Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.48 MB, 51 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>Hà Nội - 2017</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>KHOA LUẬT</small>
<small>Hà Nội — 2017</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">LOI CAM DOAN
<small>Tơi xin cam đoan day là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi. Cac</small>
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bat kỳ
<small>cơng trình nào khác.</small>
<small>Tác giả luận văn</small>
<small>Dương Văn Công</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và qua công tác thực tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của thây cô, sự quan tâm giúp đỡ của cơ quan cùng với sự
đóng góp của bạn bè, dong nghiệp, tơi đã hồn thành Luận văn thạc sỹ Luật học.
Qua đây tơi xin chân thành gửi lời cảm cảm ơn đến:
Ban chủ nhiệm Khoa Luật, Tổ bộ mơn Tư pháp hình sự, các giảng viên đã tận tình giảng dạy, truyền đạt những tri thức kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian
<small>học tập tại trường.</small>
Cảm ơn lãnh đạo đơn vị công tác đã tạo điều kiện để tôi được học tập, nâng
<small>cao trình độ.</small>
Cảm ơn Trung tâm thu viện Dai học Quốc gia Hà Nội, Thư viện Đại học Luật
<small>Hà Nội và Thư viện Học viện Tư pháp đã cho phép tra cứu và sử dụng các tải liệu</small>
nghiên cứu; Liên đồn luật sư Việt Nam đã đã giúp đỡ tơi số liệu về sự tham gia
Luật sư trong giải quyết vụ án hình sự.
Cảm ơn bạn bè, dong nghiệp và gia đình đã động viên, giúp đỡ tơi rất nhiều trong suốt thời gian học tập và hoàn thiện luận văn này.
Đặc biệt, Tơi xin dành sự kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Tuân, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện và hồn
<small>thành luận văn này.</small>
<small>Tác giả luận văn</small>
<small>Dương Văn Công</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">DANH MỤC NHỮNG TU DUOC VIET TAT
<small>BLHS Bộ luật hình sự</small>
<small>BLTTHS Bộ luật t6 tụng hình sự</small>
CQDT Co quan diéu tra
CQTHTT Co quan tién hành tố tung DTV Điều tra viên
HĐTP TANDTC Hội đồng thâm phán Tòa án nhân dân tối cao
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><small>MỤC LỤC</small>
0871001777. ... 1 1.Tính cấp thiết của đề tài...-¿- St 1 1E 1 121E112121211112121111121 11111 11t tye 1 2.Tình hình nghiên cứu dé tài...-- ¿2 St SE ‡EEE2E£EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEeErree 3
<small>3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ... -- -.- scscss‡++sssssserxes 5</small>
4.Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu...-- - - 25s + z+x+£e£zzsz2 6
<small>5.Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn...---- ¿2 + ++E+Ee£zEzEererxzxsrecee 7</small>
3-00 011... ẻằằẳằ. :a 7 Chương! MOT SÓ VẤN DE CHUNG VE NHỮNG NGƯỜI THAM GIA
TO TUNG TRONG PHÁP LUẬT TO TUNG HÌNH SỰ...-.--.- 8
1.1 Khái niệm người tham gia tơ tụng hình sự...--- 5c 2+s+EeEs£xzEezcrszxsreree 8 1.2 Phân loại những người tham gia tố tung ...---+- 2 +52+E+E++EeExzEerxsrrxeree 21
1.3 Khái quát lich sử pháp luật Việt Nam về người tham gia tố tụng từ sau cách
mang Thang Tám năm 1945 đến nayy...---2- 5: 2 SE+E£EE2E£EEEEEEEEEEEEEEEEEerxrrerrei 24 1.4. Những người tham gia tơ tụng trong pháp luật tố tụng hình sự của một số
nước trên thé giới...---- ¿+5 ESE9E9EE9E2EEE12EEE121511217121111111111111111111 111 x6 28
Chương 2 QUY ĐỊNH CUA PHÁP LUẬT VE NHỮNG NGƯỜI THAM
GIA TO TUNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIEN ÁP DỤNG... Error! Bookmark not
2.1 Quy định của pháp luật về những người tham gia tổ tụng hình sự... Error!
<small>Bookmark not defined.</small>
2.1.1 Quy định của pháp luật về những người tham gia té tụng liên quan trực tiếp đến VU AD ececcccecccecscscseseseseseseescecevsvsesvsesesececeeesevens Error! Bookmark not defined. 2.1.2 Quy định pháp luật về người bào chữa, người bao vệ quyền lợi ích của người
<small>bị hại, đương SU ...- 7. cSSSsSSsseeeeres Error! Bookmark not defined.</small>
2.2 Thực trang áp dung các quy định về những người tham gia tố tụng hình sự
<small>— Error! Bookmark not defined.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">2.2.1 Thực trạng xác định tư cách những người tham gia tố tụng hình sự...Error!
<small>Bookmark not defined.</small>
2.2.2 Thực trạng bảo đảm sự tham gia và quyền của những người tham gia tố tụng
<small>hình SU ...- E1 1111111111113 15551111 eg Error! Bookmark not defined.</small>
Chương3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VA NANG CAO
HIỆU QUA ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CUA PHÁP LUẬT VE NHUNG
NGƯỜI THAM GIA TO TUNG HÌNH SỰ... Error! Bookmark not defined.
