Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

hành vi bán nhà của bà hà có trái với quy định về quyền định đoạt tài sản của vợ chồng căn cứ pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.05 KB, 12 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO</b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINHKHOA LUẬT DÂN SỰ</b>

<b>MƠN: LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH</b>

<b>BÀI THẢO LUẬN LẦN 3</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b><small>MỤC LỤC</small></b>

<small>II. Tình huống...12.1. Tình huống 1...1</small>

<small>2.1.1. Hành vi bán nhà của bà Hà có trái với quy định về quyền định đoạt tài sản của vợ chồng? Căn cứ pháp lý?...12.1.2. Hướng xử lý của Tòa án nếu ơng Bình có đơn u cầu Tịa án giải quyết ly hơn (xử lý dưới hai góc độ: nhân thân và tài sản, có viện dẫn cơ sở pháp luật)...22.2. Tình huống 2...22.2.1 Anh (chị) cho biết, yêu cầu của bà Tứ phải được giải quyết thế nào theo pháp luật (xác định rõ di sản thừa kế, đối tượng hưởng di sản của ông Thuấn), biết rằng tại thời điểm Tịa án giải quyết vụ án, mẹ ơng Thuấn đang quản lý di sản của ơng...32.3. Tình huống 3...42.3.1. Xác định có lý giải vợ của ơng Anh theo quy định của pháp luật?...42.3.2. Xác định di sản thừa kế của ông Anh và đối tượng được hưởng di sản của ơng giả thiết có tranh chấp về thừa kế và tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án, nhà số 11/8 tại xã K, Huyện LK, tỉnh HB do ông Anh đứng tên, được định giá 3 tỷ đồng...5</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>II. Tình huống2.1. Tình huống 1</b>

Ơng Bình và bà Hà tổ chức lễ cưới năm 1984. Sau cưới, hai người dọn về chung sống

tại căn nhà số 62A đường Mai Văn Vĩnh, xã X, huyện Y – tài sản mà bà Hà được cha

mẹ tặng cho riêng năm 1983.

Năm 2000, ơng Bình và bà Hà đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận kết hơn.

Năm 2019, ơng Bình và bà Hà sử dụng tài sản chung là 100 triệu đồng để nâng cấp

nhà số 62A sau đó sử dụng tầng trệt nhà cho thuê, mỗi tháng thu về 14 triệu đồng –

đây là nguồn thu nhập chính ni sống gia đình.

Năm 2022, bà Hà lập hợp đồng mua bán nhà 62A mà không cho ơng Bình Biết. Một

tháng sau, ơng Bình có đơn u cầu Tòa án xác định hợp đồng mua bán căn nhà số

62A đường Mai Văn Vĩnh, xã X, huyện Y là vô hiệu. Anh (chị) hãy cho biết:

<i><b>2.1.1. Hành vi bán nhà của bà Hà có trái với quy định về quyền định đoạt tài sảncủa vợ chồng? Căn cứ pháp lý?</b></i>

Trả lời: Hành vi bán nhà của bà Hà là trái với quy định về quyền định đoạt tài sản của

vợ chồng. Cụ thể:

- Ơng Bình và bà Hà sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1984 và đến năm

2000 thì ơng bà đã đăng ký kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn. Căn cứ mục

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

1 TTLT số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSDNTC-BTP thì quan hệ vợ chồng của họ

được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu sống chung với nhau như vợ

chồng) – 1984. Lúc này quan hệ vợ chồng giữa ơng Bình và bà Hà chịu sự điều chỉnh

của Luật Hơn nhân và gia đình (Luật HNGĐ) 1959.

- Căn cứ theo Điều 15 Luật HNGĐ 1959 quy định tài sản có trước và sau khi cưới là

tài sản chung của vợ chồng. Do vậy, trong trường hợp này, căn nhà số 62A của bà Hà

được cha mẹ tặng cho riêng trước khi cưới được xác định là tài sản chung của vợ

- Căn cứ Điều 17, Điều 29 Luật HNGĐ 2014 thì vợ chồng bình đẳng với nhau, có

quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Bình đẳng với nhau về quyền,

nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

- Như vậy, căn nhà số 62A được xác định là tài sản chung của vợ chồng ơng Bình và

bà Hà thì việc bà Hà bán nhà mà ơng Bình không biết là đã trái với quy định về quyền

định đoạt tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật HNGĐ 2014.

