Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Báo cáo khoa học: Hiện trạng nuôi và sử dụng kháng sinh cho tôm trên địa bàn tỉnh quảng ninh ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.01 KB, 10 trang )











Báo cáo khoa học:
Hiện trạng nuôi và sử dụng kháng sinh cho tôm
trên địa bàn tỉnh quảng ninh
Tạp chí KHKT Nông nghiệp 2007: Tập V, Số 2: 28-35 Đại học Nông nghiệp I


28

hiện trạng nuôi và sử dụng kháng sinh cho tôm
trên địa bàn tỉnh quảng ninh
The status quo of shrimp production and use of antibiotics in shrimp farming
in Quang Ninh province
Phạm Kim Đăng
1
, Đặng Vũ Bình
1
, Phạm Hồng Ngân
2
, Marie- Louise SCIPPO
3


Caroline DOUNY
3
, Guy MAGHUIN-ROGISTER
3
, Guy DEGAND
3
SUMMARY
The recent rapid growth of the shrimp production in Vietnam has linked with negative
impacts inducing environmental, socio-economic and food safety concerns. The problem
has been compounded by disease outbreaks due to viral and bacterial pathogens. Use of
drugs, particularly antibiotics in the shrimp rearing systems for control of diseases has
become a major concern. In this context a study was undertaken to understand the pattern
of antibiotics usage in Quang Ninh, a major shrimp farming province in the North. Thirty
shrimp farms comprising the three types of farming systems, viz. extensive, semi-intensive
and intensive (10 farms for each type), were investigated. Results revealed that at least 12
veterinary drugs containing 8 different antibiotics (ampicillin, streptomycin, oxytetracyclin,
norfloxacin, enrofloxacin, oxolinic acid, rifamicin and phyto-antibiotic) were used by the
farmers. Out of the 30 farms surveyed, 25 farms used veterinary drugs containing one or
more of the 8 antibiotics as listed above. The most widely used antibiotics were
norfloxacin, enrofloxacin, oxolinic acid (quinolon group). The drugs were sold by primary
agents (agent I) and secondary agents (agent II). Most of the products were sold by the
primary agents from Chinese companies (62.5%), the rest being other products produced
by joint-ventures in Vietnam. The drugs were sold through two channels, either directly to
farmers or through secondary agents.
Key words: Antibiotics, Shrimp production, Aquaculture, Quang Ninh province.
1. ĐặT VấN Đề
Những năm gần đây ngành thủy sản đ và
đang đóng góp vai trò quan trọng vào nền kinh
tế nớc ta. Cùng với sự nỗ lực của Chính phủ,
Bộ Thủy sản và các Bộ, ngành liên quan,

ngành thủy sản đ vợt qua rào cản an toàn
thực phẩm, an toàn dịch bệnh khi xuất khẩu
sản phẩm thủy sản tại các thị trờng khó tính
trên thế giới nh EU, Mỹ, Canada, Nhật Bản
góp phần quan trọng đa hàng thủy sản Việt
Nam thâm nhập vào thị trờng của 106 nớc
khác nhau. Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy
sản trung bình hàng năm giai đoạn 2001-2006
tăng trên 10%, năm 2006 đạt 3.357 triệu USD,
trong đó tôm và các sản phẩm từ tôm chiếm
42,67% (Bộ Thủy sản, 2007). Tuy nhiên, do
hoạt động kiểm soát d lợng hóa chất, kháng
sinh có hại đến sức khoẻ ngời tiêu dùng cha
triệt để tại tất cả các công đoạn từ nuôi trồng,
đánh bắt, thu mua vận chuyển nguyên liệu,
đến chế biến, nên số lô hàng hải sản bị thị
trờng nhập khẩu phát hiện kháng sinh vẫn
còn cao (theo thống kê của Bộ Thủy sản năm
1
Khoa Chăn nuôi- Thuỷ sản, Đại học Nông nghiệp I
2
Khoa Thú y, Đại học Nông nghiệp I
3
Khoa Thú y- Đại học Liège- Vơng quốc Bỉ.
ảnh hởng của khẩu phần protein thấp

