Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh bắc ninh đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.12 KB, 45 trang )


Nâng cao hiệu quả sử dụng các khu công nghiệp
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010”
CHƯƠNG I: HIỆU QUẢ SỬ DỤNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
I. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của Khu công nghiệp
1. Khái niệm về Khu công nghiệp
Khu công nghiệp (KCN) là một lãnh địa được phân chia và phát triển
có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung ứng các thiết bị kỹ thuật
cần thiết, cơ sở hạ tầng, phương tiện công cộng phù hợp với sự phát triển
của một liên hiệp các ngành công nghiệp nhằm đạt hiệu quả trong sản xuất
công nghiệp và kinh doanh.
Ở Việt Nam, theo Điều 2 trong “Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế
xuất, khu công nghệ cao” được Chính phủ ban hành năm 1997 có quy định:
“KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên sản xuất hàng
công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới
xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính
phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có Khu chế xuất (KCX)”.
2. Đặc trưng cơ bản của Khu công nghiệp
KCN là một tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền
phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng và hình thành mạng lưới
đô thị, phân bố dân cư hợp lý. KCN có những đặc điểm chính sau đây:
Thứ nhất, KCN có vị trí xác định, là nơi tập trung các doanh nghiệp
công nghiệp, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ
cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, trong KCN thường có những chính sách kinh tế, chính sách
ưu đãi đặc thù (thông thường mỗi KCN có thể có các chính sách khuyến
khích khác nhau). Tuy nhiên, các chính sách đó phải phù hợp với khuôn khổ
chung của cả nước. Nhằm thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài nước; tạo
môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho phép các đầu tư sử dụng những
phạm vi đất đai nhất định đã có trong khu quy hoạch để thành lập các nhà


1
máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi về thủ tục xin
cấp phép và thuế đất (giảm hoặc miễn thuế),…
Thứ ba, nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu thu hút từ các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Thông thường Chính
phủ thường bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng như: san lấp mặt bằng, làm
đường giao thông,…Tuy nhiên, có một số KCN ở Việt Nam thì kinh phí san
lấp mặt bằng, xây dựng đường giao thông, hệ thống điện,… cũng kêu gọi
các nhà đầu tư ở trong và ngoài nước.
Thứ tư, sản phẩm của các nhà máy, xí nghiệp trong KCN thường là các
sản phẩm có chất lượng cao, đối tượng chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu và
thay thế hàng nhập khẩu trong nước.
Thứ năm, KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành
phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song: doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh
doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, và cả
doanh nghiệp 100% vốn trong nước.
II. Vì sao phải tăng cường hiệu quả sử dụng các Khu công nghiệp tại địa
phương
1. Vai trò của Khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội địa
phương
Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình thực hiện CNH- HĐH đất
nước (theo Nghị quyết Trung ương khoá VIII). Để thực hiện được mục tiêu
này, chúng ta cần thực hiện sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế toàn diện phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của đất nước và cơ cấu kinh tế quốc dân trên tất cả các
lĩnh vực. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, khai thác thành công
mô hình KCN sẽ là nhịp cầu nối liền nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với
nền kinh tế công nghiệp hiện đại; thúc đẩy phát triển trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, xã hội và môi trường.
Đối với lĩnh vực kinh tế, với thuận lợi về vị trí, ưu đãi về chính sách và

cơ chế, KCN khuyến khích thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu
tư vào các KCN. Sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
trong các KCN là một trong những điều kiện mang tính quyết định đến sự
phát triển lĩnh vực công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế địa phương
nói chung.
Đối với lĩnh vực xã hội, phát triển KCN sẽ góp phần quan trọng tạo
công ăn việc làm; thu hút lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang công
nghiệp; góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và nâng cao thu nhập cho
2
người dân. Thực tế đã chứng minh, đối với người lao động có việc làm và
thu nhập ổn định là một trong những điều kiện quan trọng góp phần hạn chế
những tệ nạn xã hội (như: trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, …) do cuộc sống
“nhàn rỗi” và thiếu thốn gây nên. Có thể nói, phát triển KCN đã tác động
đến mọi mặt của đời sống xã hội từ giải quyết tình trạng thất nghiệp, nâng
cao thu nhập của người dân đến góp phần ổn định trật tự và an ninh xã hội.
Đối với lĩnh vực môi trường, phát triển KCN tạo điều kiện thuận lợi
để tập trung xử lý nước thải, khói bụi,… do hoạt động sản xuất công nghiệp
tạo ra.
Trước đây, khi chưa phát triển KCN thì các doanh nghiệp sản xuất
công nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hoá chất) “tự do” xả
nước thải, hoá chất, khói bụi,… mà chỉ qua xử lý sơ sài, thậm chí còn chưa
qua xử lý. Điều đó, dẫn tới hậu quả tất yếu là huỷ hoại môi trường, ô nhiễm
nguồn nước,… đã gây tác động xấu đến cuộc sống của người dân.
Mặc dù, hiện nay với việc ban hành các tiêu chuẩn môi trường (như:
tiêu chuẩn về nước thải, khói bụi,…) có thể thải ra môi trường, các doanh
nghiệp đã đầu tư hệ thống xử lý chất thải, làm gia tăng chi phí sản xuất của
các doanh nghiệp. Nếu mỗi doanh nghiệp đều đầu tư một hệ thống xử lý chất
thải riêng rẽ sẽ khiến các doanh nghiệp mất một khoản chi phí rất lớn, thậm
chí hiệu quả xử lý còn không cao. Một trong những giải pháp quan trọng
nhằm khắc phục tình trạng này là phát triển các KCN. Bởi phát triển các

KCN tạo điều kiện tập trung xử lý chất thải, góp phần giảm thiểu chi phí
trong quá trình xử lý chất thải cho các doanh nghiệp. Đồng thời còn góp
phần nâng cao hiệu quả xử lý.
Vì vậy, làm thế nào để có thể xây dựng và sử dụng một cách có hiệu
quả các KCN là điều trăn trở của các nhà quản lý vĩ mô. Thành công trong
lĩnh vực này sẽ nhanh chóng đưa địa phương mở cửa bước ra hoà nhập một
cách bình đẳng với các thành phố khác trong khu vực và trên thế giới.
Phát triển KCN tác động mạnh đến tất cả các mặt, các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Phát triển KCN sẽ góp phần:
1.1 Thu hút đầu tư trong và ngoài nước
KCN với những chính sách ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước
đã trở thành môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
sẽ góp phần giúp địa phương có thêm vốn đầu tư; tiếp cận kỹ thuật và công
3
nghệ mới; học hỏi được kinh nghiệm, phương cách quản lý tiến tiến, khoa
học của nước ngoài. Theo Ngân hàng Thế giới, các dự án thực hiện trong các
KCN phần lớn do các nhà đầu tư nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài
( khoảng 40% các dự án do đầu tư trong nước thực hiện, 29% do liên doanh
với nước ngoài và 31% do các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện). Do vậy,
KCN đã đóng góp đáng kể trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI).
Cùng với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, với thuận lợi về vị trí,
ưu đãi về chính sách và cơ chế, KCN còn khuyến khích thu hút các nhà đầu
tư trong nước, một nguồn vốn tiềm tàng rất lớn trong dân chúng (theo thống
kê hiện nay nước ta vẫn còn khoảng trên 30% nguồn vốn tiết kiệm trong
dân). Nguồn vốn này có ý nghĩa rất quan trọng và cũng là nguồn vốn rất lớn
còn chưa được khai thác và sử dụng một cách xứng đáng. KCN sẽ tạo môi
trường và cơ hội phát huy năng lực về vốn cũng như sản xuất kinh doanh
trong cùng một điều kiện ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Thông