<i><b>2.1.2. Hướng xử lý của Tòa án nếu ơng Bình có đơn u cầu Tịa án giải quyết lyhơn (xử lý dưới hai góc độ: nhân thân và tài sản, có viện dẫn cơ sở pháp luật).</b></i>

lời: Hướng xử lý của Tòa án khi ơng Bình có đơn u cầu Tịa án giải quyết ly

hơn:

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

- Về nhân thân: Vì ơng Bình có đơn u cầu Tịa án giải quyết ly hôn, nếu đáp ứng các

điều kiện của Luật HNGĐ 2014 vê ly hơn thì Tịa án sẽ giải quyết ly hôn. Và quan hệ

hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hơn của Tịa án có hiệu lực pháp

luật – Điều 57 Luật HNGĐ 2014.

- Về tài sản:

+ Vì ơng Bình có đơn u cầu xác định hợp đồng mua bán căn nhà số 62A đường Mai

Văn Vĩnh, xã X, huyện Y là vô hiệu nên Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.

Bởi lẽ, theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 35 Luật HNGĐ 2014 khi định đoạt tài

sản chung là bất động sản (căn nhà số 62A) thì phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của

vợ và chồng. Trong trường hợp trên bà Hà bán căn nhà số 62A thì ơng Bình khơng biết

đến cũng như khơng sự thỏa thuận nào giữa ông và bà Hà. Do vậy, việc bà Hà bán nhà

vi phạm quy định tại Điều 29, Điều 35 Luật HNGĐ 2014 nên Tòa án sẽ tun bố giao

dịch đó là vơ hiệu theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 và Điều 123 Bộ luật dân

sự năm 2015.

+ Ngôi nhà được chia theo quy định tại Điều 59 Luật HNGĐ 2014, vì nhà không thể

chia bằng hiện vật nên sẽ chia theo giá trị của căn nhà. Và bên nào nhận phần tài sản

bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì sẽ thanh tốn cho bên kia

phần chênh lệch.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>2.2. Tình huống 2</b>

Ơng Thuấn và bà Tứ là vợ chồng

Năm 2016, hai bên thỏa thuận chia toàn bộ tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Theo

văn bản được công chứng ngày 11.12.2016, tài sản của vợ chồng được chia: Ông

Thuấn sở hữu nhà 3A trị giá 2.5 tỷ đồng; bà Tứ sở hữu 2.6 tỷ đồng. Ngay sau khi chia

tài sản, bà Tứ và ơng Thuấn khơng cịn sống chung với nhau.

Tháng 11.2018, bà Tứ sinh con trai và đăng ký khai sinh cho con. Giấy khai sinh ghi

tên trẻ là Trần Hải, tên cha là Trần Thuấn.

Tháng 6.2019, ông Thuấn yêu cầu Tịa án giải quyết ly hơn bà Tứ. Trong khi cơ quan

tiến hành tố tụng đang trong quá trình giải quyết vụ án, ngày 02.11.2019, ông Thuấn

đột tử. Do các bên liên quan không thỏa thuận được, bà Tứ khởi kiện chia di sản thừa

kế (là ngôi nhà 3A) đồng thời yêu cầu chia đôi 150 triệu đồng - khoản lợi tức có từ

việc ơng Thuấn sử dụng nhà 3A cho thuê sau khi chia tài sản chung (tại thời điểm Tòa

án giải quyết vụ án, khoản lợi tức còn).