3.1 Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về những người tham gia 06 tỤN...c- 5c 2c 1 2222212112121 112212 Error! Bookmark not defined. 3.2 Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về những người tham gia tố tung
<small>hình SU ... << 11111 S HS SH 21111 rrrea Error! Bookmark not defined.</small>
3.3 Các giải pháp nâng cao hiệu áp dụng pháp luật về những người tham gia tố
<small>tụng hình Sự ...-c c1 1+2 v12 tr rưyy Error! Bookmark not defined.</small>
3.3.1 Cần có văn bản hướng dẫn cần có hướng dẫn về NTGTT khi giải quyết vụ
án hình sự tại phiên tòa phúc thâm... Error! Bookmark not defined. 3.3.2 Nang cao năng lực của người tiến hành tổ tụng... Error! Bookmark not
3.3.3 Nâng cao số lượng và chat lượng của người bao chữaError! Bookmark not
<small>3.3.4 Các giải pháp khác...---.-‹cc+s<ccsssss2 Error! Bookmark not defined.</small>
KET LUẬN...--- 5-5 c2 SE eErrkerrreres Error! Bookmark not defined.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài
<small>CQTHTT, THTT và NTGTT là những chủ thể của hoạt động TTHS. Việc tham</small>
gia của những người này rất quan trọng bởi thế mà PLTTHS của các nước đều quy định những chủ thê này phải tham gia vào việc giải quyết VAHS nhưng tùy từng thể chế nhà nước, hệ thống pháp luật mà các chủ thé TGTT có phạm vi, địa vị pháp lý của những người này khác nhau đồng thời mức độ tham gia TTHS khác nhau. Việc CQTHTT và người THTT có phải và cũng nên coi là NTGTT thì hiện nay có nhiều
quan điểm chưa thống nhất. Trong luận văn này, chúng tôi nghiên cứu về những
<small>NTGTT độc lập với CQTHTT và NTHTT trên cơ sở quy định của PLTTHS Việt</small>
<small>Nam gọi là NTGTT.</small>
Việc quy định TGTT của những NTGTT suy cho cùng cũng là dé bảo vệ bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền và lợi ich hợp pháp của các tổ chức, cá nhân. Mục
đích của việc nghiên cứu về các quy định của pháp luật nói chung và PLTTHS nói
riêng đều hướng dé bảo đảm quyền con người được tốt và hoàn thiện hơn. Hay nói
theo GS.TSKH Đào Trí Úc: “Vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự có thé được coi là trục xoay của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự” [76, tr.8]. Quyền
con người trong PLTTHS được thé hiện dưới nhiều chế định, trong đó có chế định về NTGTT mà trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của những NTGTT- nếu được quy
định đầy đủ và được bảo đảm nó sẽ là lá chăn quan trọng và vững chắc nhất đối với
quyền con người nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ những cơ quan tố tụng. Quyền và nghĩa vụ của những NTGTT trong PLTTHS nước ta không ngừng
được bổ sung và hồn thiện. Q trình thi hành BLTTHS 2003 thấy rằng các quy
định về quyền và nghĩa vụ của những NTGTT đã phần nào bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT nhưng xét dưới góc độ quyền con người cần phải được tiếp tục nghiên cứu, bố sung và hoàn thiện nhất là đối với bị can, bị cáo. Mặt khác quy định PLTTHS hiện hành còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu thống nhất và chưa có hướng dẫn chính thức của các CQTHTT dẫn đến nhận thức chưa thống nhất của CQTHTT và NTHTT nên không ít trường hợp xác định NTGTT không đúng tư cách dẫn đến
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">việc giải quyết vụ án kéo dài, phải xét xử nhiều lần, nhiều bản án bị huỷ, bị sửa vì xâm phạm đến quyên và lợi ích hợp pháp của NTGTT.
Hồn thiện chế định về NGTTT, đảm bảo quyền con người, quyền bình đẳng
của các bên trong tranh tụng là yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay. Nghị quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ: “Xác định rõ hơn vị trí, quyên hạn, trách nhiệm của người tiễn hành tổ tụng
và người tham gia t6 tụng theo hướng bảo đảm tinh công khai, dân chủ, nghiêm
Hiến Pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, nhiều nội
dung đã được hiến định trong đó có nội dung về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Hiến Pháp đã đổi tên chương từ “Quyền và nghĩa vụ cơ
ban của công dân”, chuyến vị tri từ chương V lên chương II sau chương I về chế độ chính trị, đồng thời đã bổ sung va làm rõ thêm nhiều quyền phù hop với các Công
ƯỚớc quốc tế về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà Việt Nam là thành viên. Những sửa đổi b6 sung lần này không đơn giản chỉ thuần túy về mặt kỹ
thuật, mà lớn hơn cả đó là thé hiện bước tiến mới của chúng ta trong tư duy, nhận
thức về quyền con người tiệm cận tới giá tri phô quát của nhân loại về dân chủ,
nhân quyên [63, tr.32]. Quán triệt tinh thần của cải cách tư pháp, triển khai Hiến pháp và dé khắc phục những tơn tại, bat cập trong q trình thực thi BLTTHS 2003, ngày 27/11/2015 tại kỳ họp Quốc hội khóa 13 đã thông qua BLTTHS mới-BLTTHS 2015 so với mới-BLTTHS 2003, Bộ luật này gồm có 510 điều, trong đó bổ sung mới 176 điều, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều, liên quan đến NTGTT thì đã bé sung thêm nhiều diện (loại) TGTT mới mặt khác đã bé sung các quyền và cơ chế bảo đảm quyền của NTGTT một cách chặt chẽ, khả thi, phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là cơ chế bảo đảm
cho người bị buộc tội nắm được các chứng cứ buộc tội nhằm thực hiện tốt việc
tranh tụng [6, tr 23]. BLTTHS 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015 có hiệu lực ngày 17/1/2016 nhưng do có một số sai sót của luật nội dung- BLHS 2015, tại Nghị quyết số 144/2016/QH13 của Quốc hội ngày 29 tháng 6 năm 2016 lùi ngày
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">có hiệu lực thi hành của BLTTHS 2015 [41]. Do vậy, thời điểm tác giả viết luận