29

2004, EU: 22 lô, Mỹ: 13 lô, Canađa: 27 lô)
(NAFIQAVED, 2005). Gần đây nhất năm

2006, tại Nhật Bản một số lô hàng hải sản của
Việt Nam đ bị phát hiện nhiễm
Chloramphenicol - một loại kháng sinh bị cấm
và Nhật Bản đ áp dụng lệnh kiểm tra 100%
các lô hàng hải sản nhập khẩu từ Việt Nam.
Tình trạng trên không chỉ gây thiệt hại lớn về
kinh tế cho doanh nghiệp, mà còn ảnh hởng
nghiêm trọng đến uy tín, chất lợng thủy sản
Việt Nam trên thị trờng thế giới (Bộ Thủy
sản, 2006).
Trong các tỉnh thuộc Bắc bộ, các tỉnh ven
biển nh Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định
và Thái Bình là những tỉnh nuôi trồng thủy sản
tập trung và phát triển mạnh. Trong đó, Quảng
Ninh là địa phơng có diện tích nuôi trồng
phát triển nhanh nhất những năm gần đây. Từ
năm 2000, toàn tỉnh chỉ có 13200 ha, đến
2002 đ có 15200 ha và năm 2004 có tổng số
17500 ha (Sở Thủy sản Quảng Ninh, 2006).
Để phát triển và tăng trởng bền vững, bên
cạnh các thị trờng xuất khẩu quan trọng,
ngành thủy sản đ chú ý đến tiềm năng của thị
trờng nội địa, trong đó sản phẩm tôm nuôi ở
Quảng Ninh đ đợc phân phối hầu hết địa
bàn các tỉnh phía Bắc đặc biệt là Hà Nội, Hải
Phòng. Tuy nhiên vấn đề kiểm soát d lợng
các mặt hàng nội địa cha đợc quan tâm
đúng mức làm ảnh hởng đến tâm lý ngời
tiêu dùng. Xuất phát từ thực tế đó, nghiên cứu
này đợc tiến hành nhằm giúp cho việc đánh

giá thực trạng sử dụng thuốc kháng sinh trong
nuôi tôm ở Quảng Ninh nói riêng, và giúp cho
việc triển khai ứng dụng các phơng pháp
kiểm soát tình trạng tồn d kháng sinh trong
các sản phẩm thủy sản.
2. PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
2.1. Đối tợng, địa điểm và thời gian điều
tra theo dõi
Ba mơi hộ nuôi tôm, 6 đại lý cấp 1 và
10 đại lý cấp 2 bán thuốc, hoá chất sử dụng
trong nuôi trồng thủy sản trên ba địa phơng
có diện tích nuôi trồng lớn nhất tỉnh Quảng
Ninh đợc chọn làm đại diện là thị x Móng
Cái, huyện Yên Hng và huyện Tiên Yên
(Bảng 1). Về mặt địa lý, thị x Móng Cái gần
khu vực biên giới Việt-Trung đại diện cho
các địa phơng có hoạt động thơng mại, trao
đổi hàng hoá nói chung thuốc và hoá chất
dùng trong thủy sản nói riêng rất sôi động.
Còn Yên Hng và Tiên Yên đại diện cho các
địa phơng xa biên giới và trung tâm thơng
mại của tỉnh Quảng Ninh.
Bảng 1. Đối tợng điều tra tại các địa phơng
Đại diện hộ nuôi tôm
Đại diện đại lý phân phối
thuốc thú y
Địa phơng
Thâm canh
(hộ)
Bán thâm canh

cải tiến (hộ)
Quảng
canh (hộ)
Cấp I
(đại lý)
Cấp II
(đại lý)
Móng Cái 5 5 2 4 5
Yên Hng 3 3 4 2 3
Tiên Yên 2 2 4 - 2
Tổng 10 10 10 6 10

Điều tra hộ và các đại lý đợc bắt đầu từ
tháng 6 đến tháng 10 năm 2005. Việc theo dõi
hoạt động nuôi trồng, dịch bệnh và kinh doanh
thuốc đợc tiếp tục đến hết tháng 8 năm 2006.
2.2. Phơng pháp
Thu thập các thông tin thứ cấp: thông
tin chung về hiện trạng nuôi trồng thủy sản,
thực trạng về kinh doanh, quản lý thuốc thú
y, các thông tin về kết quả nghiên cứu có
liên quan tới nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là
nuôi tôm từ các cơ quan ban ngành liên
quan từ tỉnh đến địa phơng của tỉnh Quảng
Ninh (Chi cục Bảo vệ nguồn lợi Thủy sản,
Sở Thủy sản tỉnh Quảng Ninh, Sở Tài
nguyên và Môi trờng).
Phạm Kim Đăng, Đặng Vũ Bình, Phạm Hồng Ngân, Caroline DOUNY, Guy MAGHUIN-ROGISTER

