Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Cơ Chế Pháp Lý Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Và Liên Hệ Thực Tế Việc Kiểm Soát Quyền Lực Của Các Thiết Chế Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Tại Địa Phương. .Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.23 KB, 11 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>Chủ đề: Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước và liên hệ thực tế việc kiểm soát quyền lực của các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước tại địa phương. </b>

<b>BÀI LÀM </b>

Nhà nước là tổ chức đặc bỉệt của quyền lực chính trị, bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và quản lỷ xã hội, liên kết mọi thành viên xã hội, phục vụ lợi ích chung của xã hội và của lực lượng cầm quyền trong xã hội. Quyền lực nhà nước là quyền lực gắn liền với sự ra đời của nhà nước; theo đó, nhà nước được áp đặt ý chí và buộc những chủ thể khác trong xã hội phải phục tùng mệnh lệnh của mình nhằm đảm bảo an ninh, duy trì trật tự xã hội. Quyền lực nhà nước tồn tại trong mối quan hệ giữa nhà nước với chủ thể cịn lại trong xã hội; trong đó, nhà nước là chủ thể quyền lực, các cá nhân, tổ chức còn lại là đối tượng của quyền lực ấy và họ phải phục tùng ý chí của nhà nước. Việc trao quyền lực cho phép nhà nước áp đặt, buộc các chủ thể khác trong xã hội tuân thủ theo ý chí của giai cấp cầm quyền. Điều này đặt ra một vấn đề, đó là sự tha hóa và lạm dụng quyền lực. Chúng làm biến chất đi mục đích việc trao quyền lực cho nhà nước, gây ra nhiều hiện tượng gây hại cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Khi đó, cần phải có sự kiểm sốt quyền lực, bởi chính chủ thể đã trao quyền lực này cho nhà nước.

Kiểm soát quyền lực nhà nước là hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá của các thiết chế có thẩm quyền nhằm ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, hành vi, việc làm sai trái của các chủ thể trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước; đảm bảo cho quyền lực nhà nước được sử dụng và thực hiện theo đúng hiến pháp và pháp luật, đạt được mục đích và hiệu quả.

Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể các thể chế pháp lý và các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm sốt quyền lực nhà nước, có mối quan hệ chặt chẽ, được vận hành theo nội dung và các phương thức do pháp luật quy định nhằm phòng ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.

<b>Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước có đặc điểm như sau: </b>

<i>Một là, cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước là một chỉnh thể thống </i>

nhất, gồm thể chế pháp lý và các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Các yếu tố này có mối quan hệ tác động qua lại, cùng hướng đến việc thực hiện mục tiêu của hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước được vận hành trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng và hiệu quả.

<i>Hai là, căn cứ vào chủ thể và tính chất của các biện pháp áp dụng trong </i>

kiểm sốt quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế hay khơng có tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước, cơ chế này có thể được phân chia thành: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước (sự kiểm soát giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) và bên ngoài bộ

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

máy nhà nước (nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của đảng, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội...). Mặc dù có sự khác nhau về chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý nhưng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong và bên ngồi có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau.

<i>Ba là, căn cứ theo các lĩnh vực của việc thực hiện quyền lực nhà nước có thể </i>

phân chia thành cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền lập pháp, cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp và cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp. Ngay trong mỗi cơ quan nhà nước, tùy theo vị trí, tính chất, chức năng mà pháp luật quy định có những biện pháp, cách thức để kiểm soát quyền lực nhà nước trong nội bộ từng cơ quan. Tuy nhiên, dù được tổ chức và hoạt động như thế nào thì đều bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung.

<b>Các bộ phận cấu thành của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước gồm: thể chế pháp lý và thiết chế pháp lý. </b>

<i><b>Thể chế pháp lý của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng </b></i>

thể các quy tắc xử sự do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, thừa nhận và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, hành vi vi phạm pháp luật của các chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước vận hành theo đúng hiến pháp và pháp luật. Thể chế pháp lý về kiểm sốt quyền lực nhà nước có cấu trúc chặt chẽ về nội dung và hình thức.