qua việc liên doanh, liên kết các doanh nghiệp trong nước có điều kiện cũng
như cơ hội tiếp thu kinh nghiệm quản lý, trình độ điều hành, sử dụng các
trang thiết bị và công nghệ hiện đại của nước ngoài, bồi dưỡng nhân tài, thử
nghiệm các phương án cải cách nhằm tiến ra trình độ thế giới.
Ngoài ra, phát triển KCN góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập
khẩu; thu hút các nhà đầu tư nước ngoài là một trong những điều kiện quan
trong giúp nước chủ nhà tăng nguồn thu ngoại tệ phục vụ phát triển kinh tế
trong nước.
1.2 Tạo công ăn việc làm cho người lao động
Theo thống kê, tình trạng phổ biến của các nước kém phát triển cũng
như các nước đang phát triển là dân số tăng hết sức nhanh chóng, song tốc
độ tăng trưởng kinh tế lại rất chậm, tỉ lệ tích luỹ và đầu tư thấp. Tình trạng
đó dẫn tới hậu quả tất yếu là thiếu việc làm, nạn thất nghiệp ngày càng ra
tăng, trở thành sức ép rất lớn đối với Chính phủ. Để giải quyết vấn đề này,
một trong những giải pháp quan trọng mà các nhà quản lý vĩ mô hướng tới là
phát triển các KCN. Với mong muốn tận dụng sự phát triển của các KCN để
giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động.
Điều này hoàn toàn có thể làm được vì các chủ đầu tư cả trong và
ngoài nước đều mong muốn tận dụng nguồn lao động dồi dào và rất rẻ của
nước chủ nhà để tăng lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên, cũng tuỳ thuộc vào từng loại ngành nghề mà có lao động ở các trình
độ khác nhau. Ngành nghề càng đa dạng càng thu hút được nhiều lao động
nhàn rỗi. Ngoài một bộ phận được đào tạo, còn có một tỉ lệ lao động đáng kể
4
là lao động phụ nữ trẻ chưa lập gia đình, không có tay nghề và một bộ phận
lớn lao động chuyển từ nông thôn ra làm việc (theo kết quả điều tra của
Ngân hàng Thế giới, đến nay trung bình số việc làm trong các KCN của tất
cả các nước trên thế giới chiếm khoảng trên 40% tổng số việc làm).
Hầu hết các nước đang phát triển, đều là các nước có nền kinh tế lạc
hậu, có tỉ lệ bán thất nghiệp cao. Ngoài ra, do sức ép phát triển kinh tế, tại

các nước này có tốc độ đô thị hoá nhanh chóng, dẫn tới tình trạng diện tích
đất đai dùng cho phát triển nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp.Thêm vào đó,
số người thất nghiệp ở đô thị ngày càng tăng và chủ yếu là những người vừa
đến tuổi lao động do dân số tăng nhanh.
Chính vì vậy, một trong những vấn đề cấp thiết nhất hiện nay là phải
tạo công ăn việc làm, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và nâng cao
thu nhập cho người dân. Do đó, phát triển các KCN nhằm thu hút lao động
từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp là một trong những biện pháp hữu
hiệu nhất nhằm giải quyết tình trạng trên và phát triển kinh tế theo hướng
công nghiệp - dịch vụ.
1.3 Tiếp nhận kỹ thuật công nghệ tiên tiến và phương pháp quản lý
hiện đại
Theo thống kê, hiện nay hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào
tình trạng phổ biến là thiết bị sản xuất cũ, quy trình công nghệ lạc hậu.
Trong khi những yếu tố này lại đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình
CNH-HĐH đất nước. Do đó, họ coi việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản
lý hiện đại một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất không chỉ là nhiệm vụ
truớc mắt mà còn là mục tiêu có tính chiến lược.
Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước đi trước cho thấy, việc
ứng dụng tiến bộ công nghệ của nước ngoài là một trong những bí quyết
phát triển. Sao chép những phương pháp hiệu quả hơn, đưa chúng vào áp
dụng trong nước thường là một giải pháp mang tính truyền thống của các
nước phát triển. Bởi các nước phát triển có nguồn vốn, công nhân và kỹ sư
lành nghề,…thường rất dồi dào.
Nhưng đối với các nước nghèo thì phương pháp trên lại không thể dễ
dàng áp dụng được. Bởi cho dù các nước nghèo có thể có các chuyên gia kỹ
thuật được trang bị những tri thức công nghệ tiên tiến nhưng vẫn không thể
thực hiện được vì còn quá nhiều hàng rào ngăn cản như: vốn đầu tư thấp,
công nhân và nhiều kỹ sư lành nghề hầu như rất ít,…không đáp ứng được
yêu cầu. Chính vì vậy, một phương pháp thay thế hữu hiệu phương pháp

“sao chép” mà các nước phát triển vẫn làm là phát triển các KCN. Qua đó,
5
các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đưa vào KCN những thiết bị kỹ thuật tiên tiến,
quy trình công nghệ hiện đại nhằm sản xuất ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn
quốc tế có đủ sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Từ đó, góp phần thúc đẩy
các doanh nghiệp của các vùng, các khu vực đổi mới thiết bị và công nghệ,
nâng cao từng bước chất lượng sản phẩm.
Xuất phát từ trang thiết bị hiện đại, công nghệ kỹ thuật tiên tiến, các
cán bộ quản lý, các công nhân kỹ thuật và viên chức làm việc tại các KCN sẽ
được đào tạo lại, đào tạo bổ xung cho thích hợp. Và họ cũng là lực lượng
trực tiếp tiếp thu tác phong công nghiệp, kinh nghiệm quản lý, phương pháp
kiểm tra chất lượng hiện đại,… nhằm thích ứng với cơ chế thị trường và đạt
hiệu quả cao. Những kết quả này không chỉ mang lại tại các KCN mà theo
hiệu ứng lan truyền nó còn tác động mạnh đến sự thay đổi đến các doanh
nghiệp hoạt động bên ngoài KCN, làm cho các doanh nghiệp này cũng thay
đổi theo.
1.4 Tăng cường các mối liên kết và tác động ngược trở lại nền kinh
tế
Phát triển KCN là một trong những điều kiện tiền đề để thúc đẩy sự
phát triển toàn diện trong vùng, mở của nền kinh tế trong nước cho hệ thống
mậu dịch và tài chính quốc tế phát triển, hợp tác kinh tế đối ngoại,… nhằm
đẩy mạnh công cuộc CNH - HĐH đất nước. Theo đánh giá của các chuyên
gia kinh tế, các KCN được coi như một bộ phận cầu nối giúp nước chủ nhà
mở cửa nhìn ra thế giới bên ngoài; tăng cường mối liên kết trao đổi hàng
hoá, dịch vụ và kỹ thuật với thế giới bên ngoài.
Thực tế đã chứng minh, phát triển KCN còn tạo ra sự tác động ngược
trở lại đối với sự phát triển của các ngành sản xuất trong nước thông qua
việc cung cấp các dịch vụ như: cung cấp nguyên vật liệu; lắp ráp, chế biến
sản phẩm;… cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN.
Ảnh hưởng của các KCN đối với phần còn lại của nền kinh tế thông

qua hiệu ứng số nhân của Keynes. Ví dụ, một KCN đi vào hoạt động trực
tiếp đem lại việc làm cho người lao động (làm việc trong KCN) còn gián tiếp
tạo việc làm cho các địa phương xung quanh thông qua việc cung cấp các
dịch vụ phục vụ sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trong các
KCN. Nếu một năm một KCN trả lương cho công nhân (trong vòng một
năm) là 10 triệu USD. Với tiền mua nguyên vật liệu, mua các dịch vụ ở địa
phương sẽ gián tiếp tạo việc làm cho khoảng 10.000 lao động. Và nếu tỉ lệ
tiêu dùng là 2/3 thu nhập thì 10 triệu USD của công nhân sẽ góp phần tăng
thu nhập của các khu vực lân cận lên tới 30 triệu USD.
6
Như vậy, phát triển KCN là một trong những giải pháp quan trọng
nhằm phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế của địa phương
nói chung. Đồng thời, phát triển KCN là nhịp cầu nói giúp địa phương mở
của hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
2. Vì sao phải tăng cường hiệu quả sử dụng các KCN
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, việc quy hoạch phát triển
KCN chỉ là điều kiện cần còn vấn đề cốt lõi ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng phát triển KCN nói riêng và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của
địa phương nói chung chính là hiệu quả sử dụng của chúng. Vì vậy, giải
pháp nào nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng KCN đang là vấn đề quan tâm
hàng đầu của các nhà quản lý.
Thứ nhất, nếu khi quy hoạch phát triển các KCN, các nhà quản lý chỉ
chú trọng đến số lượng cũng như diện tích trong quy hoạch. Nhưng khả năng
“lấp chỗ trống” thấp sẽ dẫn đến tình trạng diện tích đất đai quy hoạch thì rất
lớn trong khi khả năng sử dụng thì hạn chế.
Điều này sẽ gây lãng phí nguồn lực đất đai rất lớn trong quá trình phát
triển kinh tế. Bởi vì: đất đã được đưa vào quy hoạch KCN (mặc dù chưa sử
dụng) nhưng người nông dân vẫn không thể tiếp tục sử dụng vào mục đích
canh tác nông nghiệp mà phải để hoang hoá. Đất đai trong các KCN chưa
được sử dụng cũng đồng nghĩa với việc sản xuất kinh doanh trên lĩnh vực