30


Thu thập các thông tin sơ cấp bằng cách
điều tra theo bộ câu hỏi phỏng vấn và thu thập
thông tin từ các hộ nuôi trồng thủy sản, các
đại lý phân phối thuốc thú y thủy sản. Đối với
các hộ nuôi trồng thu thập các thông tin chung
về chủ hộ, cơ cấu ao đầm, tình hình dịch bệnh
các mùa gần đây, năng suất, thời vụ, đặc biệt
các loại thuốc hoá chất và kháng sinh đ sử
dụng (lý do, nguồn gốc, cách sử dụng, liệu
trình). Theo dõi dịch bệnh thông qua quan sát
những thay đổi bên ngoài, dấu hiệu lâm sàng
và khẳng định bằng chẩn đoán trong phòng thí
nghiệm chuyên dụng khi cần thiết. Đối với các
đại lý thuốc, hoá chất, các thông tin về chủ đại
lý, chủng loại thuốc, loại sản phẩm có kháng
sinh, nguồn gốc xuất xứ và quan sát điều kiện
kinh doanh đ đợc quan tâm.
Số liệu thu đợc tổng hợp và xử lý thống
kê thông thờng trên Microsoft Excel 2000.
3. KếT QUả Và THảO LUậN
3.1. Tình hình nuôi tôm trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh
3.1.1. Diện tích nuôi trồng và sản lợng
Theo báo cáo tổng kết của Sở Thủy sản về
tình hình nuôi trồng thủy năm 2005, tỉnh
Quảng Ninh hiện có tổng số 37000 ha diện
tích vùng triều, trong đó khoảng 29000 ha có
khả năng khai thác nuôi trồng thủy sản. Năm
2005, toàn tỉnh đ thả nuôi 11.333 ha tôm,

tổng sản lợng đạt 4310 tấn (Bảng 2). Trong
đó, vụ xuân - hè diện tích nuôi tôm là 9.870 ha
(chiếm 87,09% diện tích nuôi tôm cả năm).
Tổng diện tích nuôi theo phơng thức thâm
canh và bán thâm canh trên 1.605 ha (trong đó
300 ha tôm sú). Phần diện tích còn lại nuôi
theo phơng thức quảng canh và quảng canh
cải tiến với đối tợng nuôi chủ yếu là tôm sú.
Tôm chân trắng chỉ chiếm 13,67% (1.350 ha)
và tập trung chủ yếu tại Móng Cái, Đầm Hà,
Vân Đồn, Hoành Bồ, Yên Hng, Hải Hà, Cẩm
Phả. Tổng số giống thả nuôi khoảng 684 triệu
con (trong đó tôm sú khoảng 299 triệu con,
còn lại là tôm chân trắng). Điều đáng quan
tâm là tỉnh chỉ sản xuất đợc 240 triệu con
giống (chiếm 35,08%), phần còn lại (64,92%)
có nguồn gốc từ Trung Quốc và các tỉnh khác.
Vụ thu đông tổng diện tích thả nuôi chỉ đạt
1.463 ha và chủ yếu là tôm chân trắng và tôm
he Nhật Bản.
Bảng 2. Diện tích, sản lợng nuôi tôm năm 2005
tại tỉnh Quảng Ninh
TT

Địa phơng
Diện tích
(ha)
Sản lợng (tấn)

1 Móng Cái 1400 1320

2 Hải Hà 312 114
3 Đầm Hà 136 198
4 Tiên Yên 1050 400
5 Vân Đồn 400 100
6 Cẩm Phả 600 160
7 Hạ Long 360 50
8 Hoành Bồ 70 800
9 Uông Bí 305 168
10 Yên Hng 6700 1000
Tổng 11333 4310
Nguồn: Sở Thủy sản Quảng Ninh, 2006
Nhìn chung năng suất nuôi tôm còn thấp,
nguyên nhân chủ yếu do nuôi theo hình thức
quảng canh và quảng canh cải tiến. Năng suất
nuôi tôm sú thâm canh bình quân đạt 4-5
tấn/ha/vụ, tôm chân trắng đạt 10-12 tấn/ha/vụ,
nuôi bán thâm canh đạt 3-4 tấn/ha/vụ. Chỉ một
số doanh nghiệp vừa nuôi tôm vừa kinh doanh
cung ứng vật t trang thiết bị thủy sản, có điều
kiện đầu t ứng dụng công nghệ tiên tiến mới
đạt năng suất cao. Điển hình nh: Xí nghiệp
nuôi tôm Tân An của Công ty xuất khẩu Thủy
sản II, Công ty Viễn Đông và Doanh nghiệp
thủy sản Gia Phong thuộc thị x Móng Cái đạt
16,5 tấn/ha/vụ. Công ty Đầu t Phát triển sản
xuất Hạ Long ứng dụng công nghệ nuôi tôm
sú thâm canh bằng chế phẩm sinh học BIM
BIOTEC đạt năng suất 8-10 tấn/ha/vụ.
3.1.2. Hiện trạng ao đầm
Diện tích nuôi tôm sú ở Quảng Ninh chủ