<i>Về nội dung, thể chể pháp lý bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật điều </i>

chỉnh các quan hệ xã hội về kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, cụ thể như sau:

- Nhóm các quy phạm về phạm vi kiểm soát quyền lực nhà nước. Phạm vi giám sát được pháp luật quy định về giám sát đối với việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.

<b>- Nhóm quy phạm về nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước: nguyên tắc </b>

tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc tthực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động và trách nhiệm giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân và người đứng đầu cơ quan, tổ chức.

- Nhóm quy phạm về địa vị pháp lý của chủ thể và đối tượng kiểm soát quyền lực nhà nước. Các chủ thể thực hiện việc kiểm soát gồm các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức đồn thể nhân dân, các phương tiện thơng tin đại chúng, cá nhân công dân, cụ thể là: Đảng cộng sản Việt Nam, các cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), Chính phủ, UBND các cấp, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán Nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, đồn thể nhân dân khác, báo chí và cá nhân cơng dân. Đối tượng kiểm sốt gồm: cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp, chính quyền địa phương, các cá nhân được giao trách nhiệm và thẩm quyền trong thực hiện quyền lực nhà nước.

- Nhóm quy phạm về trình tự, thủ tục kiểm soát quyền lực nhà nước. Các quy định về thủ tục và trình tự kiểm sốt riêng cho từng cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quy định về các hình thức kiểm sốt như xem xét báo cáo của cơ quan nhà nước, chất vấn của đại biểu dân cử, giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, trưng cầu ý dân, phản biện xã hội.

- Nhóm quy phạm về hình thức, phương pháp kiểm soát quyền lực nhà nước: Đảng kiểm soát quyền lực Nhà nước thông qua việc kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đảng viên của Đảng trong các cơ quan nhà nước có thể bị cách chức nếu quan liêu,

<i>tham nhũng, vi phạm pháp luật đến mức bị xử lý kỷ luật Đảng. Hiến pháp năm 2013, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định hình thức giám sát của Mặt trận </i>

Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thơng qua hệ thống chính trị mà chủ yếu là thơng qua Nhà nước, với các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.

- Nhóm quy phạm về hậu quả pháp lý của kiểm soát quyền lực nhà nước. Đối với các hình thức kiểm sốt mang tính nhà nước, kết quả kiểm soát là việc ra các kiến nghị, yêu cầu, quyết định và biện pháp mang tính cướng chế đối với đối tượng kiểm sốt. Có thể là đình chỉ, bãi bỏ, hủy bỏ, tạm ngưng, sửa đổi văn bản pháp lý mà đối tượng bị kiểm sốt đã ban hành; hoặc có thể là các biện pháp mang tính chế tài xử lý như cách chức, giáng chức, truy tố người vi phạm trước pháp luật; giải thể cơ quan, tổ chức. Đối với kiểm soát xã hội (kiểm soát của các tổ chức, đồn thể xã hội, báo chí) khơng mang tính cưỡng chế nhà nước thì chỉ ở mức độ kiến nghị hoặc thông qua dư luận xã hội đề nghị các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý các vi phạm của đói tượng bị kiểm sốt.

<i>Về hình thức, thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước được biểu hiện </i>

trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, được sắp xếp theo một trật tự pháp lý từ hiến pháp đến các văn bản dưới luật. Trong đó, hiến pháp có giá trị hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp kiến tạo nên mơ hình của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước, quy định những nguyên tắc nền tảng, địa vị pháp lý của các chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp được khẳng định là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất ghi nhận, thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm soát quyền lực nhà nước. Lần đầu tiên, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được hiến định (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Sau khi Hiến pháp có hiệu lực, nhiều đạo luật, văn bản dưới luật được ban hành khơng ngừng hồn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể kể ra một số văn bản pháp luật hiện hành, như: Hiến pháp năm 2013; Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Thanh tra năm 2010; Luật Viên chức năm 2010; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013; Luật Tiếp công dân năm 2013; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015; Luật Tố cáo năm 2018; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2019; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2018; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020... Ngoài các văn bản luật trên đây, thể chế pháp lý của cơ chế kiểm sốt quyền lực bên ngồi bộ máy nhà nước cịn có nhiều văn bản dưới luật tạo ra chỉnh thể thống nhất, có mối liên hệ chặt chẽ cùng hướng đến việc thực hiện quyền kiểm soát của các thiết chế bên ngoài bộ máy nhà nước (Đảng, tổ chức xã hội, thiết chế truyền thông, nhân dân...) đối với các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước, giúp cho cơ chế pháp lý kiểm sốt bên ngồi quyền lực nhà nước ngày càng hiệu quả.