công nghiệp chưa phát triển. Điều này là một trong những nguyên nhân
khiến người nông dân chưa có điều kiện cũng như cơ hội chuyển đổi nghề
nghiệp khi đã chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang công
nghiệp, khiến cho cuộc sống của người nông dân ngày càng khó khăn.
Thứ hai, một trong những vấn đề mang tính quyết định đến hiệu quả
sử dụng các KCN chính là tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích.
Như đã biết, hệ thống cơ sở hạ tầng trong KCN như: hệ thống giao
thông vận tải, hệ thống cung cấp điện, cấp thoát nước,… là một trong những
điều kiện cần thiết ban đầu khi một doanh nghiệp trong KCN đi vào hoạt
động. Vì vậy, nếu đầu tư một cách “dàn trải” trong khi nguồn kinh phí thì eo
hẹp sẽ gây ra tình trạng cơ sở hạ tầng trong KCN thô sơ, không đáp ứng
được yêu cầu của nhà đầu tư. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến hiệu quả sử
dụng KCN.
Ngoài ra, trong xu hướng khoa học công nghệ phát triển như vũ bão
hiện nay. Một doanh nghiệp sản xuất nói riêng và nền kinh tế của một đất
nước nói chung chỉ có thể phát triển theo hướng ứng dụng trình độ khoa học
7
kỹ thuật công nghệ tiên tiến để tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp
ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Để thực hiện được mục tiêu này thì
một trong những vấn đề mang tính quyết định là nguồn vốn đầu tư phải rất
lớn. Điều đó cho thấy, suất đầu tư cao mới có khả năng đáp ứng được nhu
cầu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của các doanh nghiệp.
Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, phát triển KCN nói chung
và nâng cao hiệu quả sử dụng KCN nói riêng chính là con đường mở cửa
giúp địa phương hoà nhập bình đẳng vào nền kinh tế, tạo điều kiện tiền đề để
thực hiện thành công công cuộc CNH – HĐH đất nước.
III. Thước đo hiệu quả sử dụng các KCN
Các khái niệm cơ bản về hiệu quả sử dụng KCN
Khai thác có hiệu quả mô hình KCN đang là vấn đề được quan tâm
hàng đầu đối với các quốc gia đang trong thời kỳ CNH – HĐH. Có khá

nhiều các quan niệm khác nhau về hiệu quả sử dụng các KCN.
Theo tạp chí kinh tế và phương pháp toán của Viện toán kinh tế viện
hàn lâm khoa học Liên Xô cũ, hiệu quả sử dụng KCN là chỉ tiêu phản ánh
mối quan hệ giữa diện tích đất đai đã sử dụng và tổng diện tích đất đai đã
được đưa vào quy hoạch KCN.
Theo họ, hiệu quả sử dụng KCN được tiếp cận trên phương diện: Xác
định diện tích đất đai đã cho thuê tại các KCN. Ưu điểm của phương pháp
tiếp cận này là so sánh được diện tích có ích (đã được sử dụng) trên tổng
diện tích được cấp phép xây dựng. Qua đó, so sánh được sự thành công trên
phương diện sử dụng đất đai giữa các KCN trong quá trình phát triển.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp là không thể đánh giá, so sánh
được hiệu quả sử dụng KCN trên các phương diện khác như: suất đầu tư trên
một đơn vị diện tích, hiệu quả đóng góp của các KCN đối với sự phát triển
kinh tế của địa phương,… Từ đó chưa thể đánh giá một cách chính xác tính
hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư, hiệu quả đất đai đã sử dụng,… của các
KCN.
Theo quan điểm của Ban quản lý các KCN, KCX Việt Nam, hiệu quả
sử dụng KCN là chỉ tiêu so sánh biểu hiện mức độ tiết kiệm chi phí trong
một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng khối lượng hữu ích của hoạt động
sản xuất tại KCN trong một thời kỳ nhất định.
Ưu điểm của phương pháp tiếp cận này, gắn kết quả với chi phí, coi
hiệu quả là sự phản ánh trình độ sử dụng chi phí.
8
Nhược điểm của phương pháp, chưa rõ ràng và thiếu tính khả thi ở
phương diện xác định và tính toán. Bởi vì: Muốn xác định được mức độ tiết
kiệm thì phải có ít nhất hai phương án để so sánh và phải có tiêu chuẩn để so
sánh. Điều này chỉ có trong lĩnh vực kế hoạch khi lựa chọn dự án sản xuất
hoặc dự án đầu tư. Trong thực tế, với từng đối tượng trong một phạm vi thời
gian cụ thể chỉ có một kết quả và một chi phí cụ thể. Như vậy, làm sao biết
được mức độ tiết kiệm chi phí sản xuất. Tính không rõ ràng trong phương

pháp xác định trên là do không phân biệt giữa kế hoạch và thực tế, giữa
tương lai và quá khứ khi đưa ra các yêu cầu lớn nhất và bé nhất trong quá
trình phân tích, đánh giá đối tượng.
Theo các thành viên trong Ban quản lý (BQL) KCN của tỉnh Bắc Ninh,
hiệu quả sử dụng các KCN là chỉ tiêu phản ánh sự đóng góp của các KCN
đối với sự tăng trưởng kinh tế trên địa bàn, tức là tổng giá trị sản lượng của
KCN so với tổng GDP của địa phương.
Ưu điểm của cách xác định này là đánh giá được tổng giá trị sản lượng
của các KCN đối với quá trình tăng trưởng kinh tế trên địa bàn. Qua đó, thấy
được tầm quan trọng của phát triển các KCN đối với địa phương.
Nhưng nhược điểm của phương pháp là không thể đánh giá được hiệu
ứng dây truyền của các hoạt động của hệ thống cung cấp dịch vụ đi kèm với
quá trình hoạt động của các KCN. Điều đó được biểu hiện thông qua hiệu
ứng số nhân của Keynes.
Trở lại ví dụ trên, khi một KCN đi vào hoạt động sẽ tạo việc làm gián
tiếp cho các địa phương xung quanh thông qua việc cung cấp các dịch vụ.
Nếu trong một năm một KCN hoạt động trả lương cho công nhân trong
KCN là 10 triệu USD. Với tiền mua các linh kiện và dịch vụ ở địa phương,
theo hiệu ứng số nhân có thể cung cấp việc làm cho hơn 10.000 công nhân
bên ngoài. Và nếu tỉ lệ tiêu dùng là 2/3 thu nhập thì sẽ góp phần tăng thêm
thu nhập cho các khu vực lân cận lên tới 30 triệu USD.
Nhược điểm lớn nhất của ba khái niệm trên là không xác định được tính
hữu ích ở dạng tổng thể gộp lớn. Bởi một KCN khi đi vào hoạt động sẽ góp
phần thu hút nguồn vốn đầu tư, tạo công ăn việc làm cho người lao động,
tăng cường các mối liên kết và tác động ngược trở lại tới các bộ phận còn lại
của nền kinh tế,…
Vì thế, để khắc phục những nhược điểm trên trong chuyên đề này, hiệu
quả sử dụng các KCN được hiểu là chỉ tiêu phản ánh đầy đủ hơn kết quả
hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN ở tầm
hiệu quả kinh tế - xã hội. Tức là, hiệu quả sử dụng các KCN là chỉ tiêu phản