yếu là các ao nhỏ có diện tích từ 500 - 200 m
2

nằm trong đê quốc gia còn đối với các đầm có
ảnh hởng của khẩu phần protein thấp

31

diện tích lớn từ 5 - 10 ha trở lên chủ yếu ở khu
vực ngoài đê. Đối với nuôi tôm trong rừng
ngập mặn rất đa dạng:
Các đầm nhỏ: trong đầm có thể có hoặc
không có cây chịu mặn phân bố, các cống cấp
và thải đều thông ra rừng ngập mặn.
Đầm lớn khoanh kín: thờng trong đầm
chỉ có cây chịu mặn ngập nớc nhng phân
bố tha do các chủ đầm chặt phá hàng năm.
Các cống cấp và thoát nớc đều thông ra
vùng triều. Mức nớc trong đầm có độ sâu
khác nhau, dao động từ 0,2-1,8 m. Đầm
thờng xuyên đợc thay nớc theo kỳ con
nớc thủy triều.
Đầm lớn có đập tràn: dạng này rất ít, do
nớc trong đầm đợc lu thông theo thủy
triều nên cây ngập mặn trong đầm tồn tại và
phát triển.
Tại Quảng Ninh, nuôi tôm trong đầm
ngập mặn phổ biến ở Móng Cái, Tiên Yên,
Yên Hng và chủ yếu theo hình thức quảng
canh. Hình thức này tuy năng suất thấp nhng

ít rủi ro. Hàng năm đến vụ nuôi các chủ đầm
tháo nớc vệ sinh hạn chế dịch hại, sau đó bổ
sung giống tôm cỡ 2-4 cm với mật độ 0,1 - 1
con/m
2
(tôm sú vụ 1, tôm rảo vụ 2). Nhng
vấn đề đặt ra là các đầm nuôi không có khả
năng thay nớc trong thời gian kéo dài sẽ làm
cho rừng ngập mặn bị suy thoái và ảnh hởng
xấu đến hệ sinh thái nói chung.
3.1.3. Mùa vụ nuôi tôm
Do đặc điểm khí hậu và đặc điểm thủy
văn của Quảng Ninh cũng nh các tỉnh vùng
Bắc bộ là nhiệt đới gió mùa và nhật triều nên
ảnh hởng đến mùa vụ nuôi trồng thủy sản.
Nuôi tôm ở Quảng Ninh chủ yếu từ tháng 3
đến tháng 11 (Bảng 3).
Bảng 3. Mùa vụ nuôi tôm hàng năm tại Quảng Ninh
Tháng trong năm (tính theo lịch âm)
Loài tôm
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Tôm sú CB TG* TG CS CS TH CB TG CS CS TH
Tôm he CB TG CS CS CS TH
Tôm chân trắng CB TG CS CS TH CB TG CS CS TH
Tôm rảo CB TG* TG CS CS TH CB TG CS CS TH
Tôm càng xanh CB TG CS CS CS CS CS TH
Tôm hùm CB TG CS CS CS CS CS CS CS CS TH
Chú thích: * Riêng huyện Yên Hng và Tiên Yên thả giống sớm hơn
CB - chuẩn bị; TG - thả giống; CS - chăm sóc; TH - thu hoạch
Đối với tôm sú, tôm he, tôm he chân trắng

và tôm rảo thờng đợc nuôi 2 vụ trong năm
còn tôm càng xanh, tôm hùm đợc nuôi 1 vụ
trong năm. Thời gian thả giống thờng từ
tháng 3 khi có thời tiết ấm áp thích hợp cho
sinh trởng và phát triển của tôm nhng giai
đoạn sau (tháng 8, tháng 9) là mùa ma, độ
mặn giảm thấp, môi trờng thờng bị ô nhiễm
do nguồn nớc của các dòng sông đổ xuống
do đó cần lu ý kiểm soát dịch bệnh.
Riêng đối với các hộ nuôi thâm canh có
đầu t hệ thống lắng lọc nớc, ao đợc chia
nhỏ thờng nuôi 2 vụ/năm. Nhng số hộ nuôi
thâm canh thực tế rất ít, chủ yếu các công ty
đầu t vừa nuôi vừa cung cấp nguyên liệu cho
các hộ khác.
3.1.4. Tình hình dịch bệnh
Do giống đợc nhập từ nhiều nguồn khác
nhau nh Trung Quốc và từ các tỉnh khác nên
thờng không đợc kiểm soát, do vậy dịch
bệnh vẫn xảy ra thờng xuyên trên địa bàn
tỉnh. Bệnh đốm trắng (WSBV - White Spot
Syndrome Bacculovirus), bệnh còi (MBV -
Monodon Bacculovirus), đầu vàng, đóng rong
và mang đen là các bệnh liên tục xảy ra trên
địa bàn trong các vụ nuôi gần đây (Bảng 4).
Phạm Kim Đăng, Đặng Vũ Bình, Phạm Hồng Ngân, Caroline DOUNY, Guy MAGHUIN-ROGISTER