<i><b>2.2.1 Anh (chị) cho biết, yêu cầu của bà Tứ phải được giải quyết thế nào theo phápluật (xác định rõ di sản thừa kế, đối tượng hưởng di sản của ơng Thuấn), biết rằngtại thời điểm Tịa án giải quyết vụ án, mẹ ông Thuấn đang quản lý di sản của ông.</b></i>

<b>Trả lời:</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i><b>*Xem xét mối quan hệ vợ chồng của ông Thuấn và bà Tứ: </b></i>

Trước thời điểm ơng Thuấn u cầu Tịa án giải quyết ly hôn bà Tứ vào tháng 6.2019

và trước thời điểm ngày 02.11.2019 ơng Thuấn đột tử thì giữa ơng và bà Tứ vẫn là mối

quan hệ vợ chồng. Giữa 2 bên có thỏa thuận chia tồn bộ tài sản chung trong thời kỳ

hôn nhân (Theo văn bản được công chứng ngày 11.12.2016) và ngay sau khi chia bà

Tứ và ông Thuấn không còn chung sống với nhau nhưng mãi đến tháng 6.2019 ơng

Thuấn mới u cầu Tịa án giải quyết ly hôn với bà Tứ. Trừ trường hợp tại Điều 65

của Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 (Sau đây gọi là Luật HNGĐ 2014) thì căn cứ vào

Điều 57 thời điểm được xem là chấm dứt hôn nhân và quan hệ hôn nhân chấm dứt khi

đáp ứng các điều kiện tại Khoản 1, 2 Điều 57. Tuy nhiên trong quá trình cơ quan đang

tiến hành giải quyết vụ án thì ơng đột tử. Như vậy, vào thời điểm trước khi ơng Thuấn

chết thì mối quan hệ vợ chồng giữa ơng và bà Tứ vẫn cịn.

<i><b>*u cầu của bà Tứ phải được giải quyết theo pháp luật, cụ thể:- Xác định di sản thừa kế:</b></i>

Căn cứ theo Điều 612 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) thì Di sản bao gồm tài sản

riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.

Như vậy, di sản của ông Thuấn bao gồm:

+ Căn nhà số 3A (Điều 33 và Điều 40 Luật HNGĐ 2014)

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

+ Khoản lợi tức - 150 triệu đồng từ việc sau khi chia tài sản chung được phát sinh từ

việc ông Thuấn sử dụng căn nhà 3A cho thuê. (Điều 33, Điều 40 Luật HNGĐ 2014).

=> Di sản = TSR + TS trong khối TSC

2.5 tỷ (giá trị căn nhà 3A) + 150tr (Khoản lợi tức từ việc cho thuê nhà 3A) = 2 tỷ 650tr

<i><b>- Xét đối tượng được hưởng di sản của ông Thuấn</b></i>

Áp dụng Điều 651 BLDS 2015 và Khoản 1 Điều 655 BLDS 2015 thì đối tượng được

hưởng di sản sẽ bao gồm:

+ Mẹ ông Thuấn

+ Bà Tứ

+ Con trai Trần Hải

Bởi vì căn cứ theo Điều 651 trường hợp này ông Thuấn đột tử mà không để lại di chúc

và số di sản của ông được mẹ ông quản lý tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án. Căn

cứ theo tình huống này thì áp dụng Điều 651 Người thừa kế theo pháp luật, cụ thể với

hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,

con ni của người chết; Bên cạnh đó tại Khoản 1 Điều 655 BLDS 2015 thì trường

hợp vợ - bà Tứ đã được chia tài sản chung khi hôn nhân cịn tồn tại mà sau đó một

người chết - ơng Thuấn thì bà Tứ vẫn được thừa kế di sản. Do đó, đối tượng được

hưởng di sản bao gồm mẹ ông Thuấn, bà Tứ và con trai.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Năm 1988, ông Anh kết hôn với bà Nhung. Con chung của họ là Thắm, Hùng.

Ông Anh, bà Lành, bà Nhung cùng chung sống tại nhà số 11/8 xã K, Huyện LK, tỉnh

HB. Nhà này là tài sản mà ông Anh được thừa kế riêng năm 1953. Năm 2014, bà

Nhung và ông Anh sử dụng 72 triệu đồng - số tiền có được từ việc bán 18 chỉ vàng mà

hai người được mừng cưới để nâng cấp, cải tạo nhà số 11/8.

Năm 2015, ông Anh chết không để lại di chúc.