9
ánh tổng hợp không chỉ khả năng “lấp chỗ trống” trong các KCN, hiệu quả
đầu tư trên một đơn vị diện tích còn có cả phần đóng góp cho ngân sách nhà
nước ở dạng thuế, tiền lương, tiền thưởng cho người lao động.
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng các KCN
Hiện nay, có khá nhiều cách xác định hiệu quả sử dụng các KCN.
Nhưng trong khuôn khổ chuyên đề này, tôi chỉ sử dụng một số chỉ tiêu đánh
giá hiệu quả sử dụng KCN như sau:
2.1 Tỉ lệ diện tích được lấp đầy
Chỉ tiêu này được xác định theo công thức:
Tỉ lệ Diện tích đã cho thuê * 100%
lấp đầy Tổng diện tích KCN
Chỉ tiêu này, cho biết phần diện tích có ích trên tổng diện tích được
cấp phép theo quy hoạch KCN. Theo các nhà kinh tế, nếu tỉ lệ lấp đầy
khoảng 70% trở lên thì hiệu quả sử dụng KCN trên phương diện sử dụng
đất đai đạt hiệu quả rất cao; còn nếu nhỏ hơn 30% thì hiệu quả sử dụng quá
thấp gây lãng phí nguồn lực đất đai rất lớn.
Chỉ tiêu này còn cho phép đánh giá được hiệu quả sử dụng đất đai tại
các KCN. Đồng thời, so sánh được sự thành công trong lĩnh vực sử dụng đất
đai giữa các KCN.
2.2 Tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích
Chỉ tiêu này cho biết, suất đầu tư trên từng đơn vị diện tích. Được xác
định theo công thức sau:
Tỉ lệ Tổng vốn đầu tư (triệu USD; triệu đồng)
VĐT Tổng diện tích (ha)
Tỉ lệ VĐT càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đã ứng dụng khoa học, kỹ
thuật công nghệ tiến tiến vào sản xuất bởi nguồn vốn đầu tư lớn tạo điều
kiện thuận lợi giúp doanh nghiệp áp dụng những thành tựu khoa học tiến
tiến vào sản xuất.
Suất đầu tư dùng để đánh giá, so sánh hiệu quả thu hút vốn đầu tư trên

một đơn vị diện tích. Từ đó, đánh giá được tính hấp dẫn trong việc thu hút
vốn giữa các KCN với nhau một cách chính xác.
10
2.3 Tỉ lệ đóng góp cho GDP
% đóng góp Tổng GTSL của KCN * 100%
cho GDP GDP
Chỉ tiêu này cho biết, sự đóng góp của giá trị sản lượng của cả khu
công nghiệp đối với sự tăng trưởng kinh tế của địa phương.
Tỉ lệ này phụ thuộc vào sự phát triển lĩnh vực công nghiệp của địa
phương. Nhưng nếu giá trị sản lượng của KCN chiếm khoảng trên 80% tổng
giá trị sản lượng công nghiệp của địa phương, chứng tỏ tỉ lệ đóng góp của
các KCN đối với sự tăng trưởng kinh tế của địa phương khá cao.
2.4 Số lao động làm việc trong các KCN
Chỉ tiêu này cho biết số lượng lao động làm việc tại KCN, lợi ích trong
việc giải quyết tình trạng thất nghiệp và lao động dôi dư ở các địa phương có
KCN. Đồng thời cho biết khả năng thu hút lao động và giải quyết việc làm
giữa các KCN với nhau.
Chỉ tiêu này phụ thuộc vào sự phát triển công nghiệp của địa phương.
Tuy nhiên theo các nhà kinh tế, số lao động càng cao chứng tỏ khả năng thu
hút lao động, giải quyết việc làm của KCN càng lớn. Nếu số lao động chiếm
khoảng trên 40% tổng số lao động của địa phương, chứng tỏ khả năng tạo
việc làm của các KCN là rất lớn.
Các chỉ tiêu trên đây, cho phép nhìn nhận một cách tổng quát nhằm so
sánh, đánh giá một cách chính xác hiệu quả sử dụng các KCN.
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các KCN
Cũng như bất kỳ mô hình phát triển kinh tế nào, để nâng
cao hiệu quả sử dụng KCN đòi hỏi phải thoả mãn những điều kiện cần thiết.
Đó là những điều kiện cần và đủ để đảm bảo cơ sở cho sự thành công trong
việc sử dụng các KCN. Cũng tuỳ tính chất của từng KCN mà đòi hỏi phải
đáp ứng các yếu tố khác nhau. Nhưng nhìn chung, các nhân tố chủ yếu ảnh

hưởng đến hiệu quả sử dụng các KCN như sau:
1. Nhóm các vấn đề về khung pháp lý
1.1 Về cơ chế chính sách
Kinh nghiệm cho thấy, các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước
ngoài) nhiều khi không coi những ưu đãi về kinh tế là quan trọng hàng đầu
11
mà cái chính là sự ổn định về chính trị xã hội, chính sách của nhà nước trong
việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia kinh
doanh và đầu tư.
Mục đích của quá trình đầu tư kinh doanh chính là lợi nhuận. Bởi vậy,
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp cũng như tạo mọi điều kiện cho các nhà
đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh là một trong những điều kiện
hàng đầu mà các nhà đầu tư quan tâm khi quyết định đầu tư. Bởi chính sách
nhất quán của các văn bản pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo vệ
quyền sở hữu hợp pháp của các chủ thể khi tham gia kinh doanh.
Tính nhất quán, rõ ràng của các văn bản pháp lý góp phần quyết
định việc tiến hành các thủ tục hành chính ngay từ khi chủ thể bắt đầu tham
gia kinh doanh. Bởi thủ tục hành chính nhanh chóng, thuận tiện sẽ giúp các
nhà đầu tư giảm được chi phí cả về thời gian và tiền bạc khi đăng ký kinh
doanh. Đặc biệt là hiện nay khi mà cơ hội kinh doanh là một nhân tố mang
tính chất “sống còn” của doanh nghiệp. Thủ tục nhanh chóng sẽ giúp doanh
nghiệp nắm chắc cơ hội kinh doanh của mình.
Một trong những nhân tố cũng góp phần quan trọng đến quyết định đầu
tư của các chủ thể kinh doanh chính là các chính sách ưu đãi. Bởi nếu có các
chính sách ưu đãi như: miễn giảm thuế công ty, thuế xuất nhập khẩu,… thì
các nhà đầu tư sẽ giảm được một phần chi phí sản xuất. Điều này, góp phần
tăng lợi nhuận của các nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh.
Qua phân tích cho thấy, cơ chế chính sách đóng vai trò quan trọng
nhằm thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN nói riêng và đầu tư vào địa
phương nói chung.

1.2 Cơ chế phân cấp và uỷ quyền trong quản lý
Cơ chế phân cấp và uỷ quyền đối với các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước là một trong những nguyên nhân chủ yếu quyết định đến các thủ
tục hành chính khi một doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Bởi cơ chế phân
cấp khoa học sẽ tránh được thủ tục rườm rà, phức tạp; tránh tình trạng chồng
chéo cũng như việc lạm dụng quyền hạn của các cán bộ quản lý trong quá
trình xét duyệt các loại văn bản, hồ sơ của các nhà đầu tư.
Điều này sẽ giúp các nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí cả về thời gian
và tiền bạc ngay từ khi bắt đầu tham gia sản xuất kinh doanh cũng như trong
quá trình mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh của mình.
2. Nhóm các vấn đề liên quan đến bộ máy quản lý của các KCN
12
Nhằm tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN để đẩy
nhanh hiệu quả sử dụng thì BQL các KCN cần phải hoạt động có hiệu quả,
thủ tục hành chính phải gọn nhẹ, đơn giản,… Điều này phụ thuộc vào:
Thứ nhất, cơ cấu tổ chức của BQL vì: Cơ cấu tổ chức khoa học sẽ tạo
điều kiện giúp các thành viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Cũng như
tạo điều kiện giúp các nhà đầu tư giảm thiểu chi phi phí cả về thời gian và
tiền bạc khi tham gia sản xuất kinh doanh trong các KCN.
Thú hai, cơ sở vật chất của BQL: Điều kiện vật chất, trang thiết bị phục
vụ quá trình làm việc góp phần rất lớn giúp các nhân viên thực hiện nhanh
chóng, chính xác trong quá trình xét duyệt các loại văn bản, giấy tờ liên
quan đến quá trình sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư.
Thứ ba, năng lực của từng cán bộ là một trong những điệu kiện chủ yếu
quyết định đến khả năng làm việc của BQL. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả trong quá trình quản lý các KCN và tác động đến hiệu quả sử
dụng các KCN trên địa bàn.
3. Nhóm vấn đề liên quan đến đất đai và hạ tầng cơ sở của KCN
3.1 Về đất đai
Giá thuê đất là một khoản chi phí khá lớn mà doanh nghiệp phải trả. Do