32

Bảng 4. Tình hình dịch bệnh tôm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Địa phơng điều tra

Số đầm khảo sát (đầm) Tỷ lệ đầm có bệnh (%)

Các loại bệnh
Móng Cái 10 30 đốm trắng, mang đen, đóng rong
Tiên Yên 10 40 bệnh còi, đốm trắng, đầu vàng
Yên Hng 10 20 bệnh còi, đốm trắng

3.2. Tình hình hoạt động kinh doanh và sử
dụng thuốc, hoá chất trong nuôi tôm trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh
3.2.1. Đặc điểm hệ thống phân phối thuốc,
hoá chất trong nuôi trồng thủy sản
Các sản phẩm thuốc, hoá chất và các chế
phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản có
mặt trên thị trờng rất đa dạng và phong phú
về chủng loại và mẫu m. Có hơn 200 sản
phẩm thuốc, hoá chất và các chế phẩm sinh
học nuôi trồng thủy sản của 29 công ty. Trong
đó, 61% sản phẩm của các công ty trong nớc,
hoặc của các công ty nớc ngoài đợc phân
phối bởi các công ty Việt Nam và 39% sản
phẩm của Trung Quốc có mặt trên thị trờng
Quảng Ninh. Các sản phẩm phục vụ trong
nuôi trồng thủy sản tại Quảng Ninh đợc bán
thông qua mạng lới các đại lý cấp 1 và đại lý
cấp 2 (Hình 1).








Hình 1. Mạng lới phân phối thuốc, hoá chất và các chế phẩm sinh học
trong nuôi trồng thủy sản ở Quảng Ninh
Theo thống kê của Sở Thủy sản Quảng
Ninh vào thời điểm điều tra (tháng 7/2005),
trên địa bàn tỉnh có 16 đại lý cấp 1 và 35 đại
lý cấp 2 của nhiều công ty khác nhau. Trong
16 đại lý cấp 1 có 62,5 % đại lý của các
công ty Trung Quốc (10 đại lý), các đại lý
này chủ yếu tập trung ở thị x Móng Cái.
Sáu đại lý cấp 1 khác phân phối sản phẩm
của các công ty Việt Nam (4 ở Yên Hng và
2 ở Cẩm Phả).
Các sản phẩm từ các đại lý cấp 1 đợc
bán theo hai kênh, hoặc bán trực tiếp cho
ngời nuôi trồng, hoặc gián tiếp qua hệ thống
đại lý cấp 2. Phần lớn các chủ đại lý có kết
hợp nuôi trồng thủy sản. Rất nhiều đại lý, đặc
biệt đại lý cấp 2 phân phối các sản phẩm của
nhiều công ty khác nhau. Các đại lý thờng
không chỉ bán các loại thuốc, hoá chất và các
chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản
mà còn bán cả thức ăn thủy sản, thậm chí còn
bán các sản phẩm phục vụ sản xuất nông
nghiệp.
Nếu đối chiếu qui chế quản lý thuốc và

các hoá chất sử dụng trong nuôi trồng thủy
sản do Bộ Thủy sản ban hành theo Quyết
định số 03/2002QD-BTS (Bộ Thủy sản,
2002) cho thấy:
Điều kiện về địa điểm và trang thiết bị
kinh doanh: tất cả các đại lý cấp 1 và chỉ 11,4
% đại lý cấp 2 đáp ứng các tiêu chuẩn vệ sinh
thú y thủy sản. Có đến 88,6% các đại lý cấp 2
không đáp ứng đợc cả hai điều kiện trên. Đặc
biệt phổ biến là thuốc hoá chất trong thủy sản
đợc để cùng kho, cùng tủ bảo quản, cùng nơi
bày bán với thức ăn thủy sản, thậm chí còn
chung với thức ăn gia súc gia cầm, thuốc thú
Hệ thống đại lý
cấp 1
Hệ thống