<i><b>Thiết chế pháp lý là hệ thống cơ quan, tổ chức bộ máy thực thi hoạt động </b></i>

kiểm soát quyền lực nhà nước. Căn cứ vào vị trí, vai trị, tính chất của các biện pháp áp dụng trong kiểm soát quyền lực nhà nước có tính cưỡng chế hay khơng có tính cưỡng chế của quyền lực nhà nước, các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước được phân chia thành hai nhóm: (1) các thiết chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước; (2) các thiết chế kiểm soát quyền lực bên ngoài bộ máy nhà nước.

Các thiết chế của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước bao gồm: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng Bầu cử quốc gia, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp...

Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện kiểm soát việc thực hiện quyền lực của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp thông qua việc xem xét báo cáo công tác, chất vấn, giám sát, thẩm tra văn bản quy phạm pháp luật, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm.

Chủ tịch nước kiểm soát hành pháp thông qua việc xem xét báo cáo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,... Chủ tịch nước kiểm sốt tư pháp thơng qua việc đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán các Tịa án khác, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;...

Chính phủ kiểm sốt lập pháp và tư pháp thơng qua nhiệm vụ cung cấp nhân sự và tài chính. Trong nội bộ hệ thống hành pháp, Chính phủ thực hiện kiểm sốt

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, chống quan liêu, tham nhũng...

Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn đình chỉ việc thi hành hoặc

<i>bãi bỏ những quyết định, thông tư của Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính </i>

phủ; quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan cấp trên; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái Hiến pháp...

Tịa án nhân dân có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thơi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, giải quyết trách nhiệm bồi thường của cơ quan và công chức nhà nước gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức trong quản lý hành chính. Hiến pháp quy định Viện kiểm sát nhân dân là thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước.

Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, bao gồm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động tư pháp khác có liên quan.

Kiểm tốn nhà nước giúp Quốc hội kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản cơng.

Hội đồng bầu cử quốc gia có vai trị quan trọng nhất trong bầu cử ở nước ta, bảo đảm các cuộc bầu cử hình thành cơ quan đại diện ở nước ta đạt được các tiêu chuẩn. Qua việc thực hiện vai trò này, Hội đồng bầu cử quốc gia cũng thực hiện được vai trị lớn hơn của mình với tư cách một cơ quan hiến định độc lập, đó là kiểm sốt quyền lực nhà nước.

Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản sai trái của các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân và văn bản sai trái của Uỷ ban nhân dân cấp dưới.

Các thiết chế của cơ chế pháp lý kiểm sốt quyền lực nhà nước bên ngồi bộ máy nhà nước bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Cơng đồn, Hội Nơng dân, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp: hội, liên hiệp hội, hội liên hiệp, Liên đoàn, Hiệp hội, phương tiện truyền thơng, cơ quan báo chí - là chủ thể đồng thời là phương tiện, công cụ để thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước và cộng đồng dân cư.

Đảng kiểm soát quyền lực đối với Nhà nước thông qua việc ban hành chủ trương, chính sách để Nhà nước cụ thể hóa bằng các quy định của pháp luật. Đảng cầm quyền có vai trị quyết định trong q trình xây dựng tổ chức Nhà nước, giới thiệu đảng viên ứng cử giữ các chức vụ quan trọng của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội để thực thi đường lối, chính sách của Đảng. Đảng kiểm sốt quyền lực Nhà nước thông qua việc kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng, đảng viên thực hiện chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

nước. Đảng viên của Đảng trong các cơ quan nhà nước có thể bị cách chức nếu quan liêu, tham nhũng, vi phạm pháp luật đến mức bị xử lý kỷ luật Đảng.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến cơ sở, bao gồm Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nơng dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân của các cơ quan nhà nước, tổ chức, đại biểu nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức.

