo của ý thức, phát huy ý chí, khát vọng, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát huy vai trò nhân tố con người, chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ, bảo thủ, trì trệ, thiếu tính sáng tạo; phải coi trọng vai trò của ý thức, coi trọng công tác tư tưởng và giáo dục tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, phải giáo dục và nâng cao trình độ tri thức khoa học, củng cố, bồi dưỡng nhiệt tình, ý chí cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nói chung, nhất là trong điều kiện nền văn minh trí tuệ, kinh tế tri thức, tồn cầu hóa hiện nay; coi trọng việc giữ gìn, rèn luyện phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên, bảo đảm sự thống nhất giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học.

Để thực hiện được nguyên tắc khách quan và phát huy tính năng động của nhân tố chủ quan của con người, cần phải:

<i>- Một là, phải nhận thức và vận dụng đúng đắn các mối quan hệ lợi ích, phải </i>

biết kết hợp các loại lợi ích khác nhau, như: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần,... lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; phải có động cơ trong sáng,

<b>thái độ thật sự khách quan, khoa học, không vụ lợi. </b>

<i>- Hai là, thế giới quan triết học duy vật biện chứng giúp đội ngũ cán bộ </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

lãnh đạo, quản lý hiểu đúng ý nghĩa cuộc sống, giúp con người có ý chí và quyết tâm hoạt động vì sự tiến bộ của xã hội và của bản thân.

Thế giới quan triết học duy vật biện chứng sẽ là tiền đề xác lập nhân sinh quan tích cực, hình thành tình cảm, thái độ, hành vi của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,

<b>quản lý trong quan hệ với thế giới xung quanh và với những người khác. Trong </b>

thời đại ngày nay, khi các mối quan hệ xã hội đã trở nên hết sức phức tạp, tính chủ động của con người ngày càng được đề cao, thì vai trị của thế giới quan khoa học càng lớn. Thế giới quan triết học duy vật biện chứng là một trong những cơ sở quan trọng của quá trình hình thành nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nói cách khác, thế giới quan triết học duy vật biện chứng góp phần củng cố niềm tin, lý tưởng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, làm cho hoạt động lãnh đạo, quản lý có tính định hướng, có ý nghĩa hơn.

<i>- Ba là, thế giới quan triết học duy vật biện chứng giúp đội ngũ cán bộ lãnh </i>

đạo, quản lý có cơ sở khoa học để đấu tranh có hiệu quả chống lại các loại hình thế giới quan duy tâm, tơn giáo, siêu hình, khơng khoa học, để xây dựng đời sống xã hội lành mạnh, tiến bộ, phát huy được vai trò của con người trong hoạt động thực tiễn.

<i>- Bốn là, thế giới quan triết học duy vật biện chứng tạo cơ sở để nâng cao </i>

nhận thức, hiểu biết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Ngày nay, khoa học càng phát triển, càng củng cố tính đúng đắn của thế giới quan triết học duy vật biện chứng giúp con người nhận thức về thế giới đúng hơn và cải tạo thế giới hiệu quả hơn.

<i>- Năm là, thế giới quan duy vật biện chứng góp phần trang bị cho đội ngũ </i>

<b>cán bộ lãnh đạo, quản lý tầm nhìn xa, trơng rộng; khắc phục được bệnh kinh </b>

nghiệm, thiển cận, tùy tiện, sự vụ, chắp vá, mò mẫm, “chỉ nhìn thấy cây mà khơng thấy rừng”, lẻ tẻ, vụn vặt, tâm lý tiểu nông.

<i>- Sáu là, thế giới quan duy vật biện chứng sẽ khắc phục được bệnh chủ </i>

quan duy ý chí trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bệnh chủ quan duy ý chí là khuynh hướng cường điệu, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trị của ý chí; tách rời, thậm chí đối lập ý chí với ý thức; coi ý chí có tính độc lập tuyệt đối, xa rời hiện thực khách quan.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Trong cuộc sống, trong đời sống xã hội, cái vật chất và cái tinh thần, cái khách quan và cái chủ quan thường quyện chặt vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, ranh giới giữa chúng chỉ có tính tương đối. Điều đó dễ gây ra sự lẫn lộn, dễ lấy chủ quan thay cho khách quan, nghĩa là dễ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí.

Xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp chưa có tiền lệ đầy khó khăn, phức tạp, địi hỏi chủ thể phải phát huy cao độ nhân tố chủ quan, phải có nhiệt tình cách mạng và tính tự giác cao. Nhưng vai trò của nhân tố chủ quan càng lớn thì nguy cơ mắc bệnh chủ quan cũng càng lớn, vì khi đó người ta dễ cường điệu vai trò nhân tố chủ quan mà bất chấp quy luật khách quan, dễ lấy nhiệt tình cách mạng thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học, yếu kém về lý luận.

Bệnh chủ quan, duy ý chí ở Việt Nam khơng chỉ có nguồn gốc từ nhận thức (cường điệu, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trị của ý chí chủ quan con người) mà cịn có nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp (sai lầm “tả” khuynh trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; sai lầm có tính chất chủ quan nóng vội trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc). Bệnh chủ quan, duy ý chí, do những điều kiện lịch sử ở Việt Nam quy định nên có những nét đặc thù, biểu hiện ở lòng ham muốn và ảo tưởng “tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội” thơng qua các chủ trương, chính sách và hành động thực tiễn, chứ không phải bắt nguồn một cách tự giác từ một học thuyết duy tâm nào đó. Bệnh chủ quan, duy ý chí ở Việt Nam chủ yếu là do thiếu kiến thức, kém lý luận, ít kinh nghiệm, sự lạc hậu trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội gây nên.

