Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 22 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">
Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, truyền thống lại bạo dậy, tạo thành sức mạnh vôđịch đập tan lũ cướp nước và bán nước, bảo vệ trường tồn tại của đất nước. Lịch sửchỉ ra rằng, để truyền thống yêu nước trở thành mạch nguồn sức mạnh, giai cấp lãnhđạo phải có đường đi chính trị đúng đắn, tin vào sức mạnh của quần chúng, giànhlợi ích của dân tộc làm thượng tôn, thực sự là ngọn cờ dẫn dắt, tập hợp toàn dân tộctạo thành một khối thống nhất chống lại kẻ thù chung. Ngược lại, nếu truyền thốngyêu nước không được khơi dậy và phát huy trở thành thành sức mạnh của dân tộcthì mất nước là điều khó tránh khỏi. Thực tế bài học từ cuộc kháng Pháp xâm lượccuối thế kỷ 19, thời Nguyễn là một minh chứng.
"Các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XIX,đầu thế kỷ XX trong bảo tàng Cách mạng Việt Nam" mang ý nghĩa nghiên cứu vềcác hoạt động quốc gia Việt Nam trong việc chống lại sự xâm lược của Pháp trongthời kỳ này. Sự bế tắc trong đường lối cứu nước trong giai đoạn này nằm ở việc cácphong trào yêu nước chưa thể hoàn toàn thống nhất và đồng thuận với nhau, ảnhhưởng của sự chia rẽ và thiếu sự lãnh đạo đồng nhất trong cuộc chiến chống Pháp.Nghiên cứu vấn đề này sẽ giúp hiểu rõ hơn về quá trình cách mạng của dân tộc ViệtNam và tìm ra những bài học quý giá từ quá khứ.
Phong trào yêu nước chống Pháp là các hoạt động của nhân dân Việt Nam nhằmchống lại sự xâm lược và ách đô hộ của Pháp trong thời gian cuối thế kỷ XIX vàđầu thế kỷ XX. Những nỗ lực này bao gồm các phong trào như Cần Vương, ĐôngDu, Duy Tân và nhiều phong trào khác. Tuy nhiên, những phong trào này chưa thểthống nhất và đồng thuận với nhau, dẫn đến sự bế tắc trong đường lối cứu nước.Việc nghiên cứu về phong trào yêu nước chống Pháp này sẽ giúp hiểu rõ hơn vềnhững nỗ lực của nhân dân Việt Nam trong việc chống lại sự xâm lược và tìm giảipháp để vượt qua những khó khăn vốn có.
Bảo tàng Cách mạng Việt Nam là một tổ chức văn hóa,bảo tồn và trưng bàynhững hiện vật, hình ảnh và tư liệu về các phong trào cách mạng của dân tộc ViệtNam. Nơi đây ghi nhận và tái hiện các sự kiện lịch sử quan trọng như phong tràoyêu nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Bảo tàng Cách mạng ViệtNam đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử và giáo dục công chúngvề các phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Tại đây, người ta có thể thấy rõsự bế tắc trong đường lối cứu nước thời kỳ này và hiểu rõ những nguyên nhân dẫnđến sự bế tắc đó. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam là một nguồn tư liệu quý giá đểtìm hiểu về lịch sử cách mạng của dân tộc.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã phản ánh sự bế tắc trong đường lối cứu nước trong thời kỳ này. Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đang phải chịu sự thống trị và áp bức từ Pháp. Trước tình hình này, các phong trào yêu nước đã xuất hiện nhưng đều gặp khó khăn trong việc thực hiện những mục tiêu cứu nước do những nguyên nhân gâyra sự bế tắc. Tuy nhiên, phong trào yêu nước vẫn có ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc gia tăng nhận thức dân tộc, xây dựng lòng yêu nước và làm nền móng cho những phong trào tiếp theo.
<b>1.1. Khái quát về tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX</b>
Tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX khá khó khăn. Đất nước bị Pháp thơn tính và áp bức, dân chúng phải gánh chịu sự cai trị thực dân. Bên cạnh đó, Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều vấn đề nội bộ như sự đổ vỡ trong triều đình, thiếu nền tảng kinh tế và quân sự, cùng với sự phân cực và phân chia trong các phong trào yêu nước. Tình hình này tạo nên sự bế tắc trong đường lối cứu nước.