đại lý cấp 2


Sản phẩm Trung Quốc
Sản phẩm các công ty Việt Nam
Các công ty liên doanh
Ngời nuôi
ảnh hởng của khẩu phần protein thấp

33

y, thuốc bảo vệ thực vật của ngành nông
nghiệp. Ngoài ra, một số đại lý không có điều

kiện bảo quản, nơi bày bán không đợc khô
ráo, gần khu vực công cộng nhiều bụi không
đảm bảo vệ sinh môi truờng.
Điều kiện về chủ kinh doanh (ngời bán):
75% chủ kinh doanh đại lý cấp 1 và 100% đại
lý cấp 2 không có bằng cấp chuyên môn về
thú y hay thủy sản theo qui định.
Một thực tế khác là rất nhiều chủ đại lý
cấp hai và một số đại lý cấp 1 không nắm
đợc danh mục các loại thuốc hoá chất cấm và
hạn chế sử dụng trong thủy sản theo quy định
của Bộ Thủy sản. Hoá chất dùng trong thủy
sản có rất nhiều sản phẩm xuất xứ từ Trung
Quốc với nhn mác bằng tiếng Trung, thành
phần không rõ ràng nên cũng là khó khăn đối
với cơ quan quản lý thuốc, hơn nữa giá các sản
phẩm này lại rẻ nên vẫn đợc ngời nuôi sử
dụng. Thậm chí một số sản phẩm không có
nhn mác đợc vào Việt Nam theo con đờng
tiểu ngạch nên rất khó kiểm soát.
3.2.2. Tình hình sử dụng kháng sinh trong
nuôi tôm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Trong 30 hộ điều tra tại Quảng Ninh có
25 hộ (83,3%) sử dụng từ 1 đến nhiều loại
kháng sinh trong nuôi tôm. Có ít nhất 12 loại
sản phẩm có tên thơng mại khác nhau của 8
loại kháng sinh sau: ampicillin, streptomycin,
oxytetracyclin, norfloxacin, enrofloxacin, axít
oxolinic, rifamicin và kháng sinh thực vật
(Hình 2). Cụ thể: Sinh tố tỏi (kháng sinh thực

vật) đợc sử dụng nhiều nhất (43,3%), tiếp đến
tơng ứng là oxytetracyclin (23,3%), axít
oxolinic 30% for shrimp (16,7%), ampicillin
(13,3%), streptomycin (13,3%), anti White
(norfloxacin, 13,3%), ENRO-Strep for shrimp
(enrofloxacin, streptomycin, 10,0%), N300
(norfloxacin, 10,0%), rifamycin (6,7%),
noracin (norfloxacin, 6,7%), anti-vibrio
(norfloxacin, 6,7%), ULTRA_SEPTIC_01
(axít oxolinic, 3,3%). Phần lớn những kháng
sinh này đợc sử dụng với mục đích phòng và
trị một số bệnh. Kháng sinh đợc trộn với thức
ăn và cho ăn từ 1 đến 7 ngày cho một đợt
phòng và điều trị bệnh. Kết quả này hoàn toàn
phù hợp với nghiên cứu trớc đây cho rằng có
ít nhất 46 kháng sinh đợc sử dụng trong nuôi
tôm ở Việt Nam, ba nhóm kháng sinh đợc
dùng phổ biến trong nuôi tôm ở nớc ta là
quinolones,
-lactam và tetracyclin (Phạm
Văn Tình, 2003).
Tuy không phát hiện thuốc ngoài danh
mục đợc sử dụng tại các trại tôm và các đại
lý trên thị trờng nhng theo ngời nuôi và
đặc biệt theo các nhân viên thị trờng của các
công ty thì khi cần vẫn có thể mua đợc trên
thị trờng chợ đen. Đây là vấn đề mà các nhà
quản lý cần đặc biệt lu tâm, cần phải phối
hợp vào cuộc quyết liệt cùng với các ban
ngành khác mới có thể chấm dứt đuợc tình