đó giá thuê đất tại các KCN có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận kinh doanh
của doanh nghiệp. Như vậy, giá thuê đất thấp là một trong những điều kiện
mang tính chất quyết định đến khả năng thu hút đầu tư tại các KCN nói riêng
và tại địa phương nói chung.
Với mục tiêu “lấp đầy”, các KCN ngoài biện pháp nhằm thu hút các
nhà đầu tư đầu tư vào các KCN thì một trong những biện pháp thúc đẩy
nhanh quá trình sử dụng các KCN chính là biện pháp hỗ trợ đối với các
doanh nghiệp khi họ đã đầu tư sản xuất kinh doanh trong các KCN bởi: Nếu
doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất kinh doanh thì biện pháp hỗ trợ về
mặt đất đai sẽ là một trong những giải pháp hữu hiệu khuyến khích các nhà
đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong các KCN mới chỉ
được trao cho các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng. Trong khi, doanh
nghiệp đầu tư vào KCN phải trả tiền thuê đất một lần cho thời gian nhiều
năm nhưng không nhận được giấy chứng nhận “con”.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng nhận “con”)
đối với các doanh nghiệp thuê lại đất trong KCN cũng là một trong những
13
biện pháp hữu hiệu nhằm thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào KCN. Bởi hiện
nay, các Ngân hàng đã cho phép các doanh nghiệp thế chấp quyền sử dụng
đất để vay vốn. Do đó, nếu các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong các
KCN được cấp giấy chứng nhận “con” để khi cần họ có thể sử dụng giấy
chứng nhận này thế chấp vay vốn.
3.2 Về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN bao gồm: hệ thống điện, nước, giao
thông, hệ thống cấp thoát nước, liên lạc,… Đây là những điều kiện ban đầu
cần thiết để các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh.
Nếu như hệ thống cơ sở hạ tầng trong và ngoài KCN có chất lượng cao,
đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. Điều đó, sẽ giúp các nhà đầu tư
giảm thiểu được một khoản chi phí đáng kể. Bởi nếu doanh nghiệp phải xây

dựng hệ thống các cơ sở hạ tầng thì doanh nghiệp sẽ phải thanh toán những
khoản chi phí phát sinh không nhỏ. Điều này làm gia tăng chi phí sản xuất
của doanh nghiệp lên khá lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận trong kinh
doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, hệ thống cơ sở hạ tầng trong KCN ảnh hưởng trực tiếp đến
khả năng thu hút nhà đầu tư đầu tư vào các KCN.
4. Nhóm các vấn đề liên quan đến dịch vụ
4.1 Dịch vụ trong KCN
Một trong những nhân tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư quyết định
đầu tư vào các KCN là hệ thống cung cấp dịch vụ. Việc quy hoạch các khu
dân cư dịch vụ KCN, khu đô thị gắn liền với KCN sẽ đảm bảo sự gắn kết
các hạ tầng trong và ngoài KCN, đảm bảo cho sự phát triển bễn vững của
KCN.
Ngoài ra, trong điều kiện có những hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội như:
Nhà ở, trường học, hệ thống ngân hàng,… ở gần các KCN tạo điều kiện
thuận lợi trong việc thu hút các nhà đầu tư đầu tư cũng như thu hút lực lượng
lao động có tay nghề cao làm việc trong các KCN.
4.2 Hệ thống cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp
Trong xu hướng hội nhập hiện nay, thông tin ngày càng trở thành một
yếu tố quan trọng trong việc củng cố và nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, hiện nay thông tin
đã trở thành một trong những điều kiện quyết định đến sự thành hay bại của
14
một doanh nghiệp.
Cũng chính bởi thông tin có vai trò quan trọng, có khả năng quyết định
đến sự “sống còn” của doanh nghiệp. Chính vì vậy, đã xảy ra hiện tượng một
số người thậm chí cả một số công chức quản lý nhà nước cố tình giữ (hoặc
kìm) thông tin để hưởng lợi một cách bất hợp pháp.
Vì vậy, việc thành lập một hệ thống nhằm cung cấp thông tin cho các
doanh nghiệp hoạt động trong các KCN là một trong những yếu tố quan

trọng thúc đẩy các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN. Bởi nếu có một hệ thống
cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, chính xác sẽ giúp các nhà đầu tư
tiết kiệm được chi phí cả về thời gian và tiền bạc trong quá trình tìm kiếm
thông tin để ra quyết định đầu tư.
V. Kinh nghiệm sử dụng các KCN của một số tỉnh và bài học rút ra
Bắc Ninh là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền bắc, là cửa
ngõ phía bắc của thành phố Hà Nội (cách trung tâm thành phố Hà Nội
khoảng 20 km). Đây là một trong những điều kiện quan trọng giúp tỉnh nâng
cao hiệu quả sử dụng các KCN nói riêng và phát triển kinh tế nói chung.
Qua tìm hiểu tôi được biết, mặc dù có những chính sách ưu đãi cũng như
điều kiện thuận lợi nhưng hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn không
cao. Trong khi các tỉnh khác có cùng điều kiện như Bắc Ninh (tỉnh Vĩnh
Phúc, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai,…), hiệu quả sử dụng các KCN rất
cao. Vấn đề đặt ra là nguyên nhân do đâu mà hiệu quả sử dụng các KCN trên
địa bàn Bắc Ninh lại thấp?
Nghiên cứu tình hình phát triển các KCN ở một số tỉnh, đặc biệt ở
những tỉnh có điều kiện tương tự Bắc Ninh nhằm tổng kết rút ra những ưu,
nhược điểm và xu hướng vận động, phát triển các KCN là hết sức cần thiết.
Trong phạm vi đề tài này sẽ chọn hai tỉnh để nghiên cứu, đó là tỉnh
Bình Dương và tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là hai trong số những tỉnh có cùng điều
kiện phát triển như Bắc Ninh.
1. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Dương
Cũng giống như Bắc Ninh, tỉnh Bình Dương nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm miền trung, có nhiều thuận lợi để phát triển công nghiệp. KCN là
mô hình phát triển trọng điểm mà địa phương hướng tới trong quá trình phát
triển. Tỉnh chủ trương xây dựng KCN ngay từ khi luật đầu tư nước ngoài
được ban hành có hiệu lực. KCN Sóng Thần lần đầu tiên được thành lập ở
Bình Dương (tháng 9/1995), đến nay trên toàn tỉnh đã có 18 KCN được
15
thành lập với diện tích quy hoạch 4916 ha (ước tính đến năm 2010 toàn tỉnh

có 21 KCN với diện tích quy hoạch là 4.921 ha).
Các KCN Bình Dương đều là các KCN đa ngành, trong KCN lại phân
thành các KCN chuyên ngành riêng (khu cơ khí, điện tử, khu dệt may, khu
chế xuất, khu công nghệ cao,…) nhưng trên thực tế các khu chức năng
chuyên ngành đều chuyển thành KCN tổng hợp, nên phân khu chức năng
không còn lại nữa.
Ban đầu khi mới đi vào hoạt động, hiệu quả đóng góp của các KCN
đối với sự phát triển kinh tế trên địa bàn của tỉnh Bình Dương không lớn.
Mặc dù là tỉnh phát triển nhanh các KCN, nhưng vai trò đối với nông nghiệp
và nông thôn còn rất hạn chế. Vì quy hoạch các KCN xây dựng tách rời dân
cư, chủ yếu bám vào các vùng ven đô thị có sẵn; chưa hình thành được mối
liên kết giữa nông nghiệp, nông thôn với công nghiệp thông qua các KCN;
chưa thu hút được nhiều các doanh nghiệp trong nước vào KCN (chỉ chiếm
6% tổng vốn đăng ký vào KCN); … Điều này đã ảnh hưởng đến chính sách
phát huy nội lực và sự phát triển bền vững; chưa phát triển đồng bộ hệ thống
dịch vụ trong và ngoài KCN nhằm hỗ trợ đẩy nhanh tốc độ sử dụng các
KCN.
Để khắc phục các nhược điểm này, Bình Dương đã thực hiện một số
biện pháp sau:
Thứ nhất, thường xuyên nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện
quy hoạch; tổ chức xây dựng hợp lý và có hiệu quả hệ thống các cơ sở hạ
tầng KCN.
Hệ thống cơ sở hạ tầng (hệ thống giao thông vận tải, hệ thống cung cấp
điện, nước,…) ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh tại các KCN. Chú trọng nâng cao chất lượng
xây dựng, đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư là một trong những điều kiện cần
thiết thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN.
Thứ hai, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, xúc tiến
quảng bá và thu hút các dự án đầu tư hoạt động trong KCN,…
Môi trường đầu tư và kinh doanh trực tiếp quyết định đến lợi nhuận của

doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi góp phần giúp doanh
nghiệp tăng lợi nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này là một
trong những yếu tố quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư cả trong và ngoài
nước đầu tư vào các KCN.
16
Thứ ba, hình thành KCN chuyên ngành (ví dụ KCN dệt Bình An), cụm
công nghiệp chuyên môn hoá trong KCN hoặc trong khu liên hợp nhằm đảm
bảo sự liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất chính và doanh nghiệp sản xuất
phụ trợ. Trong đó, Bình Dương đặc biệt chú trọng việc cung cấp các dịch vụ
trong và ngoài KCN, tạo điều kiện thuận lợi nhằm đảm bảo sự liên kết giữa
các doanh nghiệp sản xuất chính và các doanh nghiệp sản xuất phụ trợ.
Trong điều kiện quốc tế hoá và toàn cầu hoá hiện nay, bất kỳ một
doanh nghiệp nói riêng và một quốc gia nói chung không thể tự mình đảm
bảo tất cả các điều kiện trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh, mà
phải đảm bảo liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp. Do đó, đảm bảo mối
liên hệ,hợp tác giữa các doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh sẽ tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp cùng phát triển.
Thứ tư, lựa chọn cơ cấu đầu tư có chọn lọc theo hướng dự án có trình
độ công nghệ cao, vốn lớn, tổ chức thành tổ hợp hoặc cụm chuyên môn hoá.
Trình độ khoa học công nghệ trong sản xuất quyết định trực tiếp đến
chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải sản xuất ra những sản phẩm có
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, lựa chọn các
dự án sản xuất kinh doanh có trình độ khoa học công nghệ cao là mọt trong
những điều kiện quan trọng quyết định đến tính bền vững trong quá trình
phát triển các KCN.
Thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp trên, đã góp phần nâng cao
khả năng sử dụng KCN lên rõ rệt. Điều đó, có tác động thúc đẩy sản xuất
công nghiệp phát triển (giá trị sản xuất của các KCN chiếm trên 80% tổng
giá trị sản xuất công nghiệp và chiếm khoảng trên 30% GDP của tỉnh).

1. Kinh nghiệm của Vĩnh Phúc
Cũng giống như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc là cửa ngõ phía nam của Hà
Nội (cách trung tâm Hà Nội khoảng 30 km), tỉnh cũng phấn đấu đến năm
2015 trở thành tỉnh có nền kinh tế công nghiệp. Nhằm thực hiện mục tiêu
trên thì một trong các giải pháp hữu hiệu mà các nhà quản lý hướng tới đó là
phát triển các khu, cụm công nghiệp. Các khu, cụm công nghiệp của Vĩnh
Phúc đầu tư xây dựng theo mô hình các khu, cụm công nghiệp đa ngành
được xây dựng từ sau ngày 01/01/1997 (sau khi tái lập tỉnh Vĩnh Phúc).
Sau 11 năm phát triển thì hiện nay, Vĩnh Phúc đã có khoảng 13 khu,
cụm công nghiệp; trong đó xây dựng đồng bộ 07 KCN với tổng diện tích
2.622 ha.
17
Cũng như nhiều KCN trên địa bàn thành phố, các KCN trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc cũng có chung mặt bằng chính sách, cơ chế và các điều kiện
tự nhiên. Tuy nhiên, để thu hút đầu tư nhằm đẩy nhanh quá trình xây dựng
cũng như sử dụng các KCN là do tỉnh đã thực hiện đồng bộ một số giải pháp
sau đây:
Thứ nhất, ưu đãi các nhà đầu tư về vấn đề thủ tục hành chính khi đầu
tư. Thủ tục khi các nhà đầu tư quyết định đầu tư vào đây thì việc đơn giản
của họ phải làm là chuẩn bị đầy đủ các số liệu cần thiết cho phương án sản
xuất kinh doanh; các chuyên gia của KCN sẽ giúp họ thành lập các hồ sơ và
lo hoàn tất mọi thủ tục còn lại như giấy phép thành lập doanh nghiệp, giấy
phép đầu tư (trong 1 tuần), chế độ ưu đãi doanh nghiệp kể cả giấy phép xây
dựng. Tất cả các chi phí trên đều do KCN tự bỏ tiền ra lo cho khách hàng mà
không thu bất ký khoản lệ phí nào.
Theo phản ánh của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước
ngoài, một trong những nguyên nhân chính khiến họ do dự khi đầu tư vào
Việt Nam là do các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp ngay từ khi doanh
nghiệp bắt đầu đăng ký kinh doanh.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, cơ hội kinh doanh mang

tính quyết định đến sự “sống còn” của doanh nghiệp. Thủ tục kinh doanh
phiền hà, phức tạp khiến các chủ đầu tư mất rất nhiều cả về thời gian và tiền
bạc ngay từ khi doanh nghiệp mới bắt đầu kinh doanh. Điều này, ảnh hưởng
trực tiếp đến cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Giải pháp ưu đãi về thủ
tục hành chính là một giải pháp mang tính quyết định, là một trong những
nguyên nhân rất quan trọng hấp dẫn các nhà đầu tư đầu tư vào các KCN
Vĩnh Phúc, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài (nguồn vốn đầu tư trong
những năm gần đây của tỉnh tăng đột biến, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
cao nhất trong các tỉnh thành trong cả nước).
Thứ hai, triển khai xây dựng các đô thị nhỏ nhằm cung cấp các dịch vụ
cần thiết cho các KCN, … Trong đó, Vĩnh Phúc đặc biệt chú trọng đến việc
tạo môi truờng thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư cũng như việc cung
cấp các dịch vụ trong KCN.
Cung cấp các dịch vụ trong và ngoài KCN là một điều kiện cần thiết
giúp các doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao. Hiệu quả hoạt động của
các doanh nghiệp tại các KCN ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng của
các KCN. Ngoài ra, việc thành lập hệ thống cung cấp dịch vụ sẽ góp phần
tăng việc làm, giảm tỉ lệ thát nghiệp tại các vùng lân cận quanh KCN.
Thứ ba, xúc tiến việc quảng bá và thành lập hệ thống cung cấp thông
18
tin (trung tâm tư vấn, trang Web,…) cho các doanh nghiệp khi họ muốn đầu
tư vào các KCN.
Ngày nay, thông tin đã trở thành yếu tố quyết định đến cơ hội cũng như
khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, thành lập hệ thống cung cấp
thông tin cho các doanh nghiệp sẽ giúp các chủ đầu tư yên tâm đầu tư vào
các KCN trên địa bàn.
Sau một thời gian thực hiện đồng thời các giải pháp trên, hiệu quả sử
dụng các khu, cụm công nghiệp đã được tăng lên rõ rệt. Điều đó, được minh
chứng thông qua: Nguồn vốn đầu tư vào các KCN trên địa bàn tăng nhanh
chóng (như nguồn vốn FDI đầu tư vào Vĩnh Phúc cao nhất trong cả nước);

giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh tăng nhanh chóng (tốc độ tăng giá trị
sản lượng công nghiệp trên địa bàn tỉnh tăng trên 20%).
2. Những bài học kinh nghiệm
Qua nghiên cứu một số KCN điển hình trong các địa phương có điều
kiện tương tự như ở Bắc Ninh, ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cần thiết
cho Bắc Ninh trong quá trình sử dụng các KCN như sau:
Thứ nhất, các thủ tục hành chính phải đơn giản, gọn nhẹ. Giảm thiểu
những thủ tục rườm rà, phức tạp; tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận
lợi; xúc tiến quảng bá, cung cấp thông tin cho các dự án đầu tư;… nhằm thu
hút các dự án đầu tư đầu tư vào các KCN.
Thứ hai, phải tiếp tục nghiên cứu đưa các chính sách, các chế độ ưu đãi
như: Thuế, giá thuê đất, để thu hút các nhà đầu tư. Tuy nhiên, các chính
sách và chế độ ưu đãi phải phù hợp với khuôn khổ chính sách chung của nhà
nước (như: ưư đãi về thuế, giá thuê đất,… phải nằm trong giới hạn mà nhà
nước cho phép).
Thứ ba, phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng theo hướng đa dạng hoá,
chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư.
Thứ tư, phải chú trọng xây dựng các đô thị nhỏ, hệ thống cung cấp dịch
vụ nhằm cung cấp các dịch vụ cả trong và ngoài phục vụ cho sự phát triển
của các KCN.
Thứ năm, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, xúc tiến
quảng bá, cung cấp thông tin cho các dự án đầu tư,… nhằm thu hút các dự
án đầu tư đầu tư trong các KCN.
Từ kinh nghiệm thực tiễn các tỉnh đi trước cho thấy, để nâng cao hiệu
19
quả sử dụng nói riêng và phát triển KCN nói chung, Bắc Ninh cần vận dụng
sáng tạo chủ trương, chính sách chung của Đảng và nhà nước. Đồng thời, kết
hợp giữa việc phát huy các kinh nghiệm thực tiễn của các tỉnh đi trước và
các thế mạnh của tỉnh về phát triển các làng nghề truyền thống với việc tập
trung sử dụng các KCN trên địa bàn.

Chương II: Thực trạng khai thác sử dụng các KCN
trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2001 đến
nay
I. Sơ lược quá trình phát triển các KCN tại Bắc Ninh
1. Quá trình phát triển các cụm công nghiệp Bắc Ninh
Từ năm 1998 (sau 01 năm tái lập tỉnh), Bắc Ninh đã quyết định thực
hiện thí điểm 04 cụm công nghiệp là: Cụm sản xuất thép Châu Khê – Đa hội
quy mô 13,5 ha; cụm sản xuất giấy Phong khê quy mô 12,7 ha; cụm sản xuất
đỗ gỗ mỹ nghệ Đồng Quang quy mô 12,7 ha và cụm công nghiệp đa ngành
Đình Bảng quy mô 14,7 ha. Việc phát triển các cụm công nghiệp nói trên đã
giải phóng lực lượng sản xuất, chỉ trong thời gian ngắn đã lấp đầy và đòi hỏi
phải mở rộng. Qua đó, Bắc Ninh rút ra bài học có giá trị sâu sắc trong việc
chỉ đạo xây dựng các KCN sau này.
Đến nay trên địa bàn toàn tỉnh đã có 25 cụm công nghiệp với tổng
diện tích lên đến 654,1 ha; tổng vốn đăng ký 2 384 tỷ đồng và gần 3,5 tỷ
USD; giải quyết cho 805 cơ sở sản xuất kinh doanh (trong đó 30,02% là các
tổ chức kinh tế, còn lại là các hộ kinh doanh cá thể).
Trong quá trình phát triển, các cụm công nghiệp Bắc Ninh đang ngày
càng gắn kết chặt chẽ với các KCN. Các cụm công nghiệp Bắc Ninh chủ yếu
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vừa linh hoạt vừa có khả năng tiếp cận đối
với các doanh nghiệp trong KCN để thực hiện các dịch vụ: Cung cấp nguyên
vật liệu, gia công sản phẩm, thu gom chế biến phế liệu, cung cấp lao động,
dịch vụ vận tải,…
Các cụm công nghiệp còn là bước đệm chủ yếu cho các doanh nghiệp
trong nước phát triển và di dời vào các KCN. Bởi vào các KCN có yêu cầu
nghiêm ngặt về môi trường, quy mô và chất lượng đầu tư. Cho nên, trong
giai đoạn đầu các doanh nghiệp trong nước đều muốn vào các cụm công
nghiệp để tiết kiệm chi phí. Nhưng khi sản xuất phát triển đến một trình độ
nhất định và ổn định về thị trường tiêu thụ thì các doanh nghiệp lại muốn mở
rộng sản xuất vào các KCN để lấy hình ảnh, thương hiệu KCN nhằm tăng uy

20
tín trên thị trường; hưởng các chế độ ưu đãi, giảm thiểu chi phí và tăng lợi
nhuận trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2. Quá trình phát triển các KCN
Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển các khu, cụm công nghiệp
trên địa bàn Bắc Ninh tăng nhanh chóng. Hiện nay, trên toàn tỉnh đã có 08
KCN có quy mô lớn. Các KCN đã được quy hoạch, xây dựng và phát triển
góp phần làm phân bố lại khu vực kinh tế; tạo thành hai khu vực phát triển
công nghiệp và nông nghiệp rõ rệt. Cụ thể:
2.1 KCN Tiên Sơn
Được thành lập theo Quyết định số 1129/QĐ – TTg ngày 19/12/1998
của Thủ tướng Chính phủ do Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng
(Vigracera) làm chủ đầu tư. KCN được khởi công vào tháng 12 năm 2000.
Với vị trí thuận lợi, nằm giữa Quốc lộ (QL) 1A và QL1B, cách thủ đô Hà
Nội khoảng 20 km, cách sân bay Quốc tế Nội Bài 30 km, cách cảng biển Cái
Lân 120 km.
KCN Tiên Sơn được quy hoạch theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 với quy
mô là 350 ha, đến năm 2002 (sau 2 năm thành lập) KCN được mở rộng với
diện tích quy hoạch đã lên đến 600 ha; tổng số vốn đầu tư hạ tầng 916,2 tỷ
đồng. Đây là KCN sạch để tiếp nhận các dự án sản xuất hàng cơ khí điện tử,
tiêu dùng, chế biến nông sản thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây
dựng,…
2.2 KCN đô thị Quế Võ
Được thành lập theo Quyết định số 1224/QĐ- TTg ngày 19/12/2002
của Thủ tướng Chính phủ. Diện tích đất quy hoạch là 636 ha (được chia làm
hai giai đoạn, trong đó giai đoạn đầu là 336 ha ). Tổng vốn đầu tư là 531 tỷ
đồng do công ty cổ phần phát triển Kinh Bắc làm chủ đầu tư. KCN được
khởi công vào tháng 04/2003.
KCN có vị trí thuận lợi, sát QL 18 tuyến sân bay Nội Bài – Thành phố
Hạ Long, gần QL 1B, cách Hà Nội 33 km, cách sân bay Quốc tế Nội bài 33

km, cảng Cái Lân Quảng Ninh 110 km, cảng Hải Phòng 100 km.
Bên cạnh KCN là khu đô thị, dân cư, dịch vụ 120 ha để phục vụ cho
KCN.
2.3 KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn
21
Diện tích đất quy hoạch là 230,8 ha, được thành lập theo Văn bản số:
319/TTg – CN ngày 28/03/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số:
1179/QĐ – CT ngày 01/07/2005 của Chủ tịch tỉnh Bắc Ninh. KCN có vị trí
nằm gần nút giao thông lập thể giữa QL 1B và đường tỉnh lộ 295. Cách Thủ
đô Hà Nội 20 km, cách sân bay Quốc tế Nội bài 31 km, cách cảng biển Cái
Lân 122 km.
KCN được thành lập để kêu gọi các dự án sản xuất cơ khí, điện, điện
tử, thủ công mỹ nghệ, dệt may và hàng tiêu dùng.
2.4 KCN đô thị Yên Phong
Diện tích quy hoạch là 740,73 ha; trong đó diện tích dành cho xây
dựng KCN là 340,73 ha. Còn lại 400 ha dành cho xây dựng khu đô thị.
KCN do tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng làm chủ đầu tư. KCN
có vị trí nằm sát đường QL 18, tuyến đường cao tốc sân bay Nội Bài – thành
phố Hạ Long, cách Hà Nội 28 km, sân bay quốc tế Nội Bài 20 km.
KCN được thành lập để kêu gọi vốn đầu tư thuộc các ngành nghề sản
xuất cơ khí, điện, điện tử, hàng tiêu dùng, chế biến nông sản thực phẩm và
vật liệu xây dựng cao cấp.
2.5 KCN Quế Võ II
Quy mô xây dựng 300 ha, do Tổng công ty đầu tư phát triển hạ tầng đô
thị làm chủ đầu tư. KCN được khởi công xây dựng vào đầu năm 2006. Và
hiện nay vẫn đang trong quá trình xây dựng, chưa đưa vào sử dụng.
2.6 KCN Công nghệ thông tin
Quy mô là 53 ha, do công ty cổ phần công nghệ viễn thông Sài Gòn
làm chủ đầu tư. KCN nằm sát nút giao thông lập thể giũă đường tỉnh lộ 295
và QL 1B, cách Hà Nội 19 km. Hiện nay, cũng đang trong quá trình xây