<b> Thời kỳ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam đối mặt với sự bế</b>
tắc trong việc tìm đường lối cứu nước. Sự bất đồng và mất đoàn kết trong các phongtrào yêu nước khiến cho cuộc chiến chống Pháp trở nên khó khăn và khơng hiệuquả. Bên cạnh đó, nhân dân Việt Nam thiếu một chiến lược cụ thể để đối phó vớiPháp, điều này càng khiến cho việc đấu tranh trở lên bế tắc. Ngoài ra, cũng thiếu sựhỗ trợ từ các nước bạn, khiến Pháp có thể tận dụng và chiếm đóng các vùng lãnhthổ của Việt Nam.
Trong thời kỳ này, một trong những nguyên nhân gây bế tắc là thiếu sự đồn kếttrong các phong trào u nước. Các nhóm tổ chức và cá nhân khơng thể đạt đượcmột tầm nhìn chung, khơng có mục tiêu và lợi ích chung trong việc chống lại sựthơn tính của Pháp. Sự tương ứng và quyết đoán trong hành động chung cũng bị ảnhhưởng nghiêm trọng, làm cho cuộc cứu nước trở nên mất tổ chức và khơng hiệuquả.
Một yếu tố quan trọng khác góp phần vào sự bế tắc trong đường lối cứu nước làthiếu chiến lược và lãnh đạo mạnh mẽ. Trong thời kỳ này, khơng có một chiến lược
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">rõ ràng và bài bản để đối phó với sự xâm lược của Pháp. Sự thiếu sót này kết hợpvới thiếu lãnh đạo mạnh mẽ đã ảnh hưởng đến khả năng tổ chức và ra quyết địnhđúng đắn trong cuộc cứu nước.
Trong thời kỳ này, nhân dân Việt Nam cũng thiếu sự hỗ trợ từ các nước bạn quốctế, góp phần làm gia tăng bế tắc trong cuộc chiến chống Pháp. Các nước bạn cầncẩn trọng khi hỗ trợ chính trị và tài chính cho Việt Nam, vì sự can thiệp của Pháp vàtổ chức Pháp đã khiến cho việc hỗ trợ trở nên khó khăn hơn. Do đó, thiếu sự ủng hộquốc tế đã gia tăng gánh nặng cho cuộc chiến và đồng thời làm suy yếu đường lốicứu nước.
<b>1.3. Ý nghĩa và tầm quan trọng của phong trào yêu nước</b>
Mặc dù gặp phải sự bế tắc trong đường lối cứu nước, phong trào yêu nước vẫn cóý nghĩa và tầm quan trọng đối với nhân dân Việt Nam. Phong trào yêu nước đã giúpnâng cao nhận thức dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước, tạo cơ sở cho việc xâydựng và phát triển các phong trào tiếp theo. Ngồi ra, phong trào u nước cịn giúpthể hiện ý chí độc lập và tự do của nhân dân Việt Nam trước sự thống trị và áp bứccủa Pháp. Tóm lại, phong trào yêu nước có ý nghĩa lớn trong việc khởi đầu nhữngnỗ lực cứu nước cho đất nước.
Phong trào Cần Vương là một phong trào nổi lên trong thế kỷ 19 ở Việt Nam,nhằm chống lại sự xâm lược và thực dân hóa của Pháp. Phong trào này được lãnhđạo bởi các sĩ phu, văn thân và các nhà lãnh đạo khác trên khắp Việt Nam, và đượckhởi đầu từ lời kêu gọi của vua Hàm Nghi cho sự hỗ trợ của nhân dân đối với triềuđình. Phong trào Cần Vương cố gắng khôi phục quyền lực của triều đình Nguyễn,giành lại độc lập cho Việt Nam và đẩy lùi sự xâm lược của Pháp. Tuy nhiên, phongtrào này khơng đồng nhất và khơng có một lãnh đạo chung, vì vậy các cuộc khởinghĩa Cần Vương thường diễn ra tại các vùng đất riêng lẻ trong cả nước.Nó trởthành biểu tượng của sự đấu tranh và mong muốn giành lại độc lập và tự do cho dântộc. Phong trào này đã có sự lan rộng trong các tầng lớp xã hội và có ảnh hưởng lớnđến việc hình thành những cuộc khởi nghĩa và nổi dậy chống lại thực dân Pháp.Cuối cùng, phong trào Cần Vương đã khơng thành cơng trong việc đánh bại sựchiếm đóng của người Pháp, nhưng nó đã đóng góp quan trọng vào sự nổi dậy củadân tộc và làm nền tảng cho các phong trào cách mạng sau này trong việc đòi độclập cho Việt Nam.
