Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN MÔN HỌC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU (EN3087) TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN TÀI NGUYÊN ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.59 KB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCMTRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

1.3. Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu...3

CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN TÀI NGUYÊN ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG...5

2.1. Điều kiện tự nhiên ở đồng bằng sơng Cửu Long...5

2.2. Biến đổi khí hậu tác động lên tài nguyên đất ở đồng bằng sông Cửu Long...6

CHƯƠNG 3: Giải pháp...11

3.1. Giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu...11

3.2. Giảm nhẹ biến đổi khí hậu...15

Nhận thấy được nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu lên tài nguyên đất ở đồng bằng sông Cửu Long, em xin trình bày về đề tài “Biến đổi khí hậu tác động lên tài nguyên đất ở đồng bằng sơng Cửu Long” để từ đó có thể phân tích được những tác động của biến đổi khí hậu lên tài nguyên đất ở đông bằng sông Cửu Long, từ đó đề suất các giải pháp giúp thích ứng và giảm nhẹ biến đơi khí hậu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN</b>

<b>1.1.Khái niệm</b>

Khí hậu là tổng hợp của thời tiết được đặc trưng bởi các trị số thống kê dài hạn (trung bình, xác suất các cực trị v.v...) của các yếu tố khí tượng biến động trong một khu vực địa lý trong một thời gian dài, trung bình thường là hang thập kỉ.

Biến đổi khí hậu có thể do các yếu tố tự nhiên, như là thay đổi lượng bức xạ mặt trời, nhiệt độ, áp suất, .. hoặc do các tác động của con người.

Biến đổi khí hậu là sự thay đổi trạng thái khí hậu có thể xác định thơng qua các thay đổi về giá trị trung bình hoặc biến thiên (dao động) của các yếu tố khí hậu trong một thời gian dài, có thể hàng thập kỷ hoặc lâu hơn (IPCC, 2007).

<b>1.2.Hiện trạng</b>

<b>1.2.1. Trên thế giới </b>

Biến đổi khí hậu đang gây ra sự nguy hiểm cho tự nhiên và ảnh hưởng đến đời sống của hàng tỷ người dân trên toàn thế giới. Bất chấp những nỗ lực nhằm giảm thiểurủi ro về việc biến đổi khí hậu, trong 50 năm qua đã có hơn 11.000 thảm họa liên quan đến thời tiết và thiên tai, khiến hơn 2 triệu người chết và nền kinh tế thế giới thiệt hại 3,64 nghìn tỷ đơ la Mỹ. (IPCC 2022). Mức thiệt hại này cịn có thể tăng nhiều hơn trong tương lai, khi việc Trái đất nóng lên là chắc chắn và những thời tiết khắc nghiệt và thiên tai sẽ tăng lên theo.

<b>1.2.2. Tại Việt Nam</b>

Dưới tác động của biến đổi khí hậu, tại Việt Nam thời tiết cực đoan có xu thế gia tăng cả về cường độ lẫn tần suất. Mưa cực đoan hầu như tăng hầu hết ở các vùng trên cả nước, số ngày nắng nóng nhiều hơn cùng với đó là hạn hán thường xuyên. Số lượng các cơn bão mạnh trên biển Đơng có xu thế tăng và thời tiết thất thường diễn ra mọi nơi trên cả nước, trong đó điển hình là hiện tượng khô hạn và mưa cực đoan ở miền Trung, rét đậm và rét hại ở miền núi phía Bắc; hạn hán và xâm nhập mặn ở miền Nam (Tổng cục khí tượng thủy văn, 2021).

<b>1.3.Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu</b>

Biến đổi khí hậu đã xảy ra từ hàng triệu, hàng tỷ năm trước bởi các yếu tố tự nhiên, có thể từ hiệu ứng Milankovitch-Croll, sự tiến động, các quá trình địa chất, hoạtđộng núi lửa hoặc thay đổi nội tại của các thành phần hệ thống khí hậu,… Tuy nhiên, với sự tác động của con người, biến đổi khí hậu mới dần xảy ra theo hướng ngày càng tiêu cực. Các bằng chứng khoa học về biến đổi khí hậu được dựa trên nhiều nguồn khác nhau như các dấu hiệu từ lịch sử và khảo cổ, sông băng, v.v. Các nhà khoa học nhận ra có sự biến động tuyến tính giữa nhiệt độ Trái Đất và các vấn đề như mực nướcbiển, băng tan và độ phủ của băng tuyết, đồng thời có mối liên hệ mật thiết giữa nhiệt