<small>văn này thì BLTTHS 2003 vẫn có hiệu lực nên việc nghiên cứu, đánh giá vẫn dựa</small>
trên các quy định của BLTTHS 2003 song luận văn còn phải giải quyết và đưa ra những định hướng hay những đề xuất mới nên tác giả có đề cập, lồng ghép, nhận
<small>định và đánh giá cả các quy định của BLTTHS 2015 có liên quan.</small>
Với tất cả các vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu về NTGTT khơng chỉ có ý nghĩa trong việc tun truyền, phổ biến Hiến pháp, PLTTHS mà cịn việc xây dựng và
<small>hồn thiện pháp luật. Mặt khác cịn có ý nghĩa trực tiếp trong thực tiễn về việc bảo</small>
vệ, hoàn thiện quyền của NTGTT cũng chính là quyền con người, quyền cơng dân. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Những người tham gia t6 tụng trong Luật to tụng
hình sự Việt Nam) làm đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tinh hình nghiên cứu đề tài
Trước hết, Việc nghiên cứu chuyên sâu về toàn bộ (những) NTGTT rất khó khăn vì diện (loại) NTGTT thường rất đơng- theo quy định pháp luật TTHS hiện
<small>nay được chia làm 12 tư cách (loại) người, trong đó mỗi người tham gia với vai trị,</small>
địa vị pháp lý khơng giống nhau. Mặt khác do giới hạn (hình thức: số trang) của các
<small>cơng trình nghiên cứu. Nên trên các sách báo khoa học pháp lý hay các cơng trình</small>
khoa học các tác giả, nhà khoa học thường nghiên cứu theo hai hướng chính:(¡) về
từng NTGTT hay (ii) nhóm người TGTT - có địa vị pháp lý gần giống nhau. Chang
về Người bi tạm giữ, bi can, bi cáo: “Hoàn thiện các quy định của BLTHS về quyên va nghĩa vụ cua bị can, bị cáo và cơ chế bảo đảm thực hiện” của TS Chu Thị Trang Vân đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2009; Mộ số ý kiến hoàn
thiện BLTTHS về quyên và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị cáo, bị can” của đồng tác gia ThS. Doan Tạ Cửu Long và ThS Nguyễn Tan Hảo đăng trên tạp chí Kiểm sát số 21/2012; “Dia vị pháp lý của người tạm giam, tạm giữ, bị can bị cáo trong tơ
<small>tụng hình sự” của Doan Thi Phuong Thao, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật. DHQGHN</small>
năm 2012; “Người bị tạm giữ trong tổ tụng hình sự” của Hồng Thị Hồng Chiêm,
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Luận văn thạc sĩ năm 2014; “Quy định pháp luật quyên bào chữa của bị cáo trong hoạt động xét xứ sơ thẩm các vụ án hình sự của Tịa án nhân dân- Thực trạng và kiến nghị” của ThS Võ Quốc Tuan tạp chí Nghé Luật số 4 tháng 9/2015...
- Về người bị hại: “Bao đảm quyên và lợi ích hợp pháp của người bị hại trong pháp luật t6 tụng hình sự Việt Nam” của TS Vũ Gia Lâm, tạp chí Luật học số
11/2011; “Khởi tổ vụ án theo yêu cầu của người bị hạ?” của Lê SY Quế đăng trên tạp chí Luật học; “Mới số van dé về người bị hại trong pháp luật tổ tụng hình sự Việt Nam” của ThS Lê Thi Thúy Nga; “Người bị hại trong luật to tụng hình sự Việt
- Về Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: “Người có quyén lợi, nghĩa vụ
liên quan trong to tụng hình sự", Nguyễn Thị Thúy Ngọc, luận văn thạc si, Khoa Luật, năm 2008; Một số vấn dé về Hgười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
theo quy định của Bộ luật tổ tụng hình sự, của ThS Phan Thanh Tùng, ...
- Về Người bào chữa: “Nâng cao vị thé của người bào chữa tại phiên tịa hình
sự” đăng trên tạp chí Luật học số 7/2008; “Giải pháp nâng cao vai trị của Luật sư
<small>trong q trình tham gia xét xử tại tòa dn” của Nguyễn Hữu Chỉnh và ThS Nguyễn</small>
Kim Chi, tạp chí Nghề Luật số 1 /2015...
- Về Người phiên dịch, người giám định, người làm chứng: “Người làm
chứng trong vụ án hình sự” của Nguyễn Minh Tién đăng trên tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 12/1998; “Người làm chứng và quyên của người làm chứng trong
<small>BLTTHS 2003 - Thực trạng và định hướng hoàn thiện” của TS Phan Thị Hương</small>
Thủy, năm 2006; “Vé người làm chứng trong hoạt động tổ tụng hình sự” của ThS
Phạm Quang Định, tạp chí Luật học số 2/2007; “Bảo đảm quyên của người tham
gia to tung theo nghĩa vụ pháp lý trong to tụng hình sự Việt Nam” của Trần Thảo, Luật án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật TP Hồ chính Minh năm 2015;
<small>Cịn việc nghiên cứu vê NTGTT có một sơ cơng trình và các tác gia sau:</small>
“Xác định tư cách tham gia tơ tụng hình sự "của Đàm Duy Vuong đăng trên tạp chí
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">Toa án nhân dân số 12/1999; “Vai suy ngẫm về việc hoàn thiện các quy định về người tham gia tơ tụng trong tơ tụng hình sự Việt Nam” của Trịnh Văn Thanh, đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật (1999); “Việc quy định những người tham gia tổ
tụng trong Bộ luật T: ó tụng hình sự” của Lê Xn Thân đăng tạp chí Tịa án nhân
dân số 4/2000. Các bài viết này đều có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn
nhất định về vẫn đề chúng tôi nghiên cứu song những bài viết này được viết chủ yếu trong khoảng thời gian trước năm 2003 (trước thời điểm BLHS năm 2003 được ban
<small>hành). Vào năm 2006, tại Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Phong (Đại học Luật Hà</small>
Nội) “Phân biệt các loại người tham gia tổ tụng theo luật tổ tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn này, tập trung giải quyết một số vấn đề nhằm lẫn trong việc xác
định NTGTT từ quy định pháp luật và thực tiễn về một số loại NTGTT; Cịn gần
đây nhất có bài viết “Một số kiến nghị hoàn thiện chế định người tham gia to tung
trong Bộ luật tố tụng hình sự” ThS Thái Chi Binh, tạp chí Nghề Luật số 2/2015, với bài viết này đã đề cập một số vấn đề hoàn thiện về NTGTT.