<b>2.1.1. Khái niệm và nguồn gốc </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Phong trào Cần Vương được ra đời vào những năm 1885-1887, sau khi Việt Namrơi vào tay thực dân Pháp. Từ khái niệm "Cần Vương" có nghĩa là "đại vương cần"hay cần sự chỉ đạo của vị vua để đánh bại kẻ thù và khôi phục quyền lực của triềuđình Nguyễn. Nguồn gốc của phong trào này xuất phát từ sự phản kháng của nhữngngười phản đối ách thống trị của Pháp, trong đó có các lãnh tụ như Phan ĐìnhPhùng, Nguyễn Tri Phương và Tơn Thất Thuyết.
<b>2.1.2. Mục tiêu và tầm quan trọng </b>
Mục tiêu chính của phong trào Cần Vương là chống lại sự chiếm đóng của thựcdân Pháp và khơi phục lại quyền lực và độc lập của triều Nguyễn. Tầm quan trọngcủa phong trào này là sự lan truyền ý thức dân tộc, góp phần thức tỉnh và tập hợpsức mạnh của nhân dân để kháng cự. Nó đã gắn kết các tầng lớp xã hội và tạo nênlòng yêu nước mạnh mẽ, tạo đà cho sự nổi dậy và khởi nghĩa chống lại thực dânPháp sau này.
<b>2.1.3. Các hoạt động của phong trào</b>
Sau ngày ký hiệp ước Giáp Thân (06/6/1884), mâu thuẫn giữa phe chủ chiếntrong triều đình Huế do Tôn Thất Thuyết đứng đầu với thực dân Pháp ngày càng trởnên gay gắt. Đêm mồng 04 rạng ngày 05/7/1885 (nhằm đêm 22 rạng ngày 23/5 nămẤt Dậu), Tôn Thất Thuyết quyết định nổ súng đánh úp đồn Mang Cá và tịa Khâmsứ. Do kế hoạch tấn cơng chưa được chuẩn bị chu đáo nên bị thất bại. Kinh thànhthất thủ, Tơn Thất Thuyết phải phị vua Hàm Nghi rời bỏ kinh đơ lên Tân Sở. Ngày13/7/1885, từ sơn phịng Quảng Trị, nhà vua ban dụ Cần Vương kêu gọi nhân dânđứng lên ứng nghĩa giúp vua cứu nước. Sự biến kinh thành ngày 05/7/1885 đã cóảnh hưởng và tác động khơng nhỏ đối với phong trào giải phóng dân tộc của nước tavào cuối thế kỷ thứ XIX, đánh dấu một bước ngoặt và mở ra một giai đoạn mớitrong cuộc đấu tranh chống Pháp của nhân dân Huế và nhân dân Việt Nam, đó làphong trào Cần Vương (1885 - 1896).