<b>3. Quan điểm khách quan ở Việt Nam trước đổi mới và hiện nay </b>

Theo quy luật khách quan của triết học Mác-Lênin, muốn sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, trong suốt quá trình đổi mới của đất nước, không phải lúc nào Đảng và Nhà nước ta cũng thực hiện đúng quy luật khách quan này.

<i><b>3.1. Quan điểm khách quan trước thời kỳ đổi mới</b></i>

Trước thời kỳ đổi mới (trước Đại hội lần VI năm 1986), ở nước ta lạm phát “phi mã”, đời sống nhân dân thấp kém, tiêu cực xã hội gia tăng, tình trạng tiêu cực trong nội bộ, rồi việc ngăn sông cấm chợ, chia cắt thị trường làm cho giá cả ở mỗi

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nơi mỗi khác, khơng hình thành được thị trường thống nhất ngay trong từng khu vực, từng vùng, khiến cho tiền - hàng mất cân đối, cung cầu ngày càng căng thẳng, nhất là ở các trung tâm kinh tế như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đánh giá về mức độ sai lầm trong thời kỳ này, Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng đã “nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới có chặng đường đầu tiên”. Do chủ quan duy ý chí và bảo thủ trì trệ, Đảng đã có những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện trong giai đoạn này, vi phạm các quy luật khách quan, biểu hiện qua một số lĩnh vực cụ thể như “chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta tồn tại trong một thời gian tương đối dài”, do đó “đã có những biểu hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa”; chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ sản xuất” nên “có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ”.

Trên thực tế, do việc đầu tư cơ sở sai và tràn lan, khơng có cơ sở khoa học, khơng phù hợp với điều kiện thực tế về tài nguyên, lao động của từng vùng nên việc khai thác nguồn vốn đầu tư khơng hiệu quả, nhiều cơng trình đầu tư dở dang và thậm chí khơng đủ ngun liệu để đưa vào hoạt động, Ví dụ: Chiến dịch cải tạo tư sản sau năm 1975 tại miền Nam không thành công, mặc dù Nhà nước đã quốc doanh hố các xí nghiệp nhưng việc đầu tư vào công nghiệp không mang lại hiệu

đường khắp các tỉnh nhưng khơng chú trọng nguồn ngun liệu, có tỉnh không đủ nguyên vật liệu để cung cấp cho nhà máy hoạt động. Ngoài ra, cũng do chủ quan duy ý chí trong việc dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, một cơ chế “gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí”, nhiều chủ trương sai trong việc cả

i

cách giá cả, tiền lương, tiền tệ cùng với việc bố trí cơ cấu kinh tế chưa phù hợp. Xảy ra vấn đề này là do việc thiếu tầm nhìn xa trong sản xuất và đầu tư, muốn đi

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nhanh, đi tắt đón đầu mà khơng tính đến điều kiện khả năng thực tế, khơng tính đến quy luật khách quan của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuấtm dẫn đến sản xuất chậm phát triển. Mâu thuẫn giữa cung và cầu ngày càng gay gắt do việc áp dụng những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Do vậy, việc bỏ qua khơng thừa nhận và vận dụng những quy luậ

t khách quan

của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa vào việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế là nguyên nhân chính làm trì trệ, khủng hoảng trầm trọng nền kinh tế nước ta.

<i><b>3.2. Quan điểm khách quan sau thời kỳ đổi mới đến nay</b></i>

Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trước đó, Đại hội Đảng lần VI (năm 1986) đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng”. Đây là sự vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất nước. Đại hội Đảng lần VI đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội lần VI đã xác định "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, ln có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất”. Đại hội VI cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hồn tồn mới mẻ: Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ, lực lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi q xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Trên cơ sở đó, Đại hội VI xác định nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều chỉnh lại theo hướng “khơng bố trí xây dựng cơng nghiệp nặng vượt

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

quá điều kiện và khả năng thực tế”, tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực-thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Về cơ chế quản lý kinh tế thì lần đầu tiên khái niệm về hàng hóa, thị trường được đưa vào Nghị quyết một cách rõ ràng, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). Cơ chế quản lý kinh tế được Đại hội VI xác định cụ thể “Tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản lý kinh tế”. Phấn đấu thi hành chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch tốn kinh tế.

Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn kết quả sản xuất. Văn kiện Đại hội VI đã chỉ rõ “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế cịn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo”. Song song với các đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, việc đổi mới bắt đầu từ việc Đảng phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực, trình độ lý luận của Đảng để nhận thức đúng và hành động đúng phù hợp với hệ thống các quy luật khách quan. Bên cạnh đó việc đổi mới tư duy lý luận, tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ khoa học kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý và tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận, đổi mới và kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Đây là những biện pháp nhằm sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh của chủ quan duy ý chí của thời kỳ trước.

Để cụ thể hoá những đường lối, chủ trương trên, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết và chính sách phù hợp, khi triển khai thực hiện đã có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy sản xuất, cải thiện đời sống của người dân như:

</div>

×