Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

đề bài phân tích hiệu lực của thoả thuận về chế độ tài sản vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT – ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘILUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH</b>

<b>Đề bài: Phân tích hiệu lực của thoả thuận về chế độ tài sản vợchồng</b>

<b>Lưu ý: chỉ ra vướng mắc, khó khăn, bất cập của pháp luật khiphân tích (bình luận quan điểm này có vấn đề gì khơng và đề</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>1. Quy định của pháp luật</b>

<i><b>1.1 Về thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng</b></i>

Theo quy định tại Điều 47 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014(Luật

<i>HN&GĐ) thì “Trong trường hợp hai bên kết hơn lựa chọn chế độ tài sản theothỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hơn, bằng hình thứcvăn bản có cơng chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theothỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn”. Với quy định này để thỏa</i>

thuận chế độ tài sản (CĐTS) của vợ chồng có hiệu lực thì về hình thức trước khi đăng ký kết hôn các bên vợ chồng phải lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng và phải lập thành văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên trong khối tài sản của mình. Thời điểm xác lập chế độ thỏa thuận tài sản của vợ chồng phát sinh hiệu lực từ lúc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Như vậy, văn bản thỏa thuận là văn bản riêng và không được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, cũng như không phải là điều kiện bắt buộc trong thủ tục đăng ký kết hôn.

<b>1.2 Về thời điểm xác lập</b>

Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng được xác lập trước khi đăng ký kết hôn. Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của chế định này để phân biệt với các thỏa thuận khác có thể được xác lập trong thời kỳ hôn nhân như Thỏa thuận chia tài sản chung quy định tại Điều 38 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung quy định tại Điều 46 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014...

Mặc dù được lập trước khi kết hôn, nhưng thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng lại có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn hay thời điểm họ trở thành vợ chồng hợp pháp. Bắt đầu từ thời điểm đó, mọi vấn đề về tài sản của vợ chồng được thực hiện theo thỏa thuận.

* Lưu ý:

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Trong trường hợp nam nữ đã xác lập thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng nhưng sau đó khơng đăng ký kết hơn thì thỏa thuận đó sẽ khơng có giá trị pháp lý. Thỏa thuận này sẽ hết hiệu lực trong trường hợp vợ, chồng ly hôn trên thực tế hoặc trường hợp vợ chồng thỏa thuận thay đổi tài sản theo thoả thuận sang chế độ tài sản theo luật định.

<b>1.3 Hình thức thỏa thuận</b>

Theo điều 47 Luật hơn nhân và gia đình 2014 thì khi hai bên lựa chọn chế độ tài sản vợ, chồng theo thỏa thuận thì thỏa thuận đó phải được lập thành văn bản. Văn bản này bắt buộc phải được lập trước khi kết hôn.

Sau khi đã được lập thành văn bản, thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vẫn chưa thể phát sinh hiệu lực (Ngay cả khi đã được công chứng hoặc chứng thực). Văn bản này chỉ phát sinh hiệu lực khi vợ chồng hồn tất các thủ tục đăng kí kết hôn một cách hợp pháp. Trong trường hợp việc kết hôn không xảy ra, thỏa thuận về xác lập chế độ tài sản trong hôn nhân mặc nhiên không phát sinh hiệu lực. Có thể thấy, việc luật quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ, sau khi vợ chồng đã kết hôn mà không xác lập chế độ tài sản theo thỏa thuận thì chế độ tài sản theo pháp luật quy định mặc nhiên được áp dụng. Lúc này, vợ chồng muốn thỏa thuận về tài sản có thể áp dụng các quy định chung về việc chia tài sản chung trong thời kì hơn nhân được cụ thể tại các điều 39 đến 42 Luật hơn nhân và gia đình 2014.

<b>1.4 Nội dung của thỏa thuận</b>

Để một thỏa thuận có hiệu lực và phù hợp với quy định của pháp luật cũng như được cả vợ chồng công nhận, pháp luật quy định về những nội dung cơ bản được ghi nhận trong văn bản thỏa thuận như sau: Theo điều 48 luật hơn nhân và gia đình 2014 có

<i> Thứ nhất, tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng.</i>

Đây là nội dung căn bản quan trọng nhất, xác định tài sản nào là tài sản chung

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

và là tài sản riêng của vợ chồng. Thỏa thuận này nhằm tách bạch tài sản của mỗi bên trong quan hệ vợ chồng.

<i> Thứ hai, quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và</i>

giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình. Qua đó, nhằm để xác định nghĩa vụ tài sản của mỗi bên đối với bên thứ ba trong giao dịch dân sự.

<i> Thứ ba, điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế</i>

độ tài sản. Đây được xem là ghi nhận về hậu quả pháp lý của thỏa thuận trong trường hợp thỏa thuận bị vô hiệu hoặc chấm dứt theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định vợ chồng có thể thỏa thuận những nội dung khác có liên quan trong văn bản thỏa thuận. Trong quan hệ tài sản các bên vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận ban đầu. Với hình thức và nội dung của thỏa thuận chế độ tài sản được thực hiện tương tự như thỏa thuận trước đây.