Hưởng ứng lời kêu gọi của vua Hàm Nghi, phong trào Cần Vương phát triển rộngkhắp các tỉnh và phát triển qua hai giai đoạn. Giai đoạn từ tháng 7 năm 1885 đếnkhi vua Hàm Nghi bị bắt tháng 11 năm 1888, phong trào Cần Vương đã phát triểnmạnh mẽ bao gồm hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ. Ở Thừa Thiên Huế có giađình Tơn Thất Thuyết, các nhân vật Hồ Văn Hiển, Đặng Huy Cát, Đặng Hữu Phổ,Thân Trọng Di…Ở Bình Định có khởi nghĩa Mai Xn Thưởng. Ở Quảng Ngãi cóLê Trung Đình. Tỉnh Quảng Nam có Nguyễn Duy Hiệu. Tỉnh Quảng Trị có TrươngĐình Hội. Ở Quảng Bình có phong trào của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân. ỞNghệ An có phong trào của Nguyễn Xn Ơn…
Giai đoạn 1888 - 1896 có các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như khởi nghĩa Bãi Sậycủa Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Ba Đình của Đinh Cơng Tráng, khởi nghĩaHồng Lĩnh của Tống Duy Tân và đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hương Khê của PhanĐình Phùng và Cao Thắng trên địa bàn bốn tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tình -Quảng Bình từ năm 1885 - 1896. Đây là cuộc khởi nghĩa có quy mơ lớn nhất và kéo
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">dài nhất, đồng thời cũng đánh dấu sự thất bại chung của phong trào đấu tranh vũtrang chống Pháp dưới danh nghĩa Cần Vương.
Phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX là phong trào dân tộc tuy thất bại nhưngđã tô thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Phong trào Đông du những năm cuối thế kỷ XIX, là một trong những phong tràoyêu nước tiêu biểu nhất của giai đoạn lịch sử cận đại của đất nước. Đó là một cuộcvận động “cầu học” lớn lao, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Việt Nam, do PhanBội Châu cùng với Tiểu La Nguyễn Thành, cùng các yếu nhân của Duy Tân hội ởQuảng Nam khởi xướng.
Phong trào Đông Du là trào lưu du học tại Nhật Bản của thanh niên Việt Nam,nhằm tìm đường cứu nước do Hội Duy tân mà linh hồn là Phan Bội Châu khởixướng từ những năm 1905. Đơng Du được hình thành trong sự điều chỉnh về nhậnthức của Phan Bội Châu cùng với những cơ hội từ phía Nhật Bản chỉ có được trongthời gian này - đã trở thành hạt nhân của Duy Tân hội.
Phong trào đông du ra đời chủ yếu nhờ vào sự phát triển của công nghệ thông tinvà viễn thông, giúp việc di chuyển và truyền tải thông tin trở nên dễ dàng hơn. Sựtăng cường giao lưu văn hóa và quan hệ đa dạng quốc tế cũng góp phần khuyếnkhích tinh thần khám phá và khát vọng du lịch của người trẻ. Những yếu tố này đãtạo nên một môi trường thuận lợi để phong trào đông du phát triển mạnh mẽ trongthời gian gần đây.
Mục tiêu chính của phong trào đông du là mở rộng kiến thức, nâng cao nhậnthức và hiểu biết về các quốc gia và văn hóa trên thế giới. Ngồi ra, phong trào cịnnhằm xây dựng tình đồn kết và hợp tác giữa các thành viên trong cộng đồng, tạođiều kiện cho sự phát triển cá nhân và khám phá bản thân. Tầm quan trọng củaphong trào đơng du đó là tạo ra một thế hệ trẻ hiểu biết, tích cực và có tinh thầnhợp tác với quốc gia và văn hóa khác nhau, góp phần xây dựng một cộng đồng tồncầu hài hịa và phát triển.
Đầu năm 1905, Phan Bội Châu vượt biển qua Nhật Bản “cầu viện”. Việc khôngthành, Cụ Phan Bội Châu lập tức chuyển thành “ cầu học” và kịp thời phát độngphong trào tuyển chọn thanh niên yêu nước qua Nhật Bản học tập, đào tạo nhân tài
<i>để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước “Việt Nam mới”</i>
văn minh và tiến bộ. Ban đầu Phan Bội Châu đưa ba thanh niên là: Nguyễn Thức
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Canh, Nguyễn Điển, Lê Khiết sang, tiếp đó là đồn năm người trong số đó có haianh em Lương Ngọc Quyến và Lương Nghị Khanh (là con cụ Lương Văn Can).Năm 1906, Cường Để (hội chủ Duy Tân Hội) cũng bí mật sang Nhật được bố tríhọc ở trường Trấn Võ. Phong trào này được gọi là phong trào Đông Du. Lực lượng
<i>lòng cốt phong trào là Duy Tân hội (do Phan Bội Châu và hơn 20 đồng chí khácthành lập năm 1904, chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam) và</i>
Phan Bội Châu thực hiện. Những hoạt động yêu nước của phong trào đầy sôi nổi vàkhí thế từ năm 1905 đến năm 1908. Phong trào Đơng Du có mục đích kêu gọi thanhniên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơcho việc giành lại độc lập cho nước nhà.