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

độ Trái Đất và nồng độ khí nhà kính. Hiện nay, từ các hoạt động sản xuất, sinh hoạt phục vụ cho những nhu cầu thiết yếu của con người, những hoạt động này đã và đang ảnh hưởng đến môi trường và Trái Đất thông qua nhiều cách thức cùng với việc phát thải khí nhà kính và biến đổi khí hậu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN TÀI</b>

<b>NGUYÊN ĐẤT Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG</b>

<b>2.1. Điều kiện tự nhiên ở đồng bằng sông Cửu Long.</b>

Đồng bằng châu thổ được hình thành khi một dịng sơng mang trầm tích đến một vùng nước, chẳng hạn như hồ, đầm, biển, đại dương, ... Khi dòng chảy đi vào vùng nước đó, nó khơng cịn bị giới hạn trong lịng sông nữa mà mở rộng về chiều rộng. Điều này làm cho tốc độ dòng chảy bị giảm đi, làm giảm khả năng vận chuyển trầm tích của dịng chảy. Kết quả của việc này là trầm tích rơi ra khỏi dòng chảy và lắng đọng dưới dạng phù sa, tích ra một vùng đồng bằng kéo dài xuống biển. (Bogss, Sam, 2006). Độ cao của đồng bằng châu thổ này là động và thay đổi theo thời gian saunén trầm tích và biến động mực nước biển. Khi mực nước biển dâng cao, độ cao của đồng bằng châu thổ có thể được tăng lên bằng cách lắng đọng trầm tích sơng hoặc biểnmới trong lũ lụt, hoặc bằng cách sản xuất trầm tích hữu cơ bằng cách thảm thực vật ở đồng bằng châu thổ.

Đồng bằng châu thổ sơng Cửu Long là địa hình trẻ về mặt địa chất đã được hình thành trong 6000 năm qua, khi mực nước biển ở Đông Nam Á đạt mức tương đối ổn định sau khi mực nước biển dâng cao sau kỷ băng hà cuối cùng. Dưới sự tràn vào của một lượng lớn trầm tích chủ yếu là sơng ngịi mang vào bên sơng Mê Kơng, đồng bằng sơng Cửu Long bắt đầu hình thành bắt nguồn từ khu vực thuộc Campuchia ngày nay. Nhờ việc nước biển rút đi ngày càng thấp cũng như dịng trầm tích ngày càng nhiều dẫn đến việc đồng bằng sông Cửu Long dần hình thành và nhanh chóng mở rộngthành hình dáng hiện tại. Hiện nay, Đồng bằng sông Cửu Long rộng khoảng 40.000 km<small>2</small>, là vùng đồng bằng châu thổ lớn thứ ba trên Trái đất (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam,2008)

Do là vùng đồng bằng trẻ về mặt địa chất nên có địa hình bằng phẳng và có độ cao tương đối thấp, từ biên giới Campuchia đến bờ biển chỉ có độ cao trung bình so với mặt biển là 0,7-1,2. Dọc theo biên giới Campuchia cao hơn với cao độ từ 2,0-4,0 m, sau đó thấp dần xuống trung tâm đồng bằng với cao độ 0,8-1,2 m và chỉ còn 0,3-0,5m ở khu vực giáp triều và ven biển. (Lương Quang Xô, 2012). Điều này làm cho đồng bằng cực kỳ dễ bị tổn thương với thay đổi mực nước biển hoặc sụt lún đất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>2.2. Biến đổi khí hậu tác động lên tài nguyên đất ở đồng bằng sơng Cửu Long</b>

Biến đổi khí hậu là mối đe doạ lớn nhất đối với đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, những tác động của nó mang lại ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của vùng đồng bằng này. Biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nhanh chóng trên quy mơ tồn cầu đồng thời tác động ngày càng mạnh mẽ đến mọi quốc gia, nên chúng ta phải phân tích các mặt biến đối khí hậu gây ra làm ảnh hưởng đến đồng bằng sông Cửu Long, từ đó đưa ra biện pháp giảm nhẹ và thích nghi chúng.