trạng này.
Quinolone là nhóm kháng sinh tổng hợp,
phổ hoạt động rộng, có khả năng khuyếch tán
tốt trong mô bào, đợc sử dụng rộng ri và
hiệu quả cao trong nhân y. Để hạn chế sự hiện
tợng nhờn thuốc của các chủng vi sinh vật từ
động vật truyền sang các vi khuẩn gây bệnh
cho ngời, Mỹ và Bắc Mỹ đ cấm sử dụng
quinolone trong phòng và trị bệnh cho động
vật. Chính vì thế, Bộ Thủy sản đ khuyến cáo
hạn chế sử dụng và cấm sử dụng trong sản
xuất, kinh doanh thủy sản xuất khẩu vào thị
trờng Mỹ và Bắc Mỹ (Bộ Thủy sản, 2005)
nhng kết quả thực tế cho thấy số sản phẩm
chứa nhóm quinolone vẫn rất phổ biến (7
trong 12 sản phẩm đợc sử dụng).
Đối với các nhóm còn lại nh
-lactam,
aminosid, tetracyclin và nhóm rifamycin đợc
phép sử dụng nhng đều có qui định mức giới
hạn d lợng tối đa trong tôm và các sản phẩm
của tôm. Nhng hầu hết ngời nuôi không
quan tâm đến thời gian sử dụng và thời gian
dừng sử dụng thuốc trớc khi thu hoạch mà
chỉ quan tâm đến hiệu quả đối với dịch bệnh.
Đặc biệt, khi tiên lợng không tốt ngời nuôi
thờng thu hoạch sớm, bán ra thị trờng để
giảm thiệt hại kinh tế cho chủ hộ. Đây là
những vấn đề đáng quan tâm cần đợc cảnh
báo đối với sức khoẻ cộng đồng về tồn d

kháng sinh trong sản phẩm thủy sản.
Phạm Kim Đăng, Đặng Vũ Bình, Phạm Hồng Ngân, Caroline DOUNY, Guy MAGHUIN-ROGISTER

34

43,3
23,3
16,7
13,3 13,3 13,3
10 10
6,7 6,7 6,7
3,3
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
(Sinh t

t

i) (Oxy t et rac yclin)(Oxolinic 30%
f or shrimp)
(Ampi cyclin) (St r ept omycin) ( Ant i Whit e) (ENRO-St rep
f or shrimp)

(N300) (Rif amicin) (Noracin) Ant i - vibr io ( Ult ra_Sept ic_01)
T l h s dng (%)

Hình 2. Các loại kháng sinh đợc sử dụng trong nuôi tôm ở Quảng Ninh
Hơn nữa việc sử dụng kháng sinh trong
nuôi tôm có thể làm cho lớp bùn đáy lắng đọng
chứa kháng sinh và có tác dụng lâu dài đến môi
trờng thủy sản (Holmstrom và cộng sự, 2003).
Việc sử dụng kháng sinh lan tràn trong nuôi
tôm ở Việt Nam đ làm tăng d lợng của
trimethoprim, sulfamethoxazole, norfloxacin và
axít oxolinic trong nớc, bùn của các ao cũng
nh môi trờng lân cận. Hậu quả trớc hết là sự
xuất hiện hiện tợng nhờn thuốc trong các cơ
sở sản xuất tôm nớc ta (Le, 2004).
Mặc dù đ có nhiều văn bản pháp lý về
quản lý thuốc nhng vẫn có nhiều bất cập và
chồng chéo trong sự phối hợp của các ban
ngành. Hơn nữa, ý thức ngời sản xuất, cung
cấp thuốc chỉ chú ý đến lợi nhuận, xử phạt
hành chính còn thấp và thiếu quyết liệt, kèm
theo việc ngời nuôi tôm vẫn thiếu hiểu biết, ý
thức không tốt đến tác hại lâu dài trớc hết
cho sự phát triển nghề nuôi trồng thủy sản của
chính họ là điều kiện cho việc lạm dụng và sử
dụng thuốc ngoài danh mục nói chung và
kháng sinh nói riêng.
4. KếT LUậN
Quảng Ninh hiện có tổng số 37000 ha
vùng triều, trong đó khoảng 29000 ha có khả

năng khai thác nuôi trồng thủy sản. Năm
2005, 11.333 ha đợc sử dụng nuôi tôm, tổng
sản lợng đạt 4310 tấn. Chủ yếu nuôi theo
phơng thức quảng canh, quảng canh cải tiến
và đa số nuôi 1 vụ từ tháng 3 đến tháng 11 nên
năng suất còn thấp.
Hiện nay tỉnh chỉ đáp ứng đợc 35,08%
nhu cầu giống, phần còn lại (64,92%) có
nguồn gốc từ các tỉnh khác và Trung Quốc.
Các bệnh đốm trắng, bệnh còi, đầu vàng, đóng
rong và mang đen vẫn thờng xuyên xảy ra
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Các sản phẩm thuốc nói chung và kháng
sinh nói riêng sử dụng trong nuôi trồng thủy
sản trên thị trờng rất đa dạng, phong phú về
chủng loại và nhn mác. Vẫn tồn tại các sản
phẩm không đúng qui cách nhn mác, thậm
chí ngoài danh mục trôi nổi trên thị trờng.
Các loại thuốc có chứa kháng sinh đợc phân
phối trực tiếp, hoặc gián tiếp cho ngời nuôi
trồng qua hệ thống đại lý cấp 2 từ các đại lý
cấp 1. Số đại lý kinh doanh cha đạt yêu cầu
về điều kiện kinh doanh chiếm tỷ lệ rất cao
(75-100% đại lý cấp 1, 2 không có bằng cấp
chuyên môn về thú y hay thủy sản; 88,6% đại
lý cấp 2 không đáp ứng đợc qui định về địa
điểm và điều kiện kinh doanh).
Sự thiếu hiểu biết của ngời nuôi, ý thức
chấp hành của ngời kinh doanh thuốc và sự
Thành