Trong q trình hoạt động Đơng Du tại nước ngoài, Phan Bội Châu cũng thành lậpra “ một tiểu cơ quan” gọi là Việt Nam thương đồn Cơng hội ở Hương Cảng, nó làmột địa điểm liên lạc, là “hộp thư trung chuyển” giữa chặng đường từ Việt sangNhật.
<i><b>Phan Bội Châu (người ngồi) và Kỳ ngoại Hầu Cường Để, hai nhân chínhcủa phong trào Đơng Du tại Nhật Bản năm 1907</b></i>
Đến năm 1908 số học sinh Việt Nam tại Nhật lên tới 200 người. Chương trình học tập khá đa dạng, sáng và trưa dạy tiếng Nhật, “học tri thức phổ thông”, buổi chiều dạy “tri thức quân sự”, đặc biệt là “tập luyện thao tác quân sự”, nhằm đào tạo những người có trình độ văn hóa và quân sự cần thiết chuẩn bị cho công cuộc bạo động đánh Pháp giành lại độc lập. Tháng 10 năm 1907, Phan Bội Châu và các đồng chí của ơng đã lập ra Hội Việt Nam Công Hiến (Công Hiến Hội), có trương trình riêng. Phan Bội Châu làm Tổng lý kiêm Giám đốc và Kỳ ngoại Hầu Cường Để làm chủ tịch hội. Dưới quyền hành chung của Ban lãnh đạo. Hội được chia ra thành 4 Bộ, mỗi Bộ đảm nhiệm từng mặt hoạt động của lưu học sinh. Các ủy viên của Bộ kinh tế đón vai trò trong việc thu, chi và các việc trù bị. Đồng thời họ cũng là người giỏi vận động, tranh thủ sự giúp đỡ cả trong và ngoài nước. Việt Nam cống hiến rất chú trọng tổ chức những buổi “sinh hoạt chính trị” giúp học sinh rèn luyện tư tưởng,
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">đạo đức cách mạng. Tại các chương trình nghị sự, có mặt đơng đủ học viên thì Hội trưởng và Tổng lý huấn thị trước như khuyến cáo các vấn đề có liên quan đến sinh hoạt, học tập, có khi bình giảng nội dung một cuốn sách, nhắc nhở nhiệm vụ của cácthành viên trước Tổ quốc. Sau đó tự do trao đổi, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ. Hệ thống tổ chức bố trí nhân sự và điều hành hoạt động ở đây tựa như một “Chính phủ lâm thời” mà lời Phan Bội Châu bộc bạch.
Cũng chính vào lúc này đế quốc Pháp đã tìm ra nhiều manh mối của phong trào.Đếquốc Pháp và phong kiến tay sai lo ngại trước sự phát triển của phong trào Đơng Duđã nhanh chóng câu kết với giớ cầm quyền Nhật Bản để bóp chết phong trào ngay từ buổi đầu còn trứng nước. Pháp và Nhật cùng nhau ký kết hiệp ước: Pháp đồng ý cho Nhật vào bn bán ở Việt Nam, cịn Nhật cam đoan không cho các nhà yêu nước Việt Nam trú ngụ và hoạt động trên đất Nhật.
<i><b>Một số lưu học sinh của phong trào Đông Du (1905-1908).</b></i>
Tháng 9 năm 1908, khi các học sinh trường Trấn Võ đang làm lễ tốt nghiệp thìBộ Nội vụ Nhật hạ lệnh giải tán tổ chức học sinh Việt Nam, tịch thu các văn kiện,đuổi học sinh ra ngoài nước Nhật. Tháng 2 năm 1909, Phan Bội Châu, Cường Đểcũng bị trục xuất ra khỏi nước Nhật. Phan Bội Châu và các đồng chí của Cụ phảitrốn về Trung Quốc rồi qua Xiêm hoạt động một thời gian chờ đợi những cơ hộimới.