Anh, chị hãy:

<i><b>2.3.1. Xác định có lý giải vợ của ông Anh theo quy định của pháp luật?</b></i>

<b>Trả lời:</b>

Vợ hợp pháp ơng Anh là bà Lành. Bởi vì,

Năm 1954, ơng Anh cưới Lành nhưng không đăng ký kết hôn, việc như vậy đã phát

sinh nên hôn nhân thực tế. Và quan hệ hôn nhân thực tế của ông Anh đáp ứng được

các điều kiện sau: (i) việc sống chung giữa ông Anh với bà Lành được xác lập trước

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

ngày 03.01.1987, ngày Luật HNGĐ 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn. (ii)

Không vi phạm điều kiện kết hôn theo pháp luật HNGĐ hiện hành (iii) Cuộc sống hôn

nhân không gián đoạn.

Năm 1952, ông Anh và bà Nga phát sinh nên hôn nhân thực tế khi chung sống với

nhau như vợ chồng, không đăng ký kết hơn. Tuy nhiên, sau đó họ khơng cịn sống

chung với nhau, cuộc sống hôn nhân bị gián đoạn và trước khi Luật HNGĐ1986 có

hiệu lực, ơng Anh đã chung sống với nhau như vợ chồng với Bà Lành. Do đó, cuộc

sống hơn nhân giữa ơng Lành và bà Nga đã chấm dứt. Vào thời điểm đó, chưa có văn

bản pháp luật, án lệ nào hướng dẫn trường hợp trên. Hiện nay, tuy cũng chưa có luật

hướng dẫn giải quyết nhưng đã có Án lệ số 41/2021/AL được cơng nhận giải quyết vụ

việc trên. Trường hợp này, phải xác định hơn nhân thực tế đầu tiên đã chấm dứt. Do

đó, quan hệ hôn nhân giữa ông Anh với bà Nga không được công nhận.

Đối với việc ông Anh kết hôn với bà Nhung vào năm 1988, thời điểm chịu sự điều

chỉnh của Luật HNGĐ 1986. Khi kết hôn với bà Nhung, ông Anh vẫn sống chung với

bà Lành. Nên ông Anh vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng (Điều 1, Điều 7

Luật HNGĐ 1986). Do vậy, việc ông Anh kết hôn với bà Nhung là kết hôn trái pháp

luật. Căn cứ theo Điều 9 Luật HNGĐ 1986 thì việc kết hơn giữa ơng Anh và bà Nhung

có thể bị Tồ án huỷ khi có u cầu của những chủ thể có thẩm quyền.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i><b>2.3.2. Xác định di sản thừa kế của ông Anh và đối tượng được hưởng di sản củng giả thiết có tranh chấp về thừa kế và tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ án, nhàsố 11/8 tại xã K, Huyện LK, tỉnh HB do ông Anh đứng tên, được định giá 3 tỷ đồng.</b></i>

Di sản thừa kế của ông Anh là căn nhà số 11/8 tại xã K, Huyện LK, tỉnh HB. Ông Anh

chết năm 2005, trong thời hạn có hiệu lực của BLDS 2005, do đó đối tượng được

hưởng thừa kế chịu sự điều chỉnh của BLDS 2005.

Ông Anh chết không để lại di chúc. Do vậy, trường hợp chia thừa kế di sản của ông

Anh thuộc trường hợp chia thừa kế theo pháp luật.

Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005 thì người được thừa kế hàng thứ

nhất của ông Anh bao gồm: Vợ: bà Lành; Con nuôi: Tuý; Con đẻ: Thắm, Hùng.

Căn cứ theo điểm a mục 1 phần II Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP: “Trường hợp quan

hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, nếu có một bên chết trước, thì bên

vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp

luật về thừa kế”. Như vậy, mặc dù bà Lành chưa đăng ký kết hơn với ơng Anh nhưng

có phát sinh quan hệ hơn nhân thực tế nên vẫn được chia di sản thừa kế theo pháp luật

Do ông Anh với bà Nhung kết hôn trái pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa 2 người

khơng được cơng nhận. Về tài sản của có 18 chỉ vàng mà hai bên được mừng. Đây

được xác định là tài sản chung, do khó xác định được cơng sức đóng góp của mỗi bên

nên giá trị số vàng trên được chia đôi. Do vậy. bà Nhung được nhận số tiền 36 triệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

đồng từ giá trị di sản của ơng Anh để lại, vì trước đó cả hai đã sử dụng số tiền đó để

cải tạo, nâng cấp ngôi nhà 11/8.

</div>

×