Trên cơ sở đó nhìn một cách tổng quan có thé khang định chưa có cơng trình
nghiên cứu chuyên khảo cấp thạc sĩ nào nghiên cứu cụ thé về NTGTT (nhất là khi
sau khi chúng ta có Hiến pháp năm 2003 và gần đây vừa xây dựng và ban hành BLTTHS 2015) việc nghiên cứu về chế định và thực tiễn áp dụng pháp luật về NTGTT là cần thiết. Do vậy, Có thé khang định việc nghiên cứu dé tài “Những người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” là địi hỏi khách quan,
<small>cap thiệt, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiên.</small>
<small>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn</small>
<small>Mục đích nghiên cứu của luận văn: Làm rõ lý luận và thực tiễn áp dụng các</small>
quy định pháp luật về những NTGTT trong PLTTHS Việt Nam; đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhăm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu qua áp dụng các quy định của pháp luật về những NTGTT trong TTHS Việt Nam
<small>Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">- Nghiên cứu làm rõ lý luận về NTGTT: khái niệm, phân loại những NTGTT trong TTHS; những NTGTT ở một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu các quy định pháp luật về những NTGTT và thực tiễn áp dụng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật trong việc quy định về NTGTT và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về những
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bao gồm các vẫn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về
<small>những NTGTT, một sô loại NTGTT theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam</small>
Pham vi nghiên cứu: Đề bảo đảm tinh bao quát và toàn diện của van đề nghiên
cứu - về những NTGTT, tác giả xin được tập trung nghiên cứu về mặt lý luận về
NTGTT, mặt khác tác giả xin được lựa chọn một số NTGT như: nhóm NGTTT có
quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến vụ án và nhóm người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho bị hại, đương sự dé làm rõ, bố sung lý luận về những NTGTT trong TTHS Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu tác giả sẽ tổng hợp, đánh giá các
quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về NTGTT trong TTHS Việt Nam.
Từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường, bảo đảm quyền của những NTGTT trong TTHS Việt Nam.
<small>Phương pháp nghiên cứu của luận văn:</small>
<small>Phương pháp được sử dụng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch</small>
sử của Chủ nghĩa Mác Lênin; Tư tưởng về Nhà nước và pháp luật của Hồ Chí Minh
<small>làm nên tảng cho q trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.</small>
Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập số liệu,
thông tin, thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá, so sánh...
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn Những điểm mới của luận văn
Sau quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, Luận văn thu được những kết quả nhất định, có thé xem những kết quả sau đây là điểm mới của luận văn:
Thứ nhất, làm rõ vẫn đề lý luận về những NTGTT trong PLTTHS;
Thứ hai, từ việc nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới về cách tiếp cận
cũng như quy định NTGTT trong pháp luật dé thấy được những ưu điểm và hướng tham khảo để PLTTHS Việt Nam tiếp cận;
Thứ ba, từ quy định của pháp luật và những vướng mắc trong thực tiễn khi xác định NGTT thấy được tồn tai và những nguyên nhân và dé
Cuối cùng, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phan hồn thiện pháp luật trong việc
quy định về chủ thể NTGTT nói riêng
Ý nghĩa của luận văn: Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn góp phần hồn
thiện hệ thống pháp luật về các quy định về NTGTT. Ngoài ra, đề tài cịn có thé
<small>dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu trong các Trường Đại học có đảo tạo ngành</small>
<small>luật, các cán bộ nghiên cứu, cán bộ công tác tại CQTHTT, Luật sư và người khác có</small>
<small>quan tâm.</small>
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
Chương 3: Giải pháp về hoàn thiện pháp luật và năng cao hiệu quả áp dụng các
quy định pháp luật về những người tham gia to tụng
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>Chương 1</small>
MOT SO VAN DE CHUNG VE NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TO TUNG
TRONG PHAP LUAT TO TUNG HINH SU’
1.1 Khái niệm người tham gia tố tụnghình sự
Nếu như LHS quy định về TNHS, tội phạm, cau thành tội phạm, hành vi nào bị coi là tội phạm và hậu quả pháp lý đối hành vi tội phạm gây ra... thì LTTHS quy định trình tự, cách thức của những chủ thê tô tụng tham gia đề giải quyết, chứng minh hành vi phạm tội cụ thé có vi phạm, đáp ứng các quy phạm LHS hay không và giải quyết các vấn đề phát sinh do hành vi phạm tội gây ra (nêu có). Đây là biểu hiện của
thực hiện hai nhiệm vụ: vừa phải xác định cho được sự thật của vụ án, bảo đảm để
công lý được thực thi nhưng lại vừa phải bảo đảm thế nào để trên con đường đi tìm sự
thật và cơng lý thì quyền của tất cả những ai có liên quan đều phải được tôn trọng, bao đảm và bảo vệ [76, tr.8]. Như vậy, có thé thấy rằng, trong tơ tụng luôn phản ánh, chứa đựng những mối quan hệ đa chiều và mang trong mình nó nhiều nghịch lý của
<small>các mơi quan hệ.</small>