<b>2.2.1. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến tình trạng hạn mặn</b>

Biến đổi khí hậu gây ra việc thay đổi lượng mưa và chu kì mưa. Đơn cử như từ đầu mùa lũ năm 2020 đến tháng 9 năm 2020, lượng mưa trên lưu vực sông Mê Cơng thiếu hụt từ 30-40% so với trung bình nhiều năm, dịng chảy sơng Mê Cơng ở mức rất thấp; Biển Hồ (Campuchia), nơi cung cấp nguồn nước quan trọng bổ sung cho Đồng bằng sông Cửu Long trong các tháng mùa khô hiện mới trữ được gần 9 tỷ m3 nước, thấp hơn trung bình nhiều năm cùng thời kỳ khoảng 23 tỷ m3 nước, thấp hơn năm 2015 khoảng 8 tỷ m3 và thấp hơn năm 2019 khoảng 2 tỷ m3 nước (Mạnh Hùng, 2020).

<i>Hình 1. Tổng lượng mưa hàng năm ở trạm Mỹ Tho (Viện Khoa học Mơi trường và Phát triển,2020)</i>

Theo hình 1, ta có thể thấy được lượng mưa hàng năm ở nhiều khu vực ở đồng bằng sơng Cửu Long đang có xu hướng giảm. Do đó tác động lên chu kì lũ và cường độ lũ cũng giảm so với trước. Chu kì lũ sẽ thay đổi, trở nên ngắn và nhỏ hơn gây khó khăn cho cuộc sống cũng như sinh kế cho bà con nơi đây

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>Hình 2: So sánh sự thay đổi của tính chất lũ ở 2 thập niên 2000-2009 và 2010-2019:xu thế số năm lũ lớn và lũ trung bình giảm đi và số năm lũ nhỏ tăng lên (Lê Anh Tuấn, 2020)</i>

Qua hình 2 ta có thể thấy được lũ ở đồng bằng sông Cửu Long ngày càng nhỏ hơn so với trước. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân gây nên. một phần là do các nước thượng nguồn giữ lại nước để sử dụng và phát triển thuỷ điện, một phần là do hiện tượng El Nino làm cho lượng mưa giảm, một phần rất lớn do biến đổi khí hậu làmthay đổi lượng mưa gây ra giảm lưu lượng nước, ngồi ra biến đổi khí hậu cịn làm nhiệt độ tăng làm gia tăng bốc hơi, góp phần gây ra hiện tượng hạn mặn.

Do những yếu tố trên, tình trạng hạn mặn ở đông bằng sông Cửu Long ngày một gia tăng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Vì nước biển nặng hơn nước ngọt nên dễ dàng chìm xuống dưới, đẩy nước sơnglên trên. Vì vậy khi nước sơng chảy yếu nước mặn sẽ xâm thực vào trong đất liền theo các dịng sơng, kênh, rạch gây nên tình trạng hạn mặn. Ngồi ra, việc khai thác cát sơng dẫn đến hạ thấp đáy sông cũng tạo thuận lợi cho xâm nhập mặn đi sâu vào trong đất liền. Việc lượng mưa ngày càng ít, lũ có chu kì thay đổi và ngày càng ngắn làm cho việc xâm nhập mặn đang gia tăng. Đơn cử như đợt hạn mặn lịch sử năm 2020, nước mặn đã lấn sâu đến 130km vào trong đất liền và kênh rạch của Đồng bằng sông Cửu Long. 5 trong số 12 tỉnh rơi vào tình huống khẩn cấp trước thiên tai (Kiên Giang, Bến Tre, Tiền Giang, Cà Mau và Long An) và gây ảnh hưởng đến lượng nước ngọt cung cấp cho hàng triệu người dân nơi đây (Nguyễn Tuấn Vũ, 2020).

<b>2.2.2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sụt lún, nước biển dâng</b>

Do địa hình thấp, độ cao trung bình chưa tới 2m nên rất dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, tác động của nước biển dâng. Ngồi ra bởi vì là vùng đồng bằng trẻ, nền đất yếu nên rất dễ bị sụt lún.

Sụt lún ở đồng bằng sơng Cửu Long có nhiều ngun nhân, nhưng có 3 ngun nhân chính:

Ngun nhân đầu tiên có thể nhận ra là các đập thượng nguồn làm giảm phù sa và lượng nước ảnh hưởng. Ước tính tổng lượng phù sa do sông Mekong vận chuyển khoảng 160 triệu tấn/năm, tuy nhiên các ước tính gần đây cho thấy nguồn cung cấp phù sa cho ĐBSCL giảm 40–90% do trầm tích bị giữ lại bởi các đập ở thượng nguồn. Ngoài ra, khai thác cát hiện tại ở ĐBSCL và vùng thượng nguồn ở Lào và Campuchia ước tính lên đến 40–50 triệu tấn/năm, ước tính hơn 100% tổng lượng phù sa phù sa cung cấp. Các tác động quan trọng nhất của việc thiếu hụt phù sa là tốc độ bào mịn đáy sơng cao ở ĐBSCL (10-15 cm / năm), làm tăng biên độ thủy triều khoảng 2 cm/năm điều này góp phần đáng kể gây ra tình trạng ngập lụt ở đô thị và gia tăng xâm nhập mặn khoảng 0,2-0,5 PSU/ năm trong hai thập kỷ qua.