Tổ chức xã hội - nghề nghiệp (hội, liên hiệp hội, hội liên hiệp,...) thực hiện hoạt động kiểm sốt quyền lực nhà nước thơng qua hình thức gửi phản biện, yêu cầu đối với các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền về việc thực thi chính sách, pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức.

Các cơ quan báo chí (báo in, báo hình, báo nói, báo điện tử) với chức năng đặc thù của mình, phản ánh những vấn đề trong thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước như ý kiến của công dân tham gia xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo đối với các cơ quan, tổ chức cá nhân. Các cơ quan báo chí có những tác động đến hoạt động kiểm soát quyền lực từ những phương diện sau: Cung cấp thông tin hoạt động của các cơ quan nhà nước, là một biện pháp để công khai, minh bạch hoạt động quyền lực nhà nước trước nhân dân. Hình thành dư luận xã hội, dư luận xã hội là cách thức để người dân tham gia lãnh đạo, quản lý xã hội, giám sát và kiểm soát việc thực hiện quyền lực Nhà nước; thông qua việc định hướng được tư tưởng, dư luận xã hội mà công chúng có cái nhìn khách quan hơn, tồn diện hơn về hoạt động của Nhà nước, hành vi của chủ thể có thẩm quyền, để

<i>từ đó có những phản hồi ngược lại với Nhà nước. Các cơ quan báo chí đóng vai trị </i>

<i><b>quan trọng trong giám sát và phản biện xã hội; thay mặt nhân dân, cơ quan báo chí </b></i>

tiến hành theo dõi, phát hiện, phản ánh trung thực và cảnh báo những sai lầm trong các quyết sách, hành vi vượt quá giới hạn của các cơ quan công quyền, các công chức, viên chức cơ quan hành chính nhà nước, từ đó góp phần điều chỉnh và hồn thiện dần hoạt động của hệ thống chính trị, thực hiện chức năng của “tịa án cơng luận”, nhằm hạn chế, kiểm soát việc lạm dụng quyền lực.

<b>Các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý kiểm sốt quyền lực nhà nước có mối quan hệ mật thiết, chi phối, tác động qua lại lẫn nhau, cùng quyết định hiệu quả hoạt động của toàn bộ cơ chế. </b>

<i>Thứ nhất, mỗi bộ phận của cơ chế pháp lý kiểm sốt quyền lực nhà nước có </i>

vị trí, vai trị khác nhau. Thể chế pháp lý định ra các nguyên tắc, phạm vi, địa vị pháp lý, hình thức, phương pháp, trình tự, thủ tục và hậu quả pháp lý của kiểm soát quyền lực nhà nước. Thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước có vai trị hiện thực hóa nội dung của thể chế pháp lý trên thực tế; chuyển tải những yêu cầu, nội dung thể chế pháp lý thành các quyền và nghĩa vụ, thẩm quyền của các chủ thể tương ứng. Các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước hoạt động trong khuôn khổ do thể chế pháp lý quy định, tuy nhiên, chúng cũng có tính ổn định tương đổi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>Thứ hai, giữa các bộ phận của cơ chế pháp lý kiểm sốt quyền lực nhà nước </i>

có quan hệ qua lại, tác động chặt chẽ với nhau. Thể chế pháp lý quy định cơ cấu, tổ chức, mơ hình kiểm sốt quyền lực nhà nước trên cơ sở đó xây dựng hệ thống các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm sốt quyền lực nhà nước. Ngược lại, q trình vận hành hệ thống các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm sốt quyền lực nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn, khoa học, hợp lý của thể chế pháp lý. Trên cơ sở đó, đặt ra yêu cầu tiếp tục hồn thiện nội dung và hình thức của thể che pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước.

<i>Thứ ba, trong cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước cịn có mối quan </i>

hệ, tác động qua lại giữa các thiết chế thực hiện nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước với đối tượng chịu sự kiểm soát. Do vậy, thể chế pháp lý phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của chủ thể thực hiện quyền kiểm soát quyền lực nhà nước; đồng thời, quy định trách nhiệm của các đối tượng chịu sự kiểm soát phải thực hiện những nhiệm vụ, biện pháp theo quy định của pháp luật để đạt được mục tiêu kiểm soát quyền lực nhà nước.