TTHS là “cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan tiễn hành tô tụng, người tiến hành tô tụng, người tham gia tô tụng, của các cơ quan nhà
nước khác và các tổ chức xã hội góp phan vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tô tụng hình sự” [86, tr.786] Với định nghĩa này, ngồi Cơ quan Nha
nước đại điện trong tư pháp hình sự là các CQTHTT (Cơ quan điều tra, Viện kiểm
<small>sát, Tòa án), những người trong các cơ quan nay (Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Co</small>
quan điều tra, điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát
viên; Chánh án, Phó Chánh án Tịa án, Thâm phán, Hội thâm, Thư ký Tòa án); và
<small>những NTGTTT (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị</small>
đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người phiên dịch) thì cịn có đề cập đến các Cơ quan Nhà nước khác (ngoài các CQTHTT trên) và các tổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">chức xã hội đã cho chúng ta thấy chủ thé tham gia TTHS là rất đa dạng, mang tinh phô quát từ các nguyên tắc của TTHS Việt Nam như: nguyên tắc “trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân và cơng dân trong đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm”, nguyên tắc “sự phối hợp của các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiễn hành tố tung”.v.v... những chủ thể này góp phần khơng nhỏ trong việc giải quyết VAHS sự nói chung
nhưng những chủ thé này có thực hiện cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động
TTHS hay khơng thì cần phải xem lại: cơ quan Nhà nước khác là cơ quan nào? Tắt cả các cơ quan Nhà nước hay một số cơ quan Nhà nước? Theo quy định của pháp luật thì tham gia vào việc giải quyết VAHS thì chỉ có một số cơ quan được giao một số hoạt động điều tra (Bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, kiểm ngư, lực lượng Cảnh sát biển và một số co quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân...), tương
tự đối với các tô chức xã hội có tham gia khi NTGTTT thuộc tơ chức của mình TGTT
với đại điện (Đoàn thanh niên đại diện cho NTGTT dưới 18 tuổi..).v.v.. Trong những trường hợp như thế này họ năm trong những NTGTT rồi. Do vậy, chúng tôi cho rằng với định nghĩa này trong từ điển đã nêu về TTHS cần phải xem lại cho phù hợp với
thực tiễn pháp luật, tiến tới thống nhất về thuật ngữ này. Chúng ta có thé hiểu TTHS như sau: TTHS bao gồm toàn bộ các hoạt động của các chủ thể TTHS hướng tới việc giải quyết vụ án khách quan, cơng bằng, góp phan đấu tranh chống và phòng ngừa
tội phạm, bảo vệ quyên con người [25, tr.17].
<small>Trong bat kỳ một hệ thong TTHS nao cũng đều tồn tại các nhu cầu được đặt ra</small>
bởi tính chất của tố tụng là: truy tổ tội phạm và người phạm tội; bảo chữa của bị can,
<small>bị cáo và luật sư của họ; hoạt động xét xử của tòa án. Từ đó, ba chức năng: buộc tội,</small>
Trong TTHS Việt Nam hiện hành không tồn tại việc khu biệt ba chức năng tố tụng cho từng chủ thể tố tụng, chăng hạn Tòa án đáng lẽ là cơ quan tài phan-trong tai giữ
<small>vai trò khách quan ở giữa bên buộc tội va bao chữa thi Tòa án Việt Nam cũng di</small>
chứng minh, cũng có chức năng khởi tố VAHS... tức là thực hiện cả chức năng
<small>buộc tội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">PLTTHS Việt Nam chia các chủ thể tham gia vào quan hệ tố tụng thành: CQTHTT, NTHTT và NTGTT đã thể hiện việc không phân biệt thật rõ ràng mục đích của các chủ thé tố tụng dẫn đến sự không rõ ràng chức năng của các chủ thé đó và trong tổng thé điều đó khơng tạo ra được động cơ và động lực thúc đây hiệu quả
của TTHS, nếu xét tiêu chí của hiệu quả là xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và của công dân.
Cần từ bỏ cách chia các chủ thé quan hệ tố tụng như PLTTHS như hiện nay mà phải đều là chủ thé các quan hệ tố tụng và trên cơ sở xác định rõ ràng mục đích và lợi ích của các chủ thé đó mà hình thành các bên trong quan hệ tố tụng. Các bên cần được quyền ngang nhau về khả năng đưa ra chứng cứ, lẫy lời khai người làm chứng. Cần tăng cường những bảo đảm cho tính cơng khai của hoạt động điều tra, tăng cường
giám sát hoạt động điều tra theo hướng gan công tổ với điều tra như các văn kiện
của Đảng và Nhà nước[76, tr.12], tác giả đồng tình với nhận định này, nhưng tác giả cũng băn khoăn nếu phân chủ thé tố tụng dựa trên chức năng tố tụng nêu trên thi một sô NTGTT không biết được đưa vào bên tố tụng nao (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch..). Khi nhìn vào lịch sử TTHS Việt Nam cho thấy kỹ thuật lập pháp luôn khu biệt CQTHTT, NTHTT và NTGTT thành hai chế định
tương ứng thành hai chương trong PLTTHS, điều này dẫn đến nhận thức chỉ những
<small>người nao được quy định, liệt kê trong chương NIGTT mới là NTGTT hình sự, cịn</small>
có được quy định, được nhắc đến trong chương khác, trong giai đoạn TTHS, ví dụ như người tố giác, người kiến nghị khởi tố hay người chứng kiến tại BLTTHS 2003 thì khơng phải NTGTT? Điều này cũng đã dẫn đến những hạn ché, gây khó khăn nhất định trong giải thích các quyền và nghĩa vụ trong các giai đoạn TTHS khác nhau của
<small>CQTHTT, NTHTT và cũng khó khăn với chính những NTGTT khi thực hiện các</small>