Nguyên nhân thứ 2 là do mực nước biển dâng tương đối và những thay đổi về lưu lượng nước do biến đổi khí hậu có thể sẽ làm tăng (10%) ranh giới đường đẳng mặn ở các tỉnh ven biển trong nửa đầu thế kỷ.

Nguyên nhân thứ 3 là do khai thác nước ngầm quá mức. Quá trình đơ thị hóa nhanh chóng và tăng cường sản xuất lương thực ở Đồng bằng đã gây áp lực to lớn lên tài nguyên nước của đồng bằng sông Cửu Long. Ví dụ, trong lĩnh vực ni trồng thủy sản, nhu cầu về nước ngọt/lợ chất lượng đã tăng lên đáng kể trong những thập kỷ qua. Do đó, việc khai thác nước ngầm đã phát triển nhanh chóng, tăng gấp 5 lần trong 20 năm qua. Khối lượng khai thác hiện nay là ~2,5 106 m3/ngày, tăng trưởng hàng năm là4%/năm. Khai thác quá mức nước ngầm là nguyên nhân chính gây ra tỷ lệ sụt lún đất

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

cao ở Đồng bằng (ở một số nơi lên tới 5 cm/năm), hiện không được bù đắp bằng trầm tích mới. Kết quả là vùng đồng bằng đang bị mất độ cao nhanh chóng.

Trong những thập kỷ tới, mực nước biển dâng tương đối sẽ chủ yếu được quyết định bởi mức độ sụt lún, phần lớn phụ thuộc vào việc khai thác nước ngầm. Nếu tốc độkhai thác vẫn ở mức hiện nay thì mức độ sụt lún tích lũy trung bình có thể trên 80 cm vào năm 2100, kết hợp với mực nước biển dâng tồn cầu và thiếu trầm tích ở các vùngđồng bằng ngập lũ, sẽ khiến phần lớn vùng Đồng bằng giảm xuống dưới mực nước biển (Vo Quoc Thanh, 2021).

Mực nước biển dâng trung bình hàng năm là 2-3 mm; nhưng tốc độ sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long khá lớn, trung bình khoảng 2-3cm, riêng ở TPHCM khoảnggần 4cm (Nguyễn Hùng, 2019). Do đó, yêu cầu chúng ta cần những biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu tác động của việc sụt lún.

<b>2.2.3. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sạt lở </b>

Đông bằng sông Cửu Long xảy ra 2 kiểu sạt lở chính là sạt lở bờ sông và sạt lở bờ biển. Một phần nguyên nhân xảy ra là do thiếu các trầm tích do các con sơng mang đến do các trầm tích bị ngăn chặn ở các đập thượng nguồn. Đồng thời với đó, việc khaithác cát ngày một nhiều cũng dẫn đến các thiếu hụt nghiêm trọng các trầm tích. Vùng đất ở các bờ sơng, biển khơng có lớp thực vật hoặc vật chắn sóng để giữ đất nên dễ bị mang đi khi có sóng hoặc dịng chảy tác động.

Với các bờ sông, 13 tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long hiện có tới 558 vị trísạt lở bờ sơng với chiều dài hơn 740 km. Trong đó, 81 vị trí sạt lở đặc biệt nguy hiểm, 137 vị trí sạt lở nguy hiểm (Cục Quản lý đê điều và PCTT, 2023). Với việc khai thác cát ngày một gia tăng, khơng có lớp bảo vệ cũng như việc thiếu hụt trầm tích ngày một trầm trọng, sạt lở bờ sơng có nguy cơ sẽ ngày một gia tăng và gây ảnh hưởng đến cuộcsống nhiều người. Cùng với đó, lượng mưa giảm cũng làm cho lượng phù sa về ít hơn nên khả năng bồi lấp lại những vị trí đã khuyết ít hơn. Chính điều này làm thiếu hụt trầm tích - nguồn phù sa quan trọng để bồi lắng, bổ sung cho bờ biển tạo nên cân bằng bùn cát. Sự mất cân bằng bùn cát kết hợp với các yếu tố thủy thạch động lực học bờ biển, sóng gió, nước dâng đã làm cho dải bờ biển bị sạt lở đáng kể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>(Roman Sorgenfrei & Stefan Groenewold, 2019).</i>