<i>Thứ tư, mỗi bộ phận cấu thành của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà </i>

nước phải đáp ứng những yêu cầu và tiêu chí nhất định. Ví dụ: thể chế pháp lý phải bảo đảm tính đồng bộ, đầy đủ, thống nhất... còn các thiết chế thực hiện kiểm sốt quyền lực nhà nước phải bảo đảm tính độc lập, đa dạng, phù hợp với đặc điểm các hình thức kiểm sốt quyền lực nhà nước với các quyền và nghĩa vụ pháp lý được xác định rõ ràng, cụ thể. Hình thức và phương pháp kiểm sốt đa dạng, phong phú phù hợp với các chủ thể kiểm sốt, trong khi đó trinh tự, thủ tục phải tiện lợi, dễ thực hiện, lôi cuốn các tầng lớp nhân dân tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước.

<b>Liên hệ thực tế việc kiểm soát quyền lực của các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước tại địa phương. </b>

Thành phố Ngã Bảy là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Hậu Giang, có diện tích 78,07 km², dân số năm 2019 là 101.192 người. Thành phố Ngã Bảy là trung tâm kinh tế - văn hóa - xã hội, đầu mối giao thông thứ hai của tỉnh Hậu Giang sau thành phố Vị Thanh. Thành phố Ngã Bảy có nhiều thuận lợi về vị trí địa lý và điều kiện phát triển giao thông, giao thương do nằm trên tuyến Quốc lộ 1A, giữa trung tâm thành phố Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Thành tích nổi bật của thành phố Ngã Bảy là huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và tồn dân tham gia xây dựng Ngã Bảy trở thành thành phố thuộc tỉnh, là đơn vị cấp huyện hồn thành chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư theo tiêu chuẩn thành phố; sản xuất, kinh doanh tiếp tục phát triển khá, đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân được nâng cao; quốc phòng, an ninh được giữ vững; hệ thống chính trị được củng cố, kiện tồn, khối đại đồn kết toàn dân được mở rộng; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể từng bước có chất lượng và hiệu quả. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Ngã Bảy lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 - 2025 xác định mục tiêu: Phát huy sức mạnh đoàn kết, tăng cường năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng, xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; chuyển

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

dịch mạnh cơ cấu kinh tế, ưu tiên đầu tư phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch và nâng chất các tiêu chuẩn thành phố; nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

Kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương là một yếu tố không thể thiếu trong tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước. Việc kiểm soát tốt quyền lực nhà nước ở địa phương giúp đảm bảo chất lượng dịch vụ công do địa phương cung ứng, đảm bảo quyền lợi của người dân và tránh sự lạm dụng quyền hạn của cơ quan nhà nước ở địa phương. Trong thời gian qua, các thiết chế thực thi hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước trên địa bàn thành phố Ngã Bảy được một số kết quả như sau:

- Hội đồng nhân dân thành phố Ngã Bảy được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phù hợp với các quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Ngồi Thường trực Hội đồng nhân dân, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố hiện nay có sự tham gia của Ban Kinh tế-Xã hội và Ban Pháp chế. Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố và các Ban của Hội đồng nhân dân thành phố thường xuyên theo dõi, đơn đốc, giám sát tình hình kinh tế - xã hội của thành phố; kịp thời đôn đốc, kiến nghị Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan khẩn trương giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri theo thẩm quyền. Trong năm 2020, Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố thực hiện 02 cuộc giám sát (01 cuộc giám sát về công tác bảo vệ môi trường trên địa bàn thành phố đối với Ủy ban nhân dân thành phố; 01 cuộc giám sát công tác cải cách hành chính trên địa bàn thành phố).