Tồn tại được khoảng bốn năm, nhưng phong trào Đông Du được coi là thành tíchlớn trong sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu và Duy Tân Hội, vì đã đào tạođược một số cán bộ cách mạng mới, có nhiệt tình cao, có truyền thống chịu đựngđược gian khổ. Trong số họ nhiều người trở thành những chiến sỹ cách mạng rất tậntụy với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX.
<b>2.3. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục</b>
Phong trào Đông Kinh nghĩa Thục là một phong trào đấu tranh dân tộc nổi lêntrong thời kỳ đầu thế kỷ XX tại Đông Kinh (nay thuộc Hà Nội, Việt Nam) nhằmchống lại thực dân Pháp. Phong trào được hình thành và phát triển mạnh mẽ tronggiai đoạn 1906-1908, dẫn đến việc thành lập Hội Kỷ vọng nam nghĩa thục là tổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">chức trung ương của phong trào. Đơng Kinh nghĩa Thục đã góp phần tiếp thêm đàcách mạng cho Việt Nam và để lại tầm ảnh hưởng và tác động lớn trong lịch sử dântộc.
Phong trào Đông Kinh nghĩa Thục đã xuất hiện và phát triển trong bối cảnh ViệtNam đang chịu sự áp bức của thực dân Pháp. Ban đầu, phong trào bắt đầu như mộtgiải pháp trung gian cho việc phản đối thực dân bằng cách tìm kiếm sự giúp đỡ từchính quyền nước Pháp. Tuy nhiên, sau đó, phong trào đã dần chuyển sang cácphương án đấu tranh mạnh mẽ, bằng các biểu tình, cuộc tụ tập và tổ chức hội nghịđể thúc đẩy tinh thần đoàn kết và sự đoàn kết dân tộc. Sự hình thành và phát triểncủa phong trào Đông Kinh nghĩa Thục đã làm nên một cột mốc quan trọng tronglịch sử dân tộc Việt Nam.
Trong phong trào Đông Kinh nghĩa Thục, có nhiều nhân vật tiêu biểu đã đóng vaitrị quan trọng trong việc lãnh đạo và cổ vũ sự phản đối thực dân. Một trong nhữngnhân vật nổi bật là Phan Bội Châu - một nhà cách mạng và triết gia nổi tiếng củaViệt Nam. Ơng đã đóng vai trò chủ chốt trong việc lập và lãnh đạo Hội Kỷ vọngnam nghĩa thục, làm cho phong trào trở nên đồng đều và lớn mạnh hơn. Ngoài ra,các nhân vật khác như Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học cũng đã đóng góp tolớn vào sự phát triển của phong trào
<b>2.3.3. Các hoạt động của phong trào</b>
Những biến động chính trị, kinh tế, xã hội và quân sự ở khu vực Đông Á cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã có tác động mạnh mẽ đến một nước Việt Nam bị phân cắt thành 3 kỳ (Bắc, Trung, Nam), nằm trong vịng kiểm sốt của những hệ thống chính trị bảo hộ - thuộc địa của Pháp. Thất bại của Mậu Tuất Duy Tân ở Trung Hoa năm 1898 đã dẫn đến sự lưu vong của Khang Hữu Vi (Kang Youwei, 1858-1927) và Lương Khải Siêu (Liang Qichao, 1873-1929) ở Nhật, và đó cũng chính là một trong những khởi điểm quan trọng cho việc tiếp xúc và truyền bá tư tưởng chính trị, triết học phương Tây (đã được dịch khá nhiều ở Nhật) vào thế giới Đơng Á (bao gồm Việt Nam) qua hình thức “tân thư”.
Chiến thắng của Nhật Bản trong chiến tranh Nhật-Nga (1905) cùng với những thành tựu cải cách chính trị, kinh tế, giáo dục, xã hội của nước này trong giai đoạn Minh Trị Duy Tân (1868-1889) đã khiến các nước Đông Á phải nhận thức lại tiềm lực cách mạng, cải cách của chính mình để đối đầu với hiểm hoạ thơn tính từ phương Tây.