Cũng cần lưu ý rằng, khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận khơng rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 và các quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định.

<i><b>1.3 Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu</b></i>

Thỏa thuận giữa vợ và chồng về CĐTS, dù hiện nay pháp luật chưa quy định chính thức là một hợp đồng, nhưng về nguyên tắc là một loại giao dịch. Và với tư cách là một loại giao dịch, các thỏa thuận này phải tuân thủ những điều kiện nhất định để phát sinh hiệu lực. Theo Điều 50 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

<i>“1. Thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng bị Tịa án tun bố vơ hiệu khi thuộcmột trong các trường hợp sau đây:</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>a) Khơng tn thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luậtDân sự và các luật khác có liên quan;</i>

<i>b) Vi phạm một trong các quy định tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng,quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thànhviên khác của gia đình.</i>

<i>2. Tịa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối caovà Bộ Tư pháp hướng dẫn khoản 1 Điều này”.</i>

Như vậy, với quy định này có thể thấy có ba lý do để Tịa án có thể tun bố vơ hiệu đối với một thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng.

<i> Thứ nhất, không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định</i>

tại Bộ luật Dân sự và các luật khác có liên quan.

Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

<i>“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:</i>

<i>a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;</i>

<i>b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn tồn tự nguyện;</i>

<i>c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đức xã hội.</i>

<i>2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”.</i>

Mặt khác, tại khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

<i>“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;</i>

<i>d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quyđịnh tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này”.</i>

Như vậy, trong trường hợp nam chưa đủ 20 tuổi hoặc nữ chưa đủ 18 tuổi có thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng thì thỏa thuận này sẽ bị vơ hiệu. Bởi một trong các bên chưa có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự.

Với quy định trên, nếu việc kết hôn bị tuyên bố hủy do vi phạm điều kiện về độ tuổi, hay điều kiện về sự tự nguyện thì thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng cũng bị tuyên bố vô hiệu theo.

<i> Thứ hai, thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng vi phạm một trong các quy định</i>

tại các Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật HN&GĐ năm 2014.

Các quy định tại Điều 29, 30, 31, 32 Luật HN&GĐ năm 2014 tạo thành một CĐTS cơ sở mà dù là CĐTS thỏa thuận hay CĐTS theo luật định cũng phải tuân thủ. Vi phạm một trong các nguyên tắc này thì thỏa thuận về CĐTS sẽ bị

<i>tun bố vơ hiệu. Có thể lấy ví dụ ngun tắc “vợ, chồng bình đẳng với nhau vềquyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sảnchung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”.</i>

Ngun tắc này rất quan trọng trong việc xác định sự bình đẳng của vợ chồng về quyền, nghĩa vụ trong gia đình. Theo đó, nếu trong thỏa thuận về CĐTS giữa

<i>vợ và chồng có quy định cho rằng “trong thời kỳ hơn nhân chỉ có người chồnglà lao động có thu nhập cho nên mọi định đoạt về tài sản chung cần phải có ýkiến của người chồng” thì thỏa thuận đó sẽ vô hiệu.</i>

<i> Thứ ba, nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp</i>

dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 thì: “Nội dung của thỏa thuận về CĐTS của vợ chồng bị vô hiệu do vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 của Luật HN&GĐ năm 2014 là trường hợp thỏa thuận đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng quy định từ Điều 110 đến Điều 115 của Luật HN&GĐ năm 2014 hoặc để tước bỏ quyền thừa kế của những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự hoặc vi phạm các quyền, lợi ích hợp pháp của cha, mẹ, con và các thành viên khác của gia đình đã được Luật HN&GĐ và pháp luật khác có liên quan quy định”.

<b>2. Bất cập và hướng hoàn thiện</b>

<i><b>2.1 Thời điểm xác lập chế độ thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng</b></i>

<i>Theo Điều 47 Luật HN&GĐ Việt Nam 2014 quy định: “Trong trường hợp haibên kết hôn lựa chọn CĐTS theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lậptrước khi kết hơn, bằng hình thức văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực. Chếđộ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kếthôn”. Tuy nhiên, theo yêu cầu của khoản 2 Điều 18 của Luật Hộ tịch Việt Namnăm 2014 “Giấy chứng nhận kết hơn phải có các thơng tin sau đây: a) Họ, chữđệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; nơi cư trú; thông tin vềgiấy tờ chứng minh nhân thân của hai bên nam, nữ; b) Ngày, tháng, năm đăngký kết hôn; c) Chữ ký hoặc điểm chỉ của hai bên nam, nữ và xác nhận của cơquan đăng ký hộ tịch”. Theo quy định nêu trên và đối chiếu các quy định khác</i>

của Luật này về thủ tục đăng ký kết hôn không thấy quy định về việc cơ quan đăng ký kết hơn hoặc phải ghi nhận có sự tồn tại của CĐTS thỏa thuận (trong giấy chứng nhận đăng ký kết hôn hoặc trong sổ lưu), hoặc phải kiểm tra về việc có hay khơng tồn tại CĐTS thỏa thuận.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Như vậy, quy định bắt buộc về thời điểm phải xác lập CĐTS thỏa thuận là trước khi kết hơn khơng có điều kiện để đảm bảo thực hiện. Do đó, kiến nghị cần bổ sung thêm vào trong các thơng tin cần có của giấy chứng nhận kết hôn thông tin rằng <i>“Vợ, chồng kết hôn trên cơ sở CĐTS thoả thuận” (nếu có).</i> Quy định này rất cần thiết trong việc quản lý của nhà nước, đặc biệt trong giải quyết tranh chấp về tài sản cũng như để bảo vệ người thứ ba trong việc tiếp cận thơng tin có liên quan đến quan hệ tài sản giữa vợ chồng.