- Tịa án nhân dân thành phố Ngã Bảy hoạt động trên nguyên tắc độc lập trong xét xử; có quyền phát hiện, kiến nghị, xử lý các văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, pháp luật. Trong năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố Ngã Bảy đã thụ lý 462 vụ việc, đã giải quyết 428 vụ việc, tỷ lệ giải quyết đạt 92,6%. Số lượng án Toà án nhân dân thành phố đã thụ lý và giải quyết tăng so với cùng kỳ năm trước. Các bản án mà Toà án nhân dân thành phố tuyên đều rõ ràng, tính khả thi cao, đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, khơng có trường hợp nào kết án oan người khơng có tội, khơng bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, xác định cơng tác Hội thẩm nhân dân có vai trị đặc biệt quan trọng trong q trình thực hiện nhiệm vụ chun mơn, Tịa án nhân dân thành phố thường xuyên phối hợp, trao đổi với các cơ quan, đơn vị nơi có hội thẩm cơng tác, tạo điều kiện thuận lợi để các vị hội thẩm hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử mà nhân dân thành phố đã tín nhiệm giao phó.

- Thành ủy Ngã Bảy thực hiện công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên trong các cơ quan nhà nước trên địa bàn thành phố. Trong năm 2020, Ban Thường vụ Thành ủy Ngã Bảy tổ chức kiểm tra 02 cấp ủy viên và 02 tổ chức đảng; giám sát 02 cấp ủy viên và 05 tổ chức đảng; Ủy ban kiểm tra Thành ủy kiểm tra 04 cấp ủy viên và 01 chi bộ; thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 08, cảnh cáo 03, cách chức 01, khai trừ 01), tăng 05 đảng viên so với năm 2019. Đối với công tác tổ chức cán bộ, trong năm 2020, Ban Thường vụ Thành ủy điều động, phân công, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 21 trường hợp; tổ chức trao Huy hiệu Đảng các đợt cho 47 đảng viên; kết nạp 28 đảng viên, đạt 112% kế hoạch năm; thực hiện tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, chính sách cán bộ và cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các tổ chức chính trị-xã hội thành phố (Liên đồn Lao động thành phố, Hội Nông dân thành phố, Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh thành phố, Hội Cựu chiến binh thành phố) đã thực hiện tốt công tác giám sát xã hội, phản biện xã hội, góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền. Trong năm 2020, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các tổ chức chính trị-xã hội thành phố đã tổ chức 12 cuộc giám sát; phản biện dự thảo 02 Nghị quyết của Thành ủy Ngã Bảy; tham gia góp ý dự thảo nghị quyết Đại Hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 tiến tới Đại Hội Đại biểu lần thứ XIII của Đảng; nắm tình hình nhân dân, đề xuất biện pháp sát thực để giải quyết những vấn đề bức xúc trong nhân dân, biện pháp giám sát cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII. Phát huy Tổ nắm dư luận xã hội tại ấp, khu vực để tập hợp kịp thời ý kiến Nhân dân, ý kiến từ các tổ chức chính trị- xã hội, các tổ chức thành viên của Mặt trận để nâng cao chất lượng thông báo xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc các cấp tại các kỳ họp của Hội đồng Nhân dân.

- Báo chí và truyền thơng là công cụ quan trọng trọng trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương. Trong thời gian qua, hệ thống thông tin đại chúng đã thơng tin tun truyền kịp thời, trung thực, tồn diện đời sống chính trị, là cơ quan ngơn luận của Đảng và Nhà nước. Báo chí đã đưa chủ trương của Đảng, Nhà nước tới gần hơn với nhân dân, tham gia giám sát, phản biện, theo dõi quá trình xử lý các vụ việc; phát hiện những hạn chế, bất cập của thể chế pháp luật, cơ chế chính sách; phát hiện, đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Bên cạnh những kết quả đạt được, các thiết chế thực thi hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước trên địa bàn thành phố Ngã Bảy vẫn còn một số hạn chế:

- Hội đồng nhân dân thành phố có vai trị hạn chế trong việc giám sát thực thi quyền lực ở địa phương; còn gặp lúng túng, vướng mắc khi thực hiện hoạt động giám sát theo quy định. Kết quả giám sát trên một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thực tế đang đặt ra như: tài chính, ngân sách, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai,... Hoạt động giám sát cịn mang tính hình thức, thơng qua các cuộc họp giữa Ban giám sát với các bên liên quan, trong báo cáo ít đưa ra các hạn chế, chỉ báo, hiệu quả. Số lượng chuyên đề giám sát hàng năm tương đối ít, do đó khơng bao qt được hết tình hình của địa phương.