Đồng bằng sông Cửu Long từng tiến ra biển với tốc độ trung bình lớn hơn 30 m/năm nhưng tỷ lệ này đã giảm trong những thập kỷ qua, trở nên âm sau năm 2005. Hiện nay, chỉ có khoảng 10% bờ biển vẫn còn đang bồi tụ hơn 20 m mỗi năm, đặc biệtlà ở các mũi đất Tây Nam Cà Mau. Trong khi đó, hơn 50% bờ biển dài 720 km hiện đang bị xói lở, trong đó hơn 70 km đang bị xói lở với tốc độ từ 20 đến 50 mét mỗi năm, do thiếu trầm tích do các đập ở thượng nguồn và khai thác cát, sụt lún, số lượng bão gia tăng và mực nước biển dâng (Roman Sorgenfrei & Stefan Groenewold, 2019).

Xu hướng dâng lên của mực nước biển trong những năm gần đây cũng góp phần gây ra sụt lở mạnh hơn. Biển dâng gây nên những con sóng đi vào bờ sâu hơn, kết hợp với tình trạng sụt lún làm cho nước biển vào càng dễ hơn. Ngoài ra, việc ngườidân phá rừng ngập mặn làm cho những bờ biển khơng có lớp bảo vệ làm cho sóng đánh vào dễ mang đi đất hơn, gây ra tình trạng sạt lở ngày cảng nghiêm trọng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>CHƯƠNG 3: Giải pháp</b>

Do những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu gây ra với tài nguyên đất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, ta cần những giải pháp thích ứng với những thay đổi, tác động trong tương lai gần và biện pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu để bảo tồn tương lai xa hơn.

<b>3.1. Giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu</b>

Những giải pháp dưới đây giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu gây ra cho tài nguyên đất của đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời thích ứng với những thay đổi này.

<b>3.1.1. Trồng cây ngăn sạt lở</b>

Một số nghiên cứu cho thấy, trồng cây, cỏ để chống sạt lở chỉ hiệu quả đối với bờ sơng ngịi, kinh, rạch có tốc độ sạt lở yếu (dưới 2 m/năm). Sạt lở với tốc độ này thường xảy ra ở những sông nhỏ, kinh, rạch nội đồng nằm ngồi vùng đê bao bị bồi lắng, dịng chảy yếu, ít tàu ghe qua lại hoặc ở những đoạn sông, rạch, kinh bị giáp nước hay ở những bãi bồi trên các cồn, cù lao, bãi sông lớn và biện pháp chống sạt lở có thể áp dụng theo dân gian đã làm.

Cụ thể như: trồng cây, cỏ chắn sóng, giữ mé (gồm dừa nước, gừa, lau, sậy, bần, cỏ nga, dứa, mướp gai, mái dầm, ráng, ô rơ, cóc kèn, rau muống, lục bình, điên

điển…); hoặc sử dụng vật liệu tại chỗ để tấn mé như cọc tràm, tre đóng bên ngồi kết hợp tấn tre, me bồ, tấm bạt nilon, rồi lấp gạch vụn, bao cát, đá vào bên trong.

Dừa nước là cây được trồng phổ biến và thích nghi tốt với vùng nước lợ, có nhiều ở các huyện Vũng Liêm, Trà Ơn, Tam Bình, Mang Thít. Cây có sức sống mãnh liệt, giữ đất bờ tốt nhờ bẹ, thân rộng, rễ mọc sâu. Tuy nhiên, dừa nước chỉ phát triển tốt ven những dịng kinh, rạch có mái bờ thoải, mái lài. Kinh, rạch bị nạo vét quá sâu, mái kinh dốc làm cho dừa nước chậm phát triển hoặc chết dần.

Cây bần mọc hoang hoặc được trồng nhiều ở những bãi bồi trên các cồn, cù lao,bãi sông lớn trên địa bàn tỉnh như sông Tiền, sông Hậu, sông Cổ Chiên và nhiều kinh, rạch lớn khác. Bần có tác dụng giữ đất và chắn sóng, chắn gió tốt nên hạn chế đáng kể sạt lở bờ sông cũng như nhà ở, cơng trình gần mảng bần mọc. Có thể trồng thêm dừa nước hoặc lục bình, cây cỏ khác dưới tán bần giúp tăng thêm tác dụng chắn sóng, sạt lở bờ.

</div>

×