quyền và nghĩa vụ của mình. Do vậy, tác giả cho rằng để giữ nguyên “truyền thống” mà đảm bảo được chức năng của TTHS- thé hiện một cách gián tiếp thành các bên trong tố tụng dé làm được điều này chúng ta phải thay đổi, nhận thức lại về chủ thê là Tòa án, còn những NTGTT đặc biệt lưu ý đến những quyền và cơ chế bảo đảm
quyền của NTGTT (đặc biệt là người bị tạm giữ, bị can bị cáo- quyền bào chữa của
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">họ, quyền thu thập chứng chứ, tranh tụng tại phiên tòa.v.v...), b6 sung diện người
<small>mới vào chương NTGTT và nâng cao trách nhiệm của những NTHTT ở các giai</small>
đoạn tố tụng khi khi thực hiện trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ cho những
<small>Những NTGTT hình sự được quy định tai chương IV BLTTHS nhưng quan</small>
điểm NTGTT gồm những cơ quan, tô chức hay cá nhân nào thì cho đến nay vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau. Theo TS. Nguyễn Văn Tuân, hiện nay có ba quan điểm khác
<small>nhau [66, tr.129-130]:</small>
Quan điểm thứ nhất cho rằng, những NTGTT cần được hiểu theo nghĩa hep va
dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa và người bảo
vệ quyền và lợi ích của đương sự. Những NTGTT là những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Khi tham gia tố tụng, họ có nhiều quyền và nghĩa vụ, sự tham gia của họ có tác dụng đối với sự tiến triển và kết quả của vụ án. Theo quan điểm nảy thì người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và những người khác như người chứng kiến, nhà chuyên môn và bác sĩ pháp y một cách thụ động họ là những người được NTHTT “trưng dụng” để giúp làm sáng tỏ vụ án trong quá trình tiến hành các hoạt động tổ tụng. Vậy nên đưa họ vào danh sách những người được giao nhiệm vụ, được tham gia một số hoạt động tố tụng hoặc tách
<small>thành một chương riêng và đặt cho một cái tên khác cho phù hợp.</small>
Quan điểm thứ hai cho rằng, khơng nên bó hẹp phạm vi những NTGTT. Theo quan điểm này, ngoài những NTGTT theo quan điểm thứ nhất còn phải kê đến người làm chứng, người giám định, người phiên dịch... Những người này thực chất cũng tham gia vào hoạt động TTHS và hoạt động của họ góp phần thực hiện nhiệm vụ TTHS. Sự tham gia TTHS của họ mang tính chất hạn chế, khơng phải dé bảo vệ lợi ích của mình mà nhăm thúc đây hoạt động tố tụng.
Quan điểm thứ ba (hiểu theo nghĩa rộng) CQTHTT và NTHTT có góp phần hoạt động của mình vào hoạt động tố tụng hình sự khơng? Câu tra lời ln là có và
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><small>con giữ vai tro quan trọng trong hoạt động TTHS - họ là người đại diện cho Nha</small>
nước điều tra truy tố và xét xử vụ án. Vậy thì họ cũng chính là những người TGTT. Do vậy ngồi những NTGTT đã nói ở hai quan điểm nêu trên thì những người đại
diện cơ quan nhà nước có thâm quyền tiễn hành TTHS, vi vậy, thực chất họ cũng là
<small>những NTGTT [61, tr.58-59].</small>
Theo quan điểm của tác giả, với quan điểm thứ nhất, khi tách người làm chứng,
<small>người phiên dịch, người giám định ra phạm vi NTGTT thì chưa hợp lý, khi NTHTT</small>
“trưng dụng” để góp làm sáng tỏ vụ án tức là họ đã là NTGTT rồi. Do vậy không nhất thiết phải tách và quy định họ ở phần chương riêng với tên gọi khác. Còn theo quan điểm thứ ba, việc những người đại điện cơ quan nhà nước có thâm quyên tiễn hành tổ tụng cũng là NTGTT cũng có yếu tố hợp lý nhất là xem xét dưới góc độ ngôn ngữ, pháp luật của một số nước đặc biệt pháp luật theo mơ hình tố tụng tranh tụng, chức năng tổ tụng khơng phân biệt NTGTT như mơ hình tố tụng thẩm van chỉ nên coi
<small>những người đại diện này cùng với NTGTT theo quan điểm thứ hai là chủ thể của</small>
quan hệ tố tụng hình sự là hợp lý hơn vì: NTHTT là những người có quyền và nghĩa vụ mang tính quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà Nước cịn NTGTT thì khơng. Do vậy, NTGTT hiểu theo quan điểm thứ hai là hợp lý, phù hợp với quan điểm pháp lý về NTGTT của các nước trên thế giới (mơ hình thẩm van) cũng như PLTTHS Việt
Nam cũng như các quan niệm thông thường từ trước đến nay. Như vậy, NTGTT là
<small>gì? Hiện nay, có rât nhiêu khái niệm được đưa ra, chăng hạn:</small>
Trong Giáo trình Luật TTHS Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội: Người tham gia to tụng là những người có qun, lợi ích liên quan hoặc có nghĩa vụ pháp lý tham gia vụ án dé bảo vệ quyên, lợi ích của mình hoặc góp phan làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án [25, tr.186].
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật- Đại học Cần Thơ thì Người tham gia tơ tụng là những chủ thể có qun và lợi ích can được bảo vệ trước pháp luật, những người có nghĩa vụ pháp lý phải tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật to tụng hình sự, và những người tham gia tô tung
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">dé hỗ trợ pháp lý cho những người tham gia to tụng khác [24]. Các khái niệm về NTGTT trên đều dựa trên đặc trưng dia lý pháp lý của NTGTT dé xây dựng lên thành khái niệm song các khái niệm đều có điểm chung khi cho rằng trong số những NTGTT
<small>thì có nhóm NTGTT (như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch) theo</small>
nghĩa vụ pháp lý (bắt buộc) là chưa xác đáng vì họ tham gia họ cịn có những quyền nhất định, chang hạn như họ có quyền “từ chối khi có lý do chính dang”...