- Trong hoạt động xét xử của Tòa an nhân dân thành phố, sự phức tạp trong chủ thể vi phạm và yếu tố văn hóa địa phương, sự nể nang cịn tồn tại đã khiến cho tính độc lập trong xét xử của Tịa án đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính tại địa phương chưa được đảm bảo. Tòa án chưa được trao thẩm quyền phán quyết phân định thẩm quyền giữa chính quyền phán quyết tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật, thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương.

- Việc triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của Ban Thường vụ Thành ủy còn chậm, chưa chú trọng kiểm tra, giám sát trên các

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra sai phạm; thơng báo kết luận cịn chung chung; việc xử lý kỷ luật trong đảng, chính quyền và đồn thể chưa đồng bộ; việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau kiểm tra chưa được quan tâm đúng mức.

- Việc nắm bắt tình hình, giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng và những bức xúc trong các tầng lớp nhân dân thiếu kịp thời. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội cịn nặng nề cơng tác tun truyền, chưa xây dựng chuyên sâu các nội dung giám sát, phản biện dài hạn; thiếu đánh giá kết quả thực hiện.

- Nhiều cơ quan báo chí cịn tình trạng cung cấp các thông tin sai lệch, chưa được kiểm chứng, tràn lan các thông tin bôi nhọ, vu khống, tin giả trên mạng xã hội. Các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lợi dụng các trang mạng xã hội như Facebook, Youtube kết hợp với các đài, báo phản động ở bên ngoài để tuyên truyền phá hoại tư tưởng, tấn công trực diện vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước và hệ hống pháp luật Việt Nam nhằm tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm, tư tưởng, gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước tại địa phương.

<i>Những hạn chế nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân sau: Một là, hầu hết </i>

các ủy viên của Hội đồng nhân dân đều kiêm nhiệm, đối với các ủy viên không kiêm nhiệm là công dân được nhân dân bầu do không tham gia các hoạt động của chính quyền nên khơng nắm được vấn đề, khó kiểm tra, giám sát; điều này dẫn đến tình trạng kiểm sốt quyền lực nhà nước của Hội đồng nhân dân đối với Uỷ ban nhân dân cùng cấp mang tính hình thức, khơng hiệu quả; các vụ việc vi phạm đều

<i>do dân phát hiện tố giác, cấp trên về kiểm tra, xác minh mới xử lý kỷ luật. Hai là, </i>

Tòa án được tổ chức theo cấp hành chính nên chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng ở địa phương, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân, khiến các thẩm phán Tòa án địa phương ngại xử các vụ án hành chính liên quan đến những quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân. Việc khơng hồn tồn độc lập trong tư pháp cũng như cơ cấu Tòa án theo lãnh thổ,

<i>khiến cho hoạt động kiểm sốt quyền lực trở nên khó khăn. Ba là, lãnh đạo công </i>

tác kiểm tra, giám sát thực hiện quyền lực nhà nước tại địa phương đôi lúc chưa chủ động; nhiều vụ, việc do công luận bức xúc, các cơ quan chức năng mới vận

<i>hành để kiểm tra, giám sát. Bốn là, các hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc và </i>

các đồn thể chính trị - xã hội thành phố chưa sắc nét; gần như né tránh giám sát các hoạt động liên quan thực thi quyền lực của Chủ tịch UBND thành phố.

Từ những hạn chế và nguyên nhân nêu trên, học viên đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên địa bàn thành phố Ngã Bảy, cụ thể như sau:

<i>Một là, nâng cao vai trò, vị thế thực sự của Hội đồng nhân dân trong việc </i>

quyết định các vấn đề của địa phương, giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan hành chính tại địa phương. Để nâng cao vai trị, vị thế của Hội đồng nhân dân, cần phải đổi mới cơ chế bầu cử để đảm bảo quyền bầu cử thực chất của nhân dân; đổi mới cơ chế tổ chức của Hội đồng nhân dân theo hướng nâng cao tính độc lập của Hội đồng nhân dân so với Ủy ban nhân dân, hạn chế chế độ kiêm

</div>

×