Dân trí, dân khí và dân sinh nổi lên như những yếu tố cốt tuỷ, then chốt mở lối cho dân tộc tự cường và hiện đại, cần được đặc biệt quan tâm và triển khai từ nền tảng giáo dục. Mơ hình giáo dục Nhật Bản, đặc biệt là Khánh Ứng Nghĩa Thục
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">(Keio Gijuku) được Phan Bội Châu (1867-1940) và Phan Châu Trinh (1872-1926) cùng thăm thú, quan sát năm 1906, đã trở thành nguồn cảm hứng cho việc thành lậpĐKNT do cụ Cử Lương Văn Can (1854-1927) làm Hiệu trưởng ở phố Hàng Đào (Hà Nội) năm 1907.
Tháng 3 - 1907, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền lập trường học lấy tên là Đông Kinh nghĩa thục, trường dạy các môn khoa học; tổ chức các buổi diễn thuyết, xuất bản sách báo tuyên truyền tinh thần yêu nước...
Phạm vi hoạt động khá rộng: Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình... Tuy nhiên, đến tháng 11 - 1907, thực dân Pháp ra lệnh đóng cửa trường. Thơng qua các hoạt động, Đơng Kinh nghĩa thục góp phần thức tỉnh lòng yêu nước, truyền bá tư tưởng dân chủ, dân quyền và một nền văn hóa mớiở nước ta.
Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn khoảng 10 tháng, từ tháng 3 Dương lịch năm 1907 cho đến khi bị chính quyền thuộc địa đóng cửa vào đầu năm 1908 (tháng Chạpnăm Đinh Mùi Âm lịch), “Đông Kinh Nghĩa Thục” là một trong những cải cách quan trọng nhất trong lịch sử giáo dục Việt Nam, được tiến hành không phải từ trên xuống, mà từ dưới lên, bắt nguồn trong dân chúng, do nhân sĩ đề xướng, theo định hướng độc lập dân tộc, khát vọng yêu nước, mong cầu tiến bộ về tri thức, tư duy và dân chủ nhằm phá bỏ những kìm hãm, trì trệ của xã hội thuộc địa và quân chủ Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Hẳn là nguyên nhân chính khiến chính quyền thực dân Pháp quyết định đóng cửa “Đơng Kinh Nghĩa Thục” khơng phải chỉ vì những nội dung giáo dục tiến bộ về khoa học phổ thông của nhà trường, mà quan trọng hơn là vì nguy cơ nối kết giữa việc đào tạo con người có tư duy khoa học, cởi mở - phản biện, nặng lòng ái quốc, có ý thức học hỏi - tiếp nhận từ 5 châu, 4 bể nhưng luôn hướng đến độc lập quốc giavới những cuộc khởi nghĩa vũ trang vẫn đang tồn tại, ln chờ dịp bùng phát trong cả nước.
Có một khoảng cách đáng kể giữa thời gian hiện hữu của “Đông Kinh Nghĩa Thục” và thời gian ra đời của những khảo cứu về ngôi trường lịch sử này. Phải đến gần 30 năm sau khi bị đình chỉ, những tập chuyên luận đầu tiên về nhà trường mới được biên soạn, nhưng số phận của chúng cũng thật truân chuyên.
Sách Đông Kinh Nghĩa Thục của Đào Trinh Nhất (1900-1951) do nhà xuất bản Mai Lĩnh in số lượng lớn 10,000 bản vào tháng 12 năm 1937 ở Hà Nội vừa đến với người đọc vài tháng đã bị cấm cùng với một khảo cứu khác của ông có tên Đời cáchmệnh Phan Bội Châu, khơng ai được “giới thiệu, lưu hành, bày bán, phân phối” trêntoàn cõi An Nam từ ngày 17 tháng 3 năm 1938. Cũng từ năm 1936, Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1902-1977) đã có ý thức thu thập thơng tin và trình bày rải rác về ĐKNT trên các tuần báo Thế giới (Sài Gòn) và Tân Việt Nam (Hà Nội). Đến năm 1945, khi tài liệu đã khá dày dặn, ông soạn thành sách Đông Kinh Nghĩa Thục,
</div>