Cịn khái niệm: Người tham gia t6 tụng hình sự là người phải thực hiện đúng các yêu cẩu, các quyết định của cơ quan có thẩm quyên và có những quyên, nghĩa vu pháp lý tương ứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự [53] với khái niệm
này, chúng tôi cho rằng không thé hiện được tính bao quát và đường như đã đã làm lu mờ mục đích và chức năng cũng như ban chất của TTHS khi cho rằng NTGTT là người phải thực hiện đúng các yêu cau, các quyết định của cơ quan có thầm quyên.
Điều này có thể đúng một phần đối với các đối với bị can, bị cáo... hay người giám
<small>định, người làm chứng (nếu họ khơng có lý do chính đáng) nhưng đối với NTGTT</small>
khác (người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự....) có cần phải thực hiện đúng các yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền khơng? Nếu có thì là các yêu cầu hay quyết định gì của các cơ quan đó? Trong khi đó mỗi loại NTGTT đều
được quy định quyền và nghĩa vụ của họ rồi. Mặt khác, cơ quan có thâm quyền là cơ
quan nào? Trong khi đó phải là cơ quan có thâm quyền CQTHTT mới là chính xác.
Do vậy, chúng tơi mạnh dạn đưa ra khái niệm về NTGTT như sau: Người tham
gia tơ tụng là người, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc giải quyết vụ án hình sự
được Cơ quan, người có thấm quyền tiễn hành to tụng xác định tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự. Họ có quyên và nghĩa vụ pháp lý tương ứng theo quy định
<small>của pháp luật. Với khái nệm này có một sơ đặc diém sau:</small>
Thứ nhất, NTGTT là thuật ngữ bao gồm người, cơ quan, tổ chức việc khang định này bảo đảm và sẽ tương thích với một số định nghĩa pháp lý về NTGTT hiện nay. Chăng hạn như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và nó cho chúng ta mở rộng
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">khái niệm về người bị hại... song tùy từng trường hợp NTGTT chỉ có thé là cá nhân
<small>như người làm chứng, người phiên dịch...</small>
Thứ hai, NTGTT là người có liên quan đến việc giải quyết VAHS. NTGTT có thê liên quan trực tiếp (như bị can, bị cáo, người bị hại..), cũng có thê liên quan gián tiếp thơng qua được nhờ, ủy quyền... hoặc có người biết được những tình tiết của vụ án hay do họ có kiến thức chuyên môn liên quan đến VAHS và được CQTHTT xác định họ cần phải tham gia và những người này thúc đầy giải quyết vụ án nhanh chóng
<small>chính xác và khách quan. Tóm lại, đều là những người ít nhiều liên quan và ảnh</small>
<small>hưởng đên việc giải quyết vụ án.</small>
Thứ ba, NTGTT được Cơ quan, người có thẩm quyên tố tụng xác định tham gia vào việc giải quyết VAHS. NTGTT có thé tự mình đề nghị hoặc được Cơ quan,
<small>NTHTT ghi nhận, xác định là NTGTT.</small>
Thứ tư, khi họ được xác định là NTGTT thì họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ
<small>mà pháp luật quy định.</small>
Hiện nay, trong những NTGTT thì người bị hại cịn nhiều vấn đề gây tranh luận. Quy định pháp luật hiện hành quy định: “øgười bị hại về thể chất, tinh than, tài sản do tội phạm gây ra” với quy định này đã dẫn đến cách hiểu “Người bị hại chỉ có thé là thé nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thé chất, về tinh than hoặc về tài
sản chứ không thé là pháp nhân ” và trên thực tiễn CQTHTT và NTHTT luôn loại trừ
tổ chức là người bị hại. Theo chúng tôi, cách hiểu này chưa hợp lý, chưa đúng - người bị hại phải được hiểu là con người pháp lý không chỉ là con người tự nhiên nên người bị hại có thé là cá nhân, cơ quan hay tổ chức [50, tr.160]. Chúng tơi đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ thực tế hành vi phạm tội không chỉ gây ra thiệt hại cho cá nhân, hành vi phạm tội trong thực tế còn nhăm đến đề gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho pháp nhân, tổ chức là rất đa dạng, không
thuần túy là thiệt hại về tài sản mà có thé bị thiệt hại cả về vật chất lẫn thiệt hại về
tinh thần. Chang hạn một doanh nghiệp bị giả mạo về thương hiệu, bị vu khống làm mất uy tín trong kinh doanh... Có các cách hiểu khác nhau bắt nguồn từ thuật ngữ
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23"><small>“người bị hại cũng như từ quy định pháp luật. Thuật ngữ “người bị hại” đượcPLTTHS Việt Nam (PLTTHS 2003 và trước), PLTTHS của Cộng hòa Pháp, Liênbang Nga cũng dùng thuật ngữ nay; trong khi đó LTTHS Cộng hịa nhân dân Trung</small>
Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngồi ra người bị hại còn được gọi là “người bị thiệt hại”, “nạn nhân”. Riêng đối với thuật ngữ “Nạn nhân” chúng tôi cho rằng
<small>hơn so với khái niệm nạn nhân của tội phạm; những thiệt hại của nạn nhân không chỉ</small>
về thé chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thé bao hàm những thiệt hại về các quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp. Chúng tôi cho rang sử dụng thuật ngữ như thé nao phải thể hiện được ban chất, nội dung, các điều kiện và sự chặt chẽ của thuật ngữ. Vì vậy theo chúng tôi sử
<small>dụng thuật ngữ “bi hại” thay cho “người bi hại” như trong BLTTHS 2015 là phù hợp:</small>
“Bi hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thé chất, tinh than, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc de dọa gây ra” (khoản
1 Điều 62). Theo khái niệm và trong thực tiễn này “BỊ hại” bao hàm các đặc điểm
<small>như sau:</small>
Thứ nhất, về chủ thê bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ
<small>chức khác;</small>
Thứ hai, thiệt hai do tội phạm gay ra có thé là thiệt hại về thé chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị hại. Sự thiệt hại mà người bị hại phải gánh chịu không phải có nguồn gốc từ hành vi khơng phù hợp pháp luật của người bị thiệt hại. Đây là điều kiện quan trọng để
<small>phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụán hình sự.</small>
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">NTGTT đã được quy định trong chương IV của BLTTHS đã thực sự đầy đủ
<small>chưa? Theo chúng tôi luật thực định quy định như vậy là chưa phù hợp với lý luận và</small>
bỏ sót NTGTT điều này dẫn đến không bảo đảm quyền về mặt TTHS cho một số người này. Trả lời cho câu hỏi TTHS bắt đầu từ khi nào? Sẽ là lời giải đáp cho chúng ta phần nào. Điều này rất quan trọng vì nó là cơ sở để xây dựng các quy định về địa
vị pháp ly của các chủ thé TTHS, dé các CQTHTT, NTHTT thực hiện cách thức va
trình tự tiến hành các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình, cịn NTGTT thực các quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Hiện nay, trong khoa học pháp lý, việc giải quyết VAHS được phân thành các giai đoạn (quá trình) khác nhau mà chưa có sự thống nhất, chang hạn, trình tự (q trình) tiến hành giải quyết VAHS
<small>được chia thành năm giai đoạn [9, tr.26] hay bảy giai đoạn [16, tr.10-11], [21,</small>
tr.16-17] nhưng các quan điểm trên có điểm chung là ghi nhận giai đoạn khởi tố là
quá trình bắt đầu của TTHS ma “thoi điểm của giai đoạn này được bắt dau từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm toi và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tổ (hoặc không khởi to) vu dn hình sự có liên quan
đến hành vi đó ”[9, tr.26]. CQTHTT đã bắt đầu tiếp nhận các tin báo từ những
người tố giác, người báo tin về tội phạm đây là những cơ sở quan trọng để
CQTHTT giải quyết các tin báo tổ giác, phát hiện xử lý tội phạm. Việc không ghi
nhận những người này là NTGTT và với những quyền và nghĩa vụ sẽ làm hạn chế việc tham gia của các cá nhân, t6 chức trong đấu tranh và phòng chống tội phạm. Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố- họ mới chỉ những người bị tình nghi
thực hiện phạm tội để có cơ sở xác minh những người này phải có mặt theo u
cầu của các CQTHTT vì vậy theo logic họ cũng phải có những quyền nhất định
tránh sự lạm quyền từ các CQTHTT. Theo BLTTHS hiện hành việc bỏ sót những người này là NTGTT là một thiếu sót, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của họ; Người chứng kiến là người được cơ quan có thâm quyền mời tham dự một số hoạt động điều tra, có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả cơng việc ma CQTHTT tiến hành trong khi mình có mặt. Việc có người chứng kiến trong hoạt
động tố tụng là cần thiết vì nó sẽ bảo đảm sự công minh, khách quan, trách sự lạm
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">quyền và nâng cao trách nhiệm của các CQTHTT; Về giai đoạn thi hành án có quan điểm cho rằng thi hành án không nên coi đây là một giai đoạn TTHS và cần
<small>phải được nghiên cứu thêm [9 tr.26] còn PLTTHS hiện nay quy định đây là một</small>
giai đoạn TTHS với khái nệm“Người bi kết án”; giảm; miễn chấp hành hình phạt; xóa án; giám đốc thâm; tái thâm nhưng lại không được quy định trong chương
NTGTT theo chúng tơi đây là thiếu sót về điện NTGTT. Do đó, chúng tôi đề nghị
nên xem xét đưa “người bị kết án” và quyền lợi nghĩa vụ của họ vào phần quy
<small>định NTGTTT thì mới hợp lý và bảo đảm tính liên tục của tư cách người bị truy cứu</small>
TNHS tương ứng với các giai đoạn TTHS. Cần xác định rõ người bị kết án là
<small>người đang thi hành một bản án một bản án đã có hiệu lực pháp luật và cả nhữngngười đã thi hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích theo quy định của</small>
BLHS. Tiếp đến là người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, mặc dù người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo không được quy định tại điều luật quy định về bị can, bị
cáo nhưng lại được quy định tại các điều luật khác chang han trong trường hợp bị can bị cáo bị truy, khởi tố điều tra mà khung hình phạt cao nhất là tử hình hoặc có nhược
điểm về thé chất hoặc tâm thần thì người đại điện có quyền u cầu thay đổi người
bào chữa hoặc từ chối bao chữa... và người đại diện của nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ VAHS vẫn còn chữa rõ ràng, họ là
ai? Thời điểm họ tham gia tố tụng từ khi nào?... Đề thuận lợi cho quá trình giải quyết
<small>VAHS tại giai đoạn xét xử HDTP TANDTC đã có những văn bản hướng dẫn nhưng</small>
các văn bản này có những hạn chế nhất định: (i) TTHS bao gồm rất nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn tô tụng các CQTHTT, NTHTT tham gia khác nhau thì khơng nhất thiết
<small>phải tuân theo các văn bản hướng dẫn này và hiện nay CQDT và VKS vẫn chưa có</small>
hướng dẫn về vấn dé này. Van đề đặt ra là CQDT, VKS xác định sai, hay bỏ sót thi cũng chưa đặt ra trách nhiệm của các CQTHTT, NTHTT này vì pháp luật thiếu những quy định cụ thé và nếu tuân theo văn bản của HĐTP TANDTC thi (ii) ban thân các hướng dẫn này vẫn chưa bao quát hết các trường hợp có người đại diện của NTGTT (các van đề này chúng tơi xin phép được trình bày ở phan tiếp theo). Do vậy,
<small>đê hoàn thiện vân đê này, chúng ta nên xây dựng một điêu luật vê người đại diện</small>
<small>17</small>
</div>