phần
Tên
thơng
mại
ảnh hởng của khẩu phần protein thấp

35

quản lý chồng chéo tạo điều kiện cho việc lạm
dụng sử dụng thuốc nói chung và kháng sinh
nói riêng. Có 83,3% hộ sử dụng từ 1 đến nhiều
loại kháng sinh trong nuôi tôm. ít nhất 12 loại
sản phẩm chứa kháng sinh thuộc các nhóm
quinolone (norfloxacin, enrofloxacin, axít
oxolinic), -lactam (ampicillin), aminosid
(streptomycin), tetracyclin (oxytetracyclin) và
nhóm rifamycin (rifamycin) và kháng sinh
thực vật (sinh tố tỏi) đợc sử dụng trong nuôi
tôm tại Quảng Ninh. Riêng nhóm quinolone
tuy đ đợc khuyến cáo hạn chế và cấm sử
dụng trong sản xuất nhng số sản phẩm chứa
nhóm quinolone vẫn rất phổ biến (7/12 sản
phẩm). Chính vì thế số hộ sử dụng các sản
phẩm chứa quinolone chiếm một tỷ lệ rất cao.
Khi sử dụng hầu hết ngời nuôi không
quan tâm đến thời gian ngừng dùng thuốc
trớc khi thu hoạch. Đặc biệt, khi tiến triển
bệnh xấu ngời nuôi có thể thu hoạch sớm,
bán ra thị trờng để giảm thiệt hại kinh tế cho
chủ hộ. Đây là cảnh báo đáng quan tâm trong

sự nỗ lực bảo vệ sức khoẻ cộng đồng.
TàI LIệU THAM KHảO
Bộ Thủy sản (2002). Quyết định số
03/2002QD-BTS. Qui chế quản lý thuốc
thú y và các hoá chất sử dụng trong
nuôi trồng thủy sản.
Bộ Thủy sản (2005). Phụ lục I và II, Ban hành
kèm theo Quyết định số 07/2005/QĐ-
BTS ngày 24 tháng 2 năm 2005 và
Quyết định số 26/2005/QĐ-BTS ngày
18/8/2005 của Bộ trởng Bộ Thủy sản
về việc ban hành danh mục hóa chất,
kháng sinh cấm và hạn chế sử dụng
trong sản xuất, kinh doanh thủy sản.
Bộ Thủy sản (2006). Công điện của Bộ trởng
Bộ Thủy sản số: 01/BTS-VP, ngày 12
tháng 9 năm 2006.
Bộ Thủy sản (2007). Thông tin kinh tế- Khoa
học và Công nghệ Thủy sản - Thống kê
xuất khẩu. Địa chỉ:
/>au_e/. Truy cập ngày: 12/03/2007.
Holmstrom, K., Graslund, S., Wahlstrom, A.,
Poungshompoo, S., Bengtsson, B.E.,
Kautsky, N. (2003). Antibiotic use in
shrimp farming and implications for
environmental impacts and human
health. International J. Food Scien
Technol, 38, 255-266
Le, T.X., Munekage, Y. (2004). Residues of
selected antibiotic in water and mud

from shrimp ponds in mangrove areas
in Vietnam. Inpress in Marine Pollution
Bulletin.
NAFIQAVED (Cục quản lý chất lợng - An
toàn vệ sinh và thú y Thủy sản) (2005).
Tổng kết hoạt động kiểm soát d lợng.
Phạm Văn Tình (2003). Hiện trạng sử dụng
kháng sinh, hoá chất và chế phẩm sinh
học trong nuôi tôm ở Việt Nam. Khuyến
ng Việt Nam, số 4, 14-16.
Sở Thủy sản Quảng Ninh (2006). Báo cáo
tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản.
T¹p chÝ KHKT N«ng nghiÖp 2007: TËp V, Sè 2: 104

§¹i häc N«ng nghiÖp I


36


×