<b>2.2 Các trường hợp chấm dứt thỏa thuận chế độ tài sản của vợ chồng </b>

<i> Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Hìnhthức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trongtrường hợp luật có quy định”. Vì vậy, khi có vi phạm điều kiện về hình thức,</i>

Tịa án chỉ tun bố vơ hiệu giao dịch nếu pháp luật có quy định “hình thức của giao dịch là điều kiện có hiệu lực của giao dịch”. Mặc dù Điều 47 Luật

<i>HN&GĐ có quy định rằng: “Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn CĐTStheo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hơn, bằng hìnhthức văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực”. Tuy nhiên, quy định này khơng</i>

nói rằng việc lập thành văn bản có cơng chứng, chứng thực là điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng. Cho nên, áp dụng các quy định pháp luật hiện hành, nếu vi phạm quy định về hình thức thì Tịa án không thể tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về CĐTS giữa và vợ chồng.

Vậy một câu hỏi đặt ra là khi thỏa thuận chế độ tài sản theo của vợ chồng bị vi phạm về hình thức thì có được áp dụng chế độ 2/3 thực hiện nghĩa vụ hay không. Theo quy định của điều 129 Bộ luật dân sự 2015 thì

<i>“- giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưngvăn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ítnhất 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>- giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắtbuộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất2/3 nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tịa ánra quyết định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, cácbên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”</i>

<i> Như đã nói ở trên nếu áp dụng quy định hiện hành vì bản chất thỏa thuận về</i>

chế độ tài sản vợ chồng đó vẫn là hợp đồng nên Tịa án khơng thể tun vơ hiệu Nhưng mặt khác có ý kiến lại cho rằng thỏa thuận về chế độ tài sản vợ chồng có những đặc thù riêng quy định về hợp đồng có xu hướng bảo vệ bên yếu thế đối lập với bên hôn nhân thì vợ chồng ngang bằng khơng ai yếu hơn ai. Thứ 2 là nếu không áp dụng chế độ tài sản theo vợ chồng thì có thể áp dụng theo luật định. Thứ ba là phải có cái để răn đe để vợ chồng thực hiện. Thứ tư là việc xác định thực hiện 2/3 nghĩa vụ không thể xác định được . Do đó, kiến nghị cần quy định rõ ràng các yêu cầu về hình thức đối với CĐTS thỏa thuận (về việc công chứng thỏa thuận, thời điểm xác lập) là một điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận về CĐTS giữa vợ và chồng, bởi CĐTS thỏa thuận đóng vai trị quan trọng khơng những đối với các bên vợ, chồng mà còn đối với người thứ ba. Do vậy, các yêu cầu nghiêm ngặt về hình thức là thật sự cần thiết.

<b>2.3 Về sửa đổi bổ sung chế độ tài sản theo thỏa thuận.</b>

Điều 49 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 17, 18 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. Theo đó, trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì trong thời kỳ hơn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của chế độ tài sản đó hoặc áp dụng chế độ tài sản theo luật định. Hình thức sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản theo thỏa thuận phải được lập thành văn bản có cơng chứng hoặc chứng thực. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

sản của vợ chồng có hiệu lực từ ngày được cơng chứng hoặc chứng thực. Vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan theo quy định. Quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm việc sửa đổi, bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Từ các quy định trên, văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng có thể được sửa đổi, bổ sung trong thời kỳ hôn nhân. Vậy trước khi kết hơn thì các bên có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung văn bản này không? Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị định 126/2014/NĐ-CP chỉ quy định quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung của vợ chồng (nghĩa là trong thời kỳ hôn nhân) mà không phải là quy định chung về quyền này. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Công chứng năm 2014 thì văn bản được cơng chứng có hiệu lực kể từ ngày được cơng chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng. Điều 421 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng. Hợp đồng có thể được sửa đổi khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật Dân sự. Hợp đồng sửa đổi phải tuân theo hình thức của hợp đồng ban đầu. Do đó, theo quan điểm của tác giả, việc thỏa thuận sửa đổi, bổ sung văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng có thể được thực hiện trước và trong thời kỳ hôn nhân.

Văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng có được chấm dứt

<i>khơng? Từ quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP “Trongtrường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì trongthời kỳ hơn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận ... áp dụng chế độ tài sản theoluật định”. Điều này có nghĩa, vợ chồng phải chấm dứt Văn bản thỏa thuận về</i>

chế độ tài sản của vợ chồng để chuyển sang thực hiện chế độ tài sản theo luật định.

</div>

×