dựng chưa đưa vào sử dụng.
2.7 KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh
KCN Nam Sơn với quy mô 300 ha, nằm sát đường QL 38, QL 1B và
QL 18; KCN đã được xây dựng đầu năm 2006.Hiện nay, đã bắt đầu đưa vào
sử dụng.
2.8 KCN Thuận Thành
KCN Thuận Thành với quy mô 200 ha, nằm trên trụ đường QL 38 đi
22
Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng. KCN được quy hoạch để dành cho các
dự án đầu tư chế biến nông sản thực phẩm, vạt liệu xây dựng, thủ công mỹ
nghệ,…Hiện nay, đang tìm kiếm chủ đầu tư.
Như vậy, tính đến thời điểm hiện nay, Bắc Ninh có 06 KCN đã được
thành lập và đang đi vào hoạt động, 01 KCN đang xây dựng, còn lại 01 KCN
đang tìm kiếm chủ đầu tư.
Về mặt phân bố, các KCN đa số tập trung tại vùng phía bắc sông
Đuống, xung quanh tỉnh lỵ và khu vực thuận tiện về giao thông vận tải (tất
cả các KCN trên địa bàn đều tập trung dọc theo hoặc nằm sát nút giao thông
của những tuyến đường giao thông quan trọng ). Trong quá trình quy hoạch
KCN đã biết tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có, biết phát huy lợi thế tập trung
tạo ra lợi thế vượt trội hơn so với các vùng miền khác tạo điều kiện thuận lợi
hấp dẫn các nhà đầu tư tập trung phát triển công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra,
trong quá trình quy hoạch, Bắc Ninh luôn chú trọng quy hoạch KCN gắn
liền với quy hoạch Khu đô thị, khu dân cư đảm bảo hệ thống cung cấp dịch
vụ đồng bộ; đảm bảo sự phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật – xã hội trong và
ngoài hàng rào KCN; đảm bảo sự phát triển bền vững của các KCN trên địa
bàn tỉnh.
II. Đánh giá hiệu quả sử dụng các KCN trên địa bàn tỉnh
Sau 9 năm xây dựng và phát triển, các KCN Bắc Ninh đã hội tụ doanh
nghiệp đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, bao gồm: Doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài thuộc các lĩnh vực cơ khí, chế tạo, điện, điện tử, tin học, sản xuất vật
liệu xây dựng cao cấp, chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất đồ gỗ mỹ
nghệ, may mặc, giấy da,…và các doanh nghiệp phục vụ đã đầu tư vào Bắc
Ninh.
Nếu so sánh theo năm từ năm 2001 đến nay, các dự án đầu tư vào KCN
có xu hướng tăng dần cả về số lượng và quy mô dự án. Tính đến hết tháng
12 năm 2006, đã có khoảng 210 dự án đầu tư vào các KCN Bắc Ninh với
tổng số vốn đăng ký đầu tư khoảng 1,6 tỷ USD. Trong đó, có nhiều dự án
lớn như: dự án công ty Canon, công ty Toyo Ink Compounds Việt Nam,
Longtech Precision Việt Nam,…
Mặc dù, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển các KCN ở Bắc
Ninh tăng nhanh. Góp phần thúc đẩy lĩnh vực sản xuất công nghiệp phát
triển, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên qua tìm
hiểu tôi được biết, hiệu quả sử dụng các KCN chưa cao. Đây chính là một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng chất lượng phát triển
23
của các KCN nói riêng và của lĩnh vực công nghiệp nói chung còn thấp, dẫn
tới tình trạng lãng phí nguồn lực rất lớn trong quá trình đầu tư phát triển trên
địa bàn của tỉnh.
1. Tỉ lệ diện tích được lấp đầy
Tính đến hết tháng 12 năm 2006 (chỉ tính những KCN đã đưa vào sử
dụng), các KCN Bắc Ninh đã đưa vào quy hoạch tổng diện tích là 2 407,53
ha. Nhưng diện tích đất đã cho thuê của tỉnh còn thấp chỉ khoảng 1 041,98
ha chiếm khoảng 43,28% tổng số diện tích đã đưa vào quy hoạch (trong khi
ở Bình Dương tỉ lệ này khoảng 61,24% và ở Vĩnh Phúc khoảng gần 60%).
Chi tiết bảng 2.1:
Bảng 2.1: Tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN Bắc Ninh
(tính đến hết tháng 12/2006)
Đơn vị: ha
TT KCN Tổng diện tích

đưa vào QH
Diện tích đã
cho thuê
Tỉ lệ
(%)
1 KCN Tiên Sơn 600 343,25 57,21
2 KCN Nam Sơn - Hạp Lĩnh 300 114,6 38,20
3 KCN đô thị Quế Võ 636 261,08 41,05
4 KCN Quế Võ II 300 89,01 29,67
5 KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn 230,8 104,39 45,23
6 KCN đô thị Yên Phong 340,73 129,65 38,05
Tổng cộng 2 407,53 1 041,98 43,28
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh )
Từ bảng số liệu trên, cho thấy:
- Tỉ lệ diện tích đất cho thuê trên địa bàn của tỉnh còn thấp (chỉ
chiếm khoảng 43,28 % tổng số diện tích đã đưa vào quy hoạch).
- Tỉ lệ diện tích cho thuê của từng KCN chênh lệnh khá lớn, dao
động trong khoảng từ 29,67% đến 57,21%. Trong đó, KCN Tiên Sơn chiếm
tỉ lệ lớn nhất (57,21%), KCN Quế Võ II thấp nhất (29,67%).
24
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, tỉ lệ lấp đầy khoảng từ 70%
trở lên đạt được hiệu quả sử dụng về mặt đất đai, còn dưới 30% gây lãng phí
nguồn lực rất lớn. Điều đó, cho thấy hiệu quả sử dụng đất đai trong quy
hoạch các KCN trên địa bàn Bắc Ninh rất thấp.
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp tình hình cho thuê đất tại các KCN giai
đoạn 2001-2006
Số
TT Năm
Tổng diện tích của các KCN ( chỉ tích
các KCN đã đưa vào sử dụng )

Diện tích đã
cho thuê
Tỉ lệ
(%)
1 2001
940,43
250,78 26,67
2 2002
940,43
502,13 53,39
3 2003
1 236
539,67 43,66
4 2004
1 466,8
840,00 57,27
5 2005
2 407,53
913,18 37,93
6 2006
2 407,53
1 041, 98 43,28
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của BQL các KCN Bắc Ninh )
Biểu đồ tỉ lệ cho thuê đất tại các KCN ở Bắc Ninh giai đoạn 2001-2006
26.67
53.39
43.66
57.27
37.93
43.28

0
10
20
30
40
50
60
2001 2002 2003 2004 2005 2006
Nhận xét:
- Diện tích đất đã cho thuê tại các KCN Bắc Ninh có xu hướng tăng
lên. Tăng mạnh nhất ở thời kỳ 2003-2004 (tăng 300,13 ha), kế đến thời kỳ
2001-2002 (tăng 251,35 ha); tăng chậm nhất từ năm 2004-2005 (tăng 73,18
ha).
- Khả năng “ lấp chỗ trống” trong các KCN trên địa bàn tỉnh biến
động mạnh qua các năm. Cao nhất là năm 2004 (57,27%), thấp nhất là năm
2001 (26,